VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THU HẰNG
CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI NGHÈO TỪ THỰC TIỄN
TỈNH AN GIANG
Chuyên ngành
Mã số
: Công tác xã hội
: 60.90.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn đảm bảo tin cậy, chính xác,
trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Trần Thu Hằng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
Ch
10
ng 1 NH NG VẤN Đ L LUẬN V CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nhu cầu của người nghèo
10
1.2. Khái niệm, các nguyên tắc, nội dung của công tác xã hội đối với người
nghèo
15
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội đối với người nghèo
25
1.4. Cơ sở pháp lý liên quan đến công tác xã hội đối với người nghèo
28
Ch
33
ng 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI
NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG
2.1. Các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh An Giang ảnh hưởng đến
33
công tác xã hội đối với người nghèo ở tỉnh An Giang
2.2. Thực trạng hoạt động công tác xã hội đối với người nghèo ở tỉnh An
35
Giang
2.3. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội đối với người
57
nghèo tỉnh An Giang
Ch
ng 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
66
CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO TỪ THỰC TIỄN
TỈNH AN GIANG
3.1. Định hướng tăng cường công tác xã hội đối với người nghèo từ thực
66
tiễn tỉnh An Giang
3.2. Giải pháp tăng cường công tác xã hội đối với người nghèo
67
K T LUẬN
75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
77
PHỤ LỤC
81
DANH MỤC CÁC CH
VI T TẮT
LĐTBXH
Lao động- Thương binh và Xã hội
CTXH
Công tác xã hội
NVCTXH
Nhân viên công tác xã hội
ASXH
An sinh xã hội
DVXH
Dịch vụ xã hội
DTTS
Dân tộc thiểu số
MTQG
Mục tiêu quốc gia
XĐGN
Xóa đói giảm nghèo
BHYT
Bảo hiểm y tế
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1: Nhu cầu của người nghèo
37
Biểu đồ 2.1: Hiệu quả của công tác tuyên truyền
41
Biểu đồ 2.2: Hiệu quả hoạt động tư vấn, tham vấn
43
Bảng 2.2: Các dịch vụ, chính sách xã hội người dân được tiếp cận
44
Bảng 2.3: Tổng hợp số liệu hỗ trợ về giáo dục
45
Bảng 2.4. Tổng hợp số liệu hỗ trợ y tế cho người nghèo
46
Bảng 2.5. Số liệu hỗ trợ trợ giúp pháp lý cho người nghèo
47
Bảng 2.6. Số liệu về chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo
50
Bảng 2.7: Hiệu quả hoạt động tư vấn giới thiệu việc làm
55
Biểu đồ 2.3: Nhận xét của người dân về nhân viên CTXH
56
Bảng 2.8: Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội đối với người nghèo
57
Bảng 2.9. Một số yếu tố thuộc về bản thân người nghèo
58
Bảng 2.10. Một số yếu tố thuộc về cán bộ làm CTXH
60
Bảng 2.11. Một số yếu tố thuộc về cán bộ lãnh đạo địa phương
61
Bảng 2.12. Một số yếu tố thuộc về phong tục tập quán
63
Bảng 2.13. Một số yếu tố thuộc về tài chính cho giảm nghèo
64
MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Nghèo là một vấn đề xã hội mang tính chất toàn cầu, nó không chỉ diễn
ra ở các nước có nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển mà còn diễn ra ở các
nước đang phát triển và các nước công nghiệp. Theo thống kê, trong số hơn 7
tỷ người sống trên hành tinh này, hiện có khoảng 1 tỷ người nghèo, trong đó
nhiều người còn thiếu lương thực.
Chính phủ Việt Nam coi vấn đề giảm nghèo là mục tiêu quan trọng
xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong ba mươi
năm đổi mới và phát triển, Chính phủ Việt Nam đã triển khai thực hiện hàng
loạt chương trình, chính sách giảm nghèo ở tất cả các địa phương với đa
nguồn kinh phí, nhằm giảm tỷ lệ nghèo xuống mức thấp nhất, cả hệ thống
chính trị Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu thực hiện Chương trình mục tiêu quốc
gia giảm nghèo, đã đạt được những thành tựu to lớn và rất đáng tự hào, được
cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Việt Nam đã về đích trước mục
tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp quốc “giảm một nửa số người nghèo đói cùng
cực trên toàn thế giới vào năm 2015”.
Tuy nhiên, bên cạnh khối dân cư giàu có và khá giả ngày một gia tăng,
vẫn còn một bộ phận lớn dân cư tình trạng nghèo. Theo báo cáo của Bộ Lao
động- TBXH, tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ 14,2% (năm 2010) xuống
còn 4,25% (năm 2015). Tuy vậy, kết quả giảm nghèo giai đoạn 2010- 2015
chưa bền vững, chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa
được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Nhận thức
về trách nhiệm của một bộ phận người nghèo chưa cao, vẫn còn tư tưởng
trông chờ ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước chưa chủ động vươn lên thoát
nghèo…
1
Trong giai đoạn 2016- 2020 với phương pháp tiếp cận nghèo đa chiều,
mục tiêu cải thiện sinh kế và nâng cao chất lượng cuộc sống của người nghèo.
Cùng với những chính sách, công tác giảm nghèo đổi mới phương pháp tiếp
cận từ chủ yếu là thực hiện chính sách trợ cấp, bảo trợ cho người nghèo sang
tiếp cận theo phương pháp CTXH với người nghèo, đó là phát huy thế mạnh,
tính chủ động của người nghèo, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội để
giảm nghèo bền vững. Quyết định 32/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010- 2020 là căn cứ
pháp lý để triển khai các hoạt động trợ giúp cho các đối tượng nói chung,
trong đó có người nghèo. Sau hơn 5 năm triển khai thực hiện tại tỉnh An
Giang, CTXH với người nghèo đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần
phải nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng, tìm ra những mặt được và chưa
được trong quá trình thực hiện, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo trong những giai đoạn tiếp theo.
Từ những vấn đề đã nêu, trên cở sở lý thuyết, lý luận và những phương
pháp, kỹ năng CTXH đã được trang bị trong Chương trình Cao học CTXH
kết hợp với phân tích thực tiễn, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Công tác xã
hội đối với người nghèo từ thực tiễn tỉnh An Giang” làm đề tài Thạc sĩ công
tác xã hội.
2 Tình hình nghiên cứu
CTXH đã phát triển trên thế giới từ những năm đầu của thế kỷ XX, tiêu
biểu như là ở Anh, Mỹ, Canada,… Đến nay CTXH đã có mặt ở hầu hết các
quốc gia trên thế giới, với nỗ lực trợ giúp các nhóm người yếu thế, những
cộng đồng nghèo để họ vươn lên hòa nhập với sự phát triển chung của xã hội,
đảm bảo an sinh cho mọi người dân, tất cả vì sự tiến bộ của nhân loại và công
bằng xã hội. Đã có nhiều hội thảo, hội nghị, bài viết, công trình khoa học chia
sẻ kinh nghiệm hoạt động CTXH và xóa đói giảm nghèo, như:
2
Ngân hàng thế giới (2012), Báo cáo đánh giá Nghèo Việt Nam 2012,
Khởi đầu tốt nhưng chưa phải hoàn thành: Thành tựu ấn tượng của Việt Nam
trong giảm nghèo và những thách thức mới: Báo cáo đã đánh giá thành tựu và
chỉ ra những thách thức mới trong công tác giảm nghèo của Việt Nam đó là:
Khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng, đặc biệt khoảng cách giữa dân tộc
kinh với các DTTS; bộ phận nghèo còn lại tập trung nhiều ở vùng sâu, vùng
xa, vùng DTTS và ngày càng khó tiếp cận hơn. Báo cáo cũng phân tích và
chứng minh những nhân tố đặc trưng của người nghèo hiện nay, đó là: học
vấn, kỹ năng làm việc, sản xuất còn nhiều yếu tố tự cung tự cấp, cô lập về địa
lý, xã hội, chịu nhiều rủi ro thiên tai… Nghĩa là để có giải pháp đột phá cho
những đối tượng nghèo còn lại là không hề dễ dàng và đó cũng là thách thức
lớn đối với cuộc chiến chống đói nghèo trong những năm tiếp theo.
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2011), Giảm nghèo ở Việt Nam:
Thành tựu và Thách thức. Báo cáo đã chỉ ra những thành tựu trong công cuộc
giảm nghèo của Việt Nam trong giai đoạn qua là rất tốt, nhưng không đồng
đều và chưa bền vững; Báo cáo cũng đã bước đầu chỉ ra phương pháp đo
lường nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn tới cần có sự thay đổi theo hướng
người nghèo cần tiếp cận được với các dịch vụ xã hội cơ bản.
Trong cuốn tài liệu tập huấn “CTXH với những cá nhân có nhu cầu đặc
biệt“- Chương trình đào tạo cán bộ quản lý CTXH cấp cao, Cục Bảo trợ xã
hội, Học viện Xã hội Châu Á (2014). Cuốn sách đã trình bày một cách khái
quát về thực trạng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người khuyết tật, người cao
tuổi, người nghèo… trên thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay, đặc điểm
tâm sinh lý và nhu cầu của các nhóm đối tượng, một số chương trình chính
sách của nhà nước đối với các nhóm đối tượng, một số mô hình chăm sóc hỗ
trợ, các kỹ năng làm việc với các nhóm đối tượng.
Tại An Giang, đã có những công trình, đề tài nghiên cứu liên quan đến
vấn đề giảm nghèo và công tác xã hội như:
3
-“Giảm nghèo trong 18 năm đầu đời: Những động lực đói nghèo tại
Việt Nam – nghiên cứu tại An Giang và Đồng Tháp” (2013). Đề tài do Viện
Khoa học xã hội vùng Nam Bộ thực hiện. Căn cứ trên cơ sở số liệu khảo sát
mức sống hộ gia đình của Việt Nam và định tính về nghèo tiền tệ, nghèo đa
chiều ở trẻ em tại các địa bàn khảo sát, nhóm nghiên cứu đã đưa ra kết quả
kiểm chứng giả thuyết là: không nhất thiết trẻ em giàu về tiền tệ là có cuộc
sống tốt; các tác nhân tâm lý xã hội như nhận thức và thái độ của trẻ, thái độ
của cha mẹ các em sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc định hình các hệ quả
của nghèo đa chiều ở trẻ em, bất kể trẻ em có nghèo về tài chính hay không;
nguyên nhân nghèo là do cha mẹ đi làm ăn xa hoặc không có việc làm ổn
định, thu nhập thấp, nên không có điều kiện chăm sóc trẻ;… Qua đó, nhóm
cũng đã đề xuất các chính sách giảm nghèo cho trẻ như: phải có bộ công cụ
đo lường đầy đủ về nghèo ở trẻ em; nâng cao thu nhập và đảm bảo nguồn thu
nhập ổn định cho cha mẹ trẻ; thực hiện tốt các chính sách xã hội, cung cấp tốt
các dịch vụ xã hội cho trẻ em…
- Kỷ yếu hội thảo khoa học “Giảm nghèo bền vững ở An Giang cơ hội
và thách thức”, nhiều tác giả, An Giang (2014), đã phân tích, đánh giá thực
trạng, tính hiệu quả, có bền vững hay không trong công tác giảm nghèo ở An
Giang nói riêng và các tỉnh thành ĐBSCL hiện nay nói chung, đưa ra các
quan điểm lý luận, giải pháp căn bản nhằm thực hiện tốt trọng trách giảm
nghèo. Các báo cáo đã chỉ ra một số hiện trạng thoát nghèo chưa bền vững
như: cứ 03 hộ vừa thoát nghèo thì 01 hộ trở lại hộ nghèo, trong khi nhà nước
thực hiện hằng năm hơn 120 chính sách an sinh xã hội và 70 chính sách giảm
nghèo thì còn rất chồng chéo, thiếu hiệu quả; chính sách được đánh giá là
“cho không biếu không” đã làm triệt tiêu động lực thoát nghèo của một bộ
phận nhân dân; trong khi đó, vấn đề công ăn việc làm, lao động nông thôn
chưa đi đúng trọng tâm… Bên cạnh đó là cái nghèo triền miên do thiếu được
giáo dục, học hành, từ đó không đủ sức vươn lên thoát nghèo.
4
- Đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành CTXH “Công tác xã hội cá
nhân đối với trẻ em bị xâm hại tình dục từ thực tiễn huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang” của Nguyễn Hoàng Khanh (2016): Đề tài đã phân tích thực trạng trẻ
em bị xâm hại tình dục ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang và công tác hỗ trợ
nạn nhân đang được thực hiện tại địa bàn; việc vận dụng lý thuyết, kỹ năng và
phương pháp công tác xã hội cá nhân trong trợ giúp trẻ em bị xâm hại tình
dục vượt qua những khó khăn, ổn định cuộc sống. Trên cơ sở nghiên cứu đưa
ra các giải pháp để phát triển công tác xã hội trong việc hỗ trợ nạn nhân.
Song, các công trình, đề tài nghiên cứu nêu trên chỉ dừng lại ở một khía
cạnh như: vấn đề nghèo, giảm nghèo hoặc là công tác xã hội, chưa thấy có
công trình nào đi sâu nghiên cứu: Công tác xã hội đối với người nghèo ở tỉnh
An Giang.
Đề tài “Công tác xã hội đối với người nghèo từ thực tiễn tỉnh An
Giang” là một lĩnh vực mới mẽ trong bối cảnh An Giang đang tập trung
nguồn lực thực hiện Đề án 32 phát triển công tác xã hội thành một nghề
chuyên nghiệp và thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2016- 2020: „„Phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng
kinh tế của An Giang bằng mức trung bình của cả nước, đến năm 2020, quy
mô nền kinh tế nằm trong nhóm khá của khu vực đồng bằng Sông Cửu
Long”, theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ X, nhiệm kỳ
2015- 2020 đề ra.
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng công tác xã hội đối với
người nghèo trên địa bàn tỉnh An Giang từ đó đề xuất, khuyến nghị các định
hướng, giải pháp tăng cường công tác xã hội đối với người nghèo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
5
Nghiên cứu về Công tác xã hội đối với người nghèo từ thực tiễn tỉnh
An Giang. Để đạt được mục tiêu đề ra, khi nghiên cứu đề tài cần thực hiện
những nhiệm vụ như sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với người
nghèo.
- Phân tích, đánh giá thực trạng người nghèo, thực trạng hoạt động
công tác xã hội đối với người nghèo cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu
quả công tác xã hội đối với người nghèo trên địa bàn tỉnh An Giang.
- Đề xuất, khuyến nghị định hướng, các giải pháp tăng cường công tác
xã hội đối với người nghèo từ thực tiễn tỉnh An Giang.
4 Đối t ợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động công tác xã hội đối với người nghèo ở tỉnh An Giang, bao
gồm các hoạt động: tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức; hoạt động tư
vấn, tham vấn; hỗ trợ cho người nghèo tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản như
giáo dục, y tế, nhà ở, trợ giúp pháp lý; hoạt động hỗ trợ kết nối nguồn lực và
hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người nghèo.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực trạng các hoạt động công tác xã hội đối với người nghèo tại tỉnh
An Giang, các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề này.
- Phạm vi về khách thể nghiên cứu:
+ Người nghèo trên địa bàn tỉnh An Giang
+ Cán bộ làm công tác giảm nghèo, công tác xã hội tại An Giang
- Phạm vi không gian nghiên cứu: Khảo sát được tiến hành tại tỉnh An
Giang.
6
- Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu các hoạt động CTXH đối với người
nghèo từ năm 2011 đến năm 2016. Thời gian khảo sát từ tháng 10/2016 đến
02/2017.
5 Ph
ng pháp luận và ph
ng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về công tác giảm nghèo và Công tác xã hội đối với người nghèo .
Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng một số thuyết để phục vụ cho việc
nghiên cứu, như: Thuyết nhu cầu của Maslow và một số lý thuyết khác sử
dụng trong nghiên cứu đề tài nhằm giúp chúng ta có cơ sở, hiểu sâu hơn về
tâm, sinh lý, đặc điểm, nhu cầu của con người, nhất là người nghèo, cũng như
những yếu tố có liên quan đến các hoạt động hỗ trợ của CTXH đối với người
nghèo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu: Nghiên cứu và phân tích các tài liệu,
các công trình nghiên cứu đã được công bố về giảm nghèo cũng như công tác
xã hội; Các tài liệu, báo cáo đánh giá kết quả thực hiện các chính sách, các
báo kết quả thực hiện Đề án 32, Chương trình MTQG giảm nghèo giai đoạn
2011- 2015; Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 20162020.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: là phương pháp dựa trên hình
thức hỏi đáp gián tiếp dựa trên bảng các câu hỏi được soạn thảo trước, điều
tra viên tiến hành phát bảng hỏi, hướng dẫn thống nhất cách trả lời các câu
hỏi, người được hỏi tự đọc các câu hỏi trong bảng hỏi rồi ghi cách trả lời của
mình vào phiếu hỏi rồi gửi lại cho các điều tra viên.
Trong phạm vi đề tài này, học viên lựa chọn ngẫu nhiên 100 hộ nghèo
trên 2 huyện đại diện của tỉnh An Giang (huyện đồng bằng và huyện miền núi
7
dân tộc: Thoại Sơn, Tịnh Biên); 25 cán bộ làm công tác giảm nghèo cấp tỉnh,
huyện, xã để thu thập và phân tích thông tin.
- Phương pháp thảo luận nhóm đối với cán bộ và hộ nghèo: Bên cạnh
việc sử dụng phương pháp thu thập thông tin bằng bảng hỏi, học viên tiến
hành thảo luận, phỏng vấn với 02 nhóm hộ nghèo và cán bộ làm công tác
giảm nghèo tại Thoại Sơn, Tịnh Biên (mỗi nhóm 15 hộ nghèo và 4 cán bộ) về
kết quả thực hiện của một số hoạt động trợ giúp người nghèo nhằm thu thập
thông tin nhiều chiều hoặc trái chiều để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu về công tác xã hội đối với người nghèo từ thực tiễn tỉnh An
Giang có ý nghĩa khoa học quan trọng. Các kết quả nghiên cứu trong đề tài có
thể làm tài liệu tham khảo hữu ích cho hoạt động đào tạo CTXH đối với
người nghèo, ngoài ra còn có ý nghĩa tham khảo cho những ai đang nghiên
cứu, quan tâm về lĩnh vực này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn phân tích đánh giá thực trạng công tác xã hội đối với người
nghèo tỉnh An Giang, việc triển khai thực hiện các chế độ, chính sách, dịch vụ
dành cho người nghèo và các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề này.
Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả
hoạt động CTXH đối với người nghèo phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh
tế - xã hội của địa phương, góp phần thực hiện có hiệu quả chương trình giảm
nghèo bền vững tỉnh An Giang giai đoạn 2016- 2020.
Ngoài ra, luận văn cũng là tài liệu tham khảo cần thiết giúp cho các
nhân viên công tác xã hội, các cơ quan đoàn thể liên quan và đặc biệt là chính
quyền các cấp từ tỉnh đến cơ sở hiểu rõ hơn về các chính sách, chế độ ưu đãi,
các dịch vụ hỗ trợ của công tác xã hội đối với người nghèo, từ đó phối hợp
8
triển khai thực hiện có hiệu quả các hoạt động hỗ trợ của CTXH đối với
người nghèo trong thời gian tới.
7 Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với người
nghèo
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội đối với người nghèo trên địa bàn
tỉnh An Giang
Chương 3: Định hướng và các giải pháp tăng cường công tác xã hội đối
người nghèo từ thực tiễn tỉnh An Giang
9
Ch
ng 1
NH NG VẤN Đ L LUẬN V CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI NGHÈO
1 1 Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của ng ời nghèo
1.1.1. Một số khái niệm nghèo
Nghèo là một hiện tượng kinh tế xã hội, biểu hiện của nó là có một bộ
phận người dân sống dưới mức trung bình của xã hội về vật chất, tinh thần, khả
năng dễ bị tổn thương, bị ảnh hưởng bởi các vấn đề xã hội, vì vậy, đây là vấn đề
bức xúc cần quan tâm giải quyết. Hiện nay có nhiều khái niệm về nghèo.
Theo Liên hợp quốc (UN): “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham
gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ ăn, đủ
mặc, không được đi học, không được đi khám bệnh, không có đất đai để
trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp
cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an toàn, không có quyền, và bị
loại trừ của các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Nghèo có nghĩa là dễ bị
bạo hành, phải sống ngoài lề xã hội hoặc trong các điều kiện rủi ro, không
được tiếp cận nước sạch và công trình vệ sinh an toàn”. (Tuyên bố Liên Hiệp
Quốc, tháng 6/2008).
Tại Hội nghị về chống nghèo đói do Uỷ ban Kinh tế - Xã hội Khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tại tổ chức Bangkok, Thái Lan vào
tháng 9 năm 1993, các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cao rằng:
"Nghèo khổ là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn
những nhu cầu cơ bản của con người (ăn, mặc, ở, nhu cầu văn hoá, y tế, giáo
dục và giao tiếp) để duy trì cuộc sống, mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và
những phong tục ấy được xã hội thừa nhận".
Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại
10
Copenhagen, Đan Mạch năm 1995 cho rằng: "Người nghèo là tất cả những ai
mà thu nhập thấp hơn dưới 1 đô la (USD) mỗi ngày cho mỗi người, số tiền
được coi như đủ để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại".
Định nghĩa mới của Ngân hàng Thế giới (WB) đề cập đến nghèo ở
khía cạnh rộng hơn: “Nghèo là một khái niệm đa chiều vượt khỏi phạm vi
túng thiếu về vật chất. Nghèo không chỉ gồm các chỉ số dựa trên thu nhập mà
còn bao gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như dinh dưỡng, sức khoẻ,
giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có quyền phát ngôn và không có
quyền lực”.
Các khái niệm trên cho thấy sự thống nhất cao của các quốc gia, các tổ
chức quốc tế cho rằng nghèo là một hiện tượng đa chiều. Nghèo không chỉ
được đo lường bằng thu nhập, chi tiêu mà còn bởi khả năng tiếp cận một cách
đồng thời đến lương thực, nhà ở, giáo dục, chăm sóc sức khỏe và các mức
sống xã hội khác, ngay cả các chỉ báo phi vật chất. Nghèo đa chiều có thể
được hiểu là tình trạng con người không được đáp ứng ở mức tối thiểu một số
nhu cầu cơ bản trong cuộc sống.
Ở Việt Nam, nghèo được hiểu là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có
những điều kiện thoả mãn những nhu cầu tối thiểu và có mức sống thấp hơn
mức sống của cộng đồng xét trên mọi phương diện. Một cách hiểu khác:
Nghèo la một bộ phận dân cư có mức sống dưới ngưỡng quy định của sự
nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa
phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội cụ
thể của từng địa phương hay từng quốc gia. [21, tr. 2]. Hộ nghèo là hộ có thu
nhập bình quân trên đầu người trên tháng nhỏ hơn hoặc bằng chuẩn nghèo.
Để xác định hộ nghèo còn phải căn cứ vào tình trạng nhà ở và giá trị tài sản
và phương tiện sản xuất (nhà ở tạm bợ, tài sản không có giá trị, thiếu phương
tiện sản xuất) [4, tr. 7-8].
Từ năm 2015 trở về trước, hộ nghèo trên xác định là hộ gia đình có
11
mức thu nhập (bình quân đầu người) thấp hơn hoặc bằng chuẩn nghèo. Giai
đoạn 2016- 2020, người nghèo, hộ nghèo được xác định dựa trên cả tiêu chí
về thu nhập và mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội. Cụ thể:
Chuẩn nghèo theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011
của Thủ tướng Chính phủ áp dụng cho giai đoạn 2011- 2015 là:
- Thành thị: Từ 500.000 đồng/người/tháng trở xuống.
- Nông thôn: Từ 400.000 đồng/người/tháng trở xuống.
Chuẩn nghèo theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015
về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 20162020 là:
- Hộ nghèo khu vực nông thôn là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí
sau: (1) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở
xuống; (2) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến
1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận
các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
- Hộ nghèo khu vực thành thị là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
(1) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống;
(2) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000
đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ
xã hội cơ bản trở lên.
Các dịch vụ xã hội cơ bản bao gồm 5 dịch vụ: y tế, giáo dục, nhà ở,
nước sạch và vệ sinh, thông tin. Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các
dịch vụ xã hội cơ bản gồm 10 chỉ số: tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế;
trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà
ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu
hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.
12
1.1.2. Đặc điểm của người nghèo
Người nghèo là những người có tên trong sổ hộ nghèo. Người nghèo là
những người có cuộc sống bấp bênh vì không được tiếp cận với các chính
sách, dịch vụ. Họ thiếu các điều kiện đảm bảo các nhu cầu tối thiểu của con
người về ăn, mặc, ở, đi lại, học hành và chăm sóc sức khoẻ; tiếp cận với các
kết cấu hạ tầng và các nguồn lực xã hội kém; thiếu tự tin và dễ bị tổn thương;
ít có điều kiện tham gia vào các quyết định của địa phương và tăng trưởng,
phát triển kinh tế - xã hội [4, tr.5-6].
Đặc điềm người nghèo, thể hiện cơ bản như sau:
- Đặc điểm về kinh tế: Người nghèo thiếu các điều kiện để tạo ra thu
nhập như đất sản xuất đối với người nghèo ở nông thôn, thiếu vốn, việc làm
không ổn định và thu nhập thấp, nhiều người nghèo rơi vào tình trạng nợ
nần,... Do thu nhập thấp và không ổn định và chuyên môn kỹ thuật thấp,
thường xuyên phải đối mặt với thiếu thốn trong chi tiêu cho cuộc sống tối
thiểu.
- Đặc điểm về đời sống: Người nghèo thường đông con, già yếu, bệnh
tật,… Người nghèo sống thấp hơn mức sống trung bình của xã hội. Người
nghèo khó khăn về nhà ở; phương tiện đi lại; tiếp cận thông tin, y tế, pháp
lý,... hạn chế.
- Đặc điểm về xã hội: Từ những đặc điểm kinh tế và đời sống của người
nghèo dẫn tới vị trí xã hội của người nghèo cũng hạn chế. Người nghèo dễ bị
tổn thương khi có thiên tai hay những tác động về kinh tế như khủng hoảng,
biến động giá cả, gia tăng thất nghiệp. Người nghèo là đối tương dễ bị tổn
thương nhất khi môi trường xã hội biến động.
- Đặc điểm của bản thân người nghèo: Do nguyên nhân khách quan về
môi trường xã hội chưa hoàn thiện, năng lực chủ quan chưa thích ứng nên
người nghèo hạn chế trong giải quyết vấn đề, không tự nhận diện mặt mạnh
cũng như hạn chế của mình dễ rơi vào khủng hoảng, bế tắt. Phần lớn người
13
nghèo luôn tìm mọi cách để vượt qua hoàn cảnh khó khăn của mình, nhưng
do thiếu các nguồn lực nên không thể tự vươn lên thoát nghèo. Đối với đối
tượng này việc hỗ trợ thoát nghèo và vươn lên khá giả là có thể. Mặt khác, lại
có một bộ phận người nghèo thụ động chịu chấp nhận số phận, họ cảm thấy
sự tuyệt vọng, họ tự cô lập họ đối với người khác dẫn đến tình trạng không
muốn tìm việc làm, không muốn đi học, không muốn giao tiếp, không muốn
hợp tác... Điều này có thể dẫn đến sự căng thẳng, đè nén tăng theo năm tháng,
rối loạn tâm lý nặng hơn. Nguyên nhân rối loạn tâm lý sau này đó là sự căng
thẳng triền miên của nghèo đói vì không thấy lối ra.
1.1.3. Nhu cầu của người nghèo
- Nhu cầu có việc làm, thu nhập ổn định: Phần lớn lao động là người
nghèo sống ở nông thôn có công việc không ổn định, thu nhập thấp. Do vậy,
họ luôn mong muốn có được công việc, thu nhập ổn định. Có công việc, có
thu nhập họ mới có thể trang trải cuộc sống, mới đảm bảo các nhu cầu như ăn,
ở, mặc, học tập, chăm sóc sức khỏe cho bản thân và gia đình…
- Nhu cầu được học tập: Đây là một trong những nhu cầu quan trọng
của người nghèo. Ngoài nhu cầu về học tập phổ thông, người nghèo còn có
nhu cầu được đào tạo nghề, trang bị kiến thức, kỹ năng, kỹ thuật sản xuất nhất
là sản xuất nông nghiệp.
- Nhu cầu được tiếp cận thông tin: Do những hạn chế về thu nhập thấp,
thường sống ở vùng sâu, vùng xa nên người nghèo thường thiếu thông tin.
Chính vì vậy, họ cũng có nhu cầu được tiếp cận các thông tin về các loại hình
thiên tai, hiểm họa tự nhiên, thảm họa, biến đổi khí hậu; thông tin, kiến thức
và kỹ năng sản xuất, chăm sóc sức khỏe; thông tin về kinh tế, chính trị, xã
hội; thông tin về chính sách, pháp luật, thủ tục hành chính và các loại hồ sơ
giấy tờ cần thiết để được nhận hỗ trợ, bảo trợ từ Nhà nước và các tổ chức xã
hội…; nhu cầu hỗ trợ các phương tiện thông tin như sách, báo, đài radio…
14
- Nhu cầu được chăm sóc y tế: Đây là nhu cầu có thể nói là rất cần thiết
và được đa số người nghèo quan tâm. Bởi đa số họ, do sống trong điều kiện
thiếu thốn về vật chất nên dễ ốm đau, bệnh tật, hơn nữa lại thu nhập thấp nên
khi mắc bệnh lại không có tiền để chi trả chi phí khám chữa bệnh.
- Nhu cầu được sống trong môi trường an toàn, vệ sinh: phần lớn người
nghèo sống trong tình trạng thiếu thốn mọi mặt cơ sở vật chất thiết yếu cho
cuộc sống. Chính vì vậy, họ đều mong muốn được sống, sinh hoạt và sản xuất
trong một môi trường an toàn, đảm bảo những nhu cầu căn bản như nhà ở,
điện, nước sạch và thức ăn hợp vệ sinh để có thể đảm bảo cho sức khỏe, có
khả năng tái sản xuất sức lao động, tránh bị bệnh tật.
1.2. Khái niệm, các nguyên tắc và nội dung của công tác xã hội đối
với ng ời nghèo
1.2.1. Một số khái niệm
1.2.1.1. Khái niệm về công tác xã hội
Có nhiều khái niệm về CTXH được đưa ra ở các góc độ khác nhau:
Theo từ điển Bách khoa ngành CTXH (1995): “CTXH là một khoa học
ứng dụng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của con người, tạo ra những
chuyển biến xã hội và đem lại nền an sinh cho người dân trong xã hội”. [22, tr.12].
Hiệp hội quốc gia nhân viên công tác xã hội Mỹ (NASW – 1970):
“Công tác xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm, hoặc cộng
đồng tăng cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và
tạo những điều kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó” [22, tr.171].
Hiệp hội nhân viên công tác xã hội Quốc tế thông qua tháng 7 năm 2000
tại Montreal, Canada (IFSW): “Nghề công tác xã hội thúc đẩy sự thay đổi xã
hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực và giải
phóng cho con người, nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mãi, dễ
chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống, công tác xã hội
15
- Xem thêm -