Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chuyên đề thực trạng và giải pháp giao dịch mua ký quỹ trên thị trường chứng kho...

Tài liệu Chuyên đề thực trạng và giải pháp giao dịch mua ký quỹ trên thị trường chứng khoán việt nam

.DOC
60
134
112

Mô tả:

Chủ đề: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIAO DỊCH MUA KÝ QUỸ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ GIAO DỊCH KÝ QUỸ CHỨNG KHOÁN 1.1/. Khái niệm, đặc điểm, ưu nhược điểm và rủi ro của giao dịch ký quỹ chứng khoán Giao dịch ký quỹ có nguồn gốc từ thị trường tương lai về hàng hóa. Thị trường tương lai đã xuất hiện từ thời trung cổ, nó được phát triển để đáp ứng yêu cầu của giới nông dân và lái buôn. Đi vào phân tích tình huống nông dân ở thời điểm thu hoạch trong tương lai, giá cả hàng hóa có thể rất cao nhưng cũng có thể rất thấp và điều này ảnh hưởng rất nhiều đến họ nhất là khi họ cần tiền. Và tương tự, giới lái buôn cũng chịu rủi ro khi giá cả hàng hóa biến động ở tương lai, trong khi họ là những người luôn cần hàng. Do vậy nông dân và lái buôn gặp nhau trước thời điểm thu hoạch để thỏa thuận giá cả cho thời điểm họ có hàng hoặc cần hàng trong tương lai. Điều đó có nghĩa là họ đã thương lượng loại hợp đồng tương lai về hàng hóa – là loại hợp đồng cung cấp cách thức mua bán hàng hóa giữa các bên để có thể loại trừ rủi ro do giá cả hàng hóa không ổn định trong tương lai. Sự phát triển của thị trường tương lai, kèm theo sự gia tăng những rủi ro dẫn đến việc xuất hiện hệ thống thanh toán bù trừ các giao dịch. Nền tảng của thanh toán bù trừ là một hệ thống tiền gửi hoặc bảo lãnh tiền gửi, được yêu cầu từ những người tham gia thị trường tương lai. Trong thực tế trao đổi, những khoản tiền gửi này được gọi là giao dịch kỹ quỹ, đó là số tiền mà khách hàng phải trả vào tài khoản của công ty môi giới khi anh ta thiết lập vị thế, được gọi là ký quỹ, tỷ lệ kỹ quỹ thường 1-10% giá trị hợp đồng tương lai. Từ hoạt động kỹ quỹ trong giao dịch hàng hóa đã được vận dụng sang các sản phẩm tài chính khác như là chứng khoán (Giao dịch kỹ quỹ trên thị trường chứng khoán), ngoại tệ (Giao dịch ký quỹ at FOREX), vàng (Gold giao dịch kỹ quỹ) …và tiếp tục phát triển vào những năm 20 của đầu thế kỷ 20. 1.1.1/. Khái niệm mua ký quỹ chứng khoán Giao dịch ký quỹ chứng khoán là giao dịch mua bán chứng khoán của khách hàng có sử dụng tiền vay của công ty chứng khoán và sử dụng các chứng khoán khác có trong tài khoản và chứng khoán mua được bằng tiền vay để cầm cố Theo đó sản phẩm tài chính giao dịch ký quỹ là loại sản phẩm dịch vụ mà công ty chứng khoán (công ty môi giới) cung cấp cho khách hàng. Trong đó, công ty chứng khoán 1 (công ty môi giới) cho phép nhà đầu tư mượn tiền của nhà môi giới (công ty môi giới, công ty chứng khoán) để mua chứng khoán, trong trường hợp họ không đủ tiền để mua. Có thể hiểu, nó giống như một khoản vay thông thường có thế chấp, do một cá nhân thực hiện, để có tiền đáp ứng cho nhu cầu đầu tư. Ví dụ: Nhà đầu tư A dự đoán giá của cổ phiếu BVH tăng trong tương lai và muốn mua 3.000 cổ phiếu BVH với giá 50.000 đồng/cổ phiếu nhưng chỉ có 75 triệu đồng trong tài khoản. Nhà đầu tư A có thể vay CTCK nơi mở tài khoản 75 triệu đồng còn thiếu (50% vốn). Lợi nhuận nhà đầu tư A đạt được là chênh lệch giữa giá bán và giá mua 3.000 cổ phiếu này trừ đi lãi suất vay của CTCK. 1.1.2/. Đặc điểm mua ký quỹ chứng khoán + Trước hết là do tính chất đòn bẩy của giao dịch ký quỹ, cho phép NĐT giao dịch mua bán một số lượng chứng khoán lớn hơn nhiều lần chỉ với một khoản đặt cọc ít ban đầu, so với hình thức giao dịch hoàn toàn bằng tiền mặt. Khi NĐT phán đoán đúng tình hình thị trường, thì lợi nhuận từ giao dịch kỹ quỹ sẽ được khuyếch đại lên rất nhiều lần. + Hơn nữa đây là loại hình thường có mức lãi suất khá thấp so với lãi suất đi vay tiền mặt thông thường để mua chứng khoán. + Ngược lại, khi giá chứng khoán tăng, NĐT có thể rút bớt số tiền chênh lệch ra để kinh doanh tiếp hoặc tiêu dùng cho những mục đích cá nhân khác. Thích hợp với những NĐT với số vốn ít nhưng có thể mua lượng chứng khoán nhiều hơn số tiền thực có. + Lợi nhuận từ tài khoản ký quỹ có thể được sử dụng tiếp để đặt cọc mua thêm chứng khoán. + Không phải tất cả các loại chứng khoán đều được mua bằng hình thức giao dịch ký quỹ. Theo đó các chứng khoán vô danh, OTC, IPO (phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng) không được phép mua bằng hình thức giao dịch kỹ quỹ. Điều này làm giới hạn danh mục đầu tư của các NĐT. + Nhà đầu tư phải trả lãi và phí hoa hồng cho khoản vay nên nợ càng cao lãi phải trả càng nhiều. Điều này làm giảm thu nhập và vốn của NĐT. + NĐT không được quyền kéo dài thời gian của lệnh gọi ký quỹ. Đó là yêu cầu mà họ phải hoàn trả toàn bộ hoặc một phần nợ của họ bằng tiền mặt, hoặc nộp thêm chứng khoán từ bên ngoài vào tài khoản hoặc bán một số chứng khoán trong tài khoản của họ. 2 1.1.2/. Vai trò giao dịch ký quỹ chứng khoán 1.1.2.1/. Vai trò của giao dịch ký quỹ chứng khoán đối với TTCK Có kinh doanh là có vay nợ, do vậy hoạt động cung ứng và sử dụng dịch vụ "Đòn bẩy tài chính" sẽ còn có đất để phát triển. Lợi ích của hoạt động này (đối với nhà đầu tư, đối với tổ chức cung ứng dịch vụ và đối với thị trường) đã quá rõ, vấn đề còn lại là từng thành viên tham gia phải tìm cách để giảm thiểu đến mức thấp nhất tổn thất mà hoạt động này có thể gây ra. Vai trò to lớn nhất của giao dịch ký quỹ đối với thị trường chứng khoán là góp phần làm gia tăng tính thanh khoản, khuyến khích thêm nhiều nhà đầu tư và doanh nghiệp tham gia thị trường, tiến gần hơn tới TTCK thế giới. Với quy mô niêm yết và giao dịch sẽ tăng lên nhanh chóng trong những năm tới, điều hiển nhiên là nhu cầu vay đầu tư chứng khoán sẽ càng nhiều thêm. Các ngân hàng thương mại sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu vay cho từng cá nhân vì chi phí thẩm định các khoản vay và kiểm soát rủi ro tín dụng sẽ rất lớn. Trong khi thực tế trên thế giới, các ngân hàng thương mại không trực tiếp cho nhà đầu tư vay mua chứng khoán mà kênh tín dụng này được thực hiện qua các công ty môi giới chứng khoán. Nhà đầu tư được vay một phần tiền từ các công ty chứng khoán theo tỷ lệ ký quỹ ban đầu và cam kết dùng tài sản thế chấp chính là các chứng khoán. Giao dịch ký quỹ đang là nhu cầu chính đáng và bức thiết của đa số các nhà đầu tư, của các công ty môi giới chứng khoán, ngân hàng thương mại và cũng là đòi hỏi chính đáng để thị trường phát triển. Nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy tài chính trong giao dịch ký quỹ là đòn bẩy có nguyên tắc, được kiểm soát và thừa nhận của pháp luật. Với xu thế của thị trường tăng trưởng, xác suất cao để nhà đầu tư thành công trong việc sử dụng đòn bẩy tài chính. Các công ty chứng khoán cũng có nguồn thu tốt hơn nhờ khối lượng giao dịch tăng vọt. Nhưng quan trọng hơn cả là tính thanh khoản của thi trường sẽ tăng đáng kể và đó là cơ sở để thị trường sơ cấp phát triển. Giao dịch tăng đột biến vừa qua là bằng chứng cho thấy không chỉ nhà đầu tư được lợi mà công ty chứng khoán áp dụng đòn bẩy cũng gặt hái siêu lợi nhuận. Một trong những tác động dễ thấy nhất của giao dịch ký quỹ đối với thị trường chứng khoán là sẽ đưa giá chứng khoán dần trở về với giá trị thực của nó. Thật vậy, nhà đầu tư chỉ 3 kinh doanh bằng tài khoản ký quỹ khi nào họ nhận thấy giá chứng khoán đó đang thấp hơn giá trị thực của nó, và họ tiên đoán rằng giá sẽ tăng trong tương lai. Theo qui luật thị trường, cung tăng đến mức mà đủ lớn hơn cầu sẽ đẩy giá tăng và sẽ đến lúc bằng hoặc cao hơn giá trị thực thì họ sẽ bán chứng khóan để hiện thực hóa lợi nhuận của mình. Khi giao dịch ký quỹ được phép thực hiện trên thị trường chứng khoán thì nó sẽ làm tăng tính thanh khoản cho thị trường và từ đó sẽ làm cho thị trường trở nên năng động hơn. Với sự phát triển của sản phẩm giao dịch ký quỹ sẽ làm tăng tính chuyên nghiệp hơn cho nhà đầu tư, từ đó sẽ làm giảm dần đi những tác động xấu đối với thị trường chứng khoán do sự ít hiểu biết, do “tâm lý đám đông” của nhà đầu tư gây nên. 1.1.2.2/. Vai trò của giao dịch ký quỹ chứng khoán đối với các nhà đầu tư Nếu như giao dịch ký quỹ chỉ có lợi cho thị trường chứng khoán mà không mang đến lợi ích nào cho nhà đầu tư thì cũng sẽ không thể phát triển được. Không phải ngẫu nhiên mà hoạt động này lại được phát triển lâu đời ở các thị trường tài chính và thị trường chứng khoán phát triển mà bởi vì sự hấp dẫn của nó đối với nhà đầu tư rất lớn. Vai trò của giao dịch ký quỹ đối với các nhà đầu tư là giúp họ có cơ hội để gia tăng lợi nhuận nhanh. Sự thật không thể phủ nhận việc sử dụng công cụ tài chính đòn bẩy đem lại lợi nhuận cao và nhanh cho nhà đầu tư. Với khoản tiền ký quỹ 100 triệu đồng, nhà đầu tư có thể giao dịch lên đến 200 – 300 triệu đồng. Khi thị trường tăng điểm, có những mã cổ phiếu tăng trần 3 – 4 phiên liên tiếp đã đem lại khoản lợi nhuận rất hấp dẫn. Từ khả năng sinh lời cao chỉ với số vốn ít đã kích thích nhà đầu tư sử dụng GDKQ do mong muốn kiếm lời nhanh Tại sao sử dụng ký quỹ ? Tất cả là lực đòn bẩy. Vì rằng các công ty vay tiền để đầu tư vào các dự án, nhà đầu tư có thể vay tiền từ các công ty chứng khoán, ngân hàng và có lực đòn bẩy cho lượng tiền mặt họ đầu tư. Lực đòn bẩy sẽ khuếch đại mỗi điểm tăng của cổ phiếu. Nếu nhà đầu tư có một sự đầu tư đúng, ký quỹ sẽ tăng lợi nhuận của nhà đầu tư một cách đáng kể. Một khoản ký quỹ ban đầu 50% cho phép bạn - NĐT mua gấp đôi lượng cổ phiếu mà họ có thể mua bằng tiền mặt trong tài khỏan. Rất đơn giản để nhận thấy NĐT có thể kiếm được nhiều tiền hơn bằng cách sử dụng tài khoản ký quỹ hơn là giao dịch bằng tiền mặt thuần túy. Vấn đề đặt ra là liệu cổ phiếu của NĐT có tăng hay không. Các chuyên gia đầu tư luôn tranh cãi liệu có nên đầu tư vào những cổ phiếu đang tăng hay không. Chúng ta không 4 cân nhắc các tranh luận ở đây, nói một cách đơn giản là ký quỹ đã tạo cơ hội cho các nhà đầu tư tăng lợi nhuận. Để minh họa rõ nét hơn sức mạnh của lực đòn bẩy là thông qua một ví dụ. Hãy tưởng tượng một tình huống mà chúng ta đều muốn trải qua tạo ra lợi nhuận khổng lồ: Chúng ta sẽ giữ 20.000 USD giá trị của cổ phiếu mua bằng cách sử dụng 10.000 USD ký quỹ và 10.000 USD tiền mặt. Cổ phiếu của Công ty Cory’s Tequilla giao dịch với giá 100 USD và bạn cảm nhận rằng nó sẽ tăng giá đáng kể. Thông thường, bạn chỉ có thể mua 100 cổ phiếu (100 x $100 = $10,000). Do bạn đầu tư ký quỹ, bạn có thể mua 200 cổ phiếu (200 x $100 = $20,000). 1.1.2.3/. Vai trò của giao dịch ký quỹ đối với CTCK Ở các nước có TTCK phát triển thì nghiệp vụ giao dịch ký quỹ là một nghiệp vụ thường xuyên. Ở VN thì mới có văn bản hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ giao dịch ký quỹ này. Mặc dù vậy trước đó các CTCK vẫn thực hiện nghiệp vụ cho khách hàng vay để mua chứng khoán, dùng chứng khoán đã mua để cầm cố. Việc đưa giao dịch ký quỹ vào thực hiện là phù hợp với tình hình phát triển của TTCK và là điều tất yếu. Với con số 51 CTCK hiện nay có cung cấp dịch vụ giao dịch ký quỹ Giao dịch ký quỹ đưa vào thực hiện có vai trò sau : Thêm được sản phẩm mới cho công ty chứng khoán. Việc các công ty đưa ra tỷ lệ ký quỹ, các loại chứng khoán ký quỹ, lãi suất hợp lý. Có thể giúp công ty thu hút được khách hàng. Tăng tính cạnh tranh giữa các công ty Tăng khối lượng giao dịch của nhà đầu tư. Kích thích nhà đầu tư giao dịch nhiều hơn. Số hoa hồng, lãi vay, phí giao dịch thu được nhiều hơn 1.2 Quy trình hoạt động, và các quy định có liên quan giao dịch ký quỹ 1.2.1/. Qui trình hoạt động giao dịch ký quỹ chứng khoán Ở các TTCK phát triển, thủ tục để thực hiện giao dịch ký quỹ thông thường như sau: Thực hiện giao dịch ký quỹ, khách hàng phải ký hợp đồng mở tài khoản giao dịch ký quỹ với CTCK. Sau khi mở tài khoản giao dịch ký quỹ, khách hàng được vay một tỷ lệ nhất định so với giá trị số chứng khoán định mua. Tỷ lệ vay tối đa tại hầu hết các nước là 50% giá trị đặt mua, một số nước cho vay tới 70% giá trị đặt mua. Khách hàng sẽ cầm cố 5 bằng chính số chứng khoán mua được từ tài khoản giao dịch ký quỹ để đảm bảo cho khoản vay. Sau khi giao dịch, nhà đầu tư phải đảm bảo tỷ lệ ký quỹ duy trì. Tỷ lệ này được đo bằng công thức: MV-D MV Trong đó: MV là giá trị thị trường của chứng khoán thế chấp, D là giá trị khoản vay.Tỷ lệ này thấp hơn tỷ lệ cho vay nói trên và thông lệ trong khoảng 35%-50%. Trường hợp tỷ lệ ký quỹ duy trì cao hơn mức nói trên, nhà đầu tư có nghĩa vụ đóng thêm tài sản ký quỹ (tiền hoặc chứng khoán) để đảm bảo tỷ lệ ký quỹ duy trì. Nếu không đóng thêm, CTCK có quyền bán chứng khoán trong tài khoản giao dịch ký quỹ để thu hồi nợ vay. Hình 1.1: Giao dịch có sử dụng đòn bẩy Ở Việt Nam chưa có quy định cụ thể về giao dịch ký quỹ, nhưng có các hình thức như cầm cố chứng khoán, thấu chi hợp tác đầu tư, và cho vay bảo chứng để chỉ hoạt động của giao dịch bảo chứng trên thị trường chứng khoán. Do quy định về chức năng hoạt động của công ty chứng khoán hạn chế nên những hoạt động này chủ yếu là giữa ngân hàng và NĐT thông qua CTCK. Ở Việt Nam, theo Thông tư Số 74/2011/TT-BTC hướng dẫn về giao dịch chứng khoán thì quy trình giao dịch ký quỹ như sau: Nhà đầu tư muốn thực hiện giao dịch ký quỹ phải mở tài khoản giao dịch ký quỹ tại công ty chứng khoán nơi nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch chứng khoán. Tại mỗi công ty chứng khoán nơi nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch, nhà đầu tư chỉ được phép mở một tài khoản giao dịch ký quỹ. Công ty chứng khoán phải quản lý tách biệt tài khoản giao dịch ký quỹ của nhà đầu tư với các tài khoản giao dịch khác. 6 1.2.2/. Các quy định có liên quan 1.2.2.1/. Tỷ lệ ký quỹ Tỷ lệ ký quỹ: là tỷ lệ giữa tài sản thực có so với tổng tài sản trên tài khoản giao  dịch ký quỹ tính theo giá thị trường Tỷ lệ ký quỹ ban đầu: là tỷ lệ giữa tài sản thực có (trước khi thực hiện giao dịch)  so với giá trị hợp đồng giao dịch (dự kiến thực hiện) tính theo giá thị trường Theo đó nó là tỷ lệ % tối thiểu của giá trị giao dịch mà NĐT phải có trong tài khoản ký quỹ khi thực hiện giao dịch mới. Tỷ lệ ký quỹ ban đầu thường được quy định bằng các cơ quan quản lý và sự đặc thù của mỗi nhà môi giới (công ty môi giới) Tỷ lệ ký quỹ duy trì: là tỷ lệ tối thiểu giữa tài sản thực có so với tổng tài sản trên  tài khoản giao dịch ký quỹ tính theo giá thị trường Ngày 30/8, UBCK đã ban hành Quy chế hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng  khoán. Theo quy định này thì + Tỷ lệ ký quỹ ban đầu do công ty chứng khoán quy định nhưng không được thấp hơn 60%. + Tỷ lệ ký quỹ duy trì do công ty chứng khoán quy định nhưng không được thấp hơn 40%. + Căn cứ vào tình hình hoạt động thị trường chứng khoán, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước có thể điều chỉnh tỷ lệ ký quỹ. 1.2.2.2/. Chứng khoán được giao dịch ký quỹ Chứng khoán đủ điều kiện giao dịch ký quỹ bao gồm: cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư niêm yết giao dịch tại Sở Giao dịch chứng khoán, không bao gồm các chứng khoán đăng ký niêm yết giao dịch trên hệ thống giao dịch UpCom và không thuộc các trường hợp sau: 1. Có thời gian niêm yết dưới 06 tháng tính đến thời điểm công bố danh sách; trường hợp cổ phiếu chuyển sàn niêm yết thì thời gian niêm yết được tính là tổng thời gian niêm yết ở cả hai Sở Giao dịch chứng khoán; 2. Bị đặt trong tình trạng bị tạm ngừng giao dịch, bị đưa vào diện cảnh báo, bị hủy niêm yết, bị đưa vào diện kiểm soát; 3. Kết quả kinh doanh của tổ chức niêm yết chứng khoán là có lỗ căn cứ trên báo cáo tài chính gần nhất đã kiểm toán hoặc có ý kiến soát xét của tổ chức kiểm toán (tùy trường 7 hợp nào gần nhất thời điểm xem xét); Trường hợp tổ chức niêm yết là quỹ đầu tư đại chúng, có tối thiểu một tháng có giá trị tài sản ròng (NAV) tính trên một đơn vị chứng chỉ quỹ nhỏ hơn mệnh giá căn cứ trên báo cáo thay đổi giá trị tài sản ròng hàng tháng xét trong 03 tháng liên tiếp tính đến thời điểm được lựa chọn để giao dịch ký quỹ. Công ty chứng khoán không được cho khách hàng vay tiền để thực hiện giao dịch ký quỹ: a) Đối với cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư do chính công ty chứng khoán bảo lãnh phát hành trong vòng sáu (06) tháng tính từ khi hoàn tất đợt phát hành. b) Đối với cổ phiếu của công ty niêm yết sở hữu từ 50% trở lên vốn điều lệ của công ty chứng khoán và đối với cổ phiếu của công ty niêm yết do công ty chứng khoán sở hữu từ 50% trở lên vốn điều lệ. c) Đối với cổ phiếu của chính công ty chứng khoán phát hành. d) Khi khách hàng không bảo đảm tỷ lệ ký quỹ theo quy định tại Hợp đồng mở tài khoản giao dịch ký quỹ và các quy định tại Quy chế này. Trường hợp chứng khoán không còn nằm trong danh sách chứng khoán được phép giao dịch ký quỹ, công ty chứng khoán không được thực hiện cho vay mới đối với các chứng khoán này và không được tính chứng khoán này làm tài sản đảm bảo trên tài khoản giao dịch ký quỹ cho các khoản vay mới. Theo các quy định trên, qua thống kê (tại ngày 1/6/2011) cho thấy có 329 mã chứng khoán đủ điều kiện giao dịch ký quỹ. Tổng giá trị vốn hóa tối đa của số cổ phiếu được phép giao dịch ký quỹ là gần 124.000 tỷ đồng, với tỷ lệ cho vay khoảng 30%, giá trị giao dịch theo dự kiến của UBCKNN thì tổng số tiền mà các CTCK có thể cung cấp cho thị trường là 31.000 tỷ đồng ( con số này có thể thay đổi theo giá chứng khoán) Sở giao dịch chứng khoán có trách nhiệm công bố danh sách CK không đủ điều kiện giao dịch ký quỹ. Trên cơ sở các CK không được phép GD ký quỹ do Sở giao dịch CK cung cấp, các CTCK lựa chọn danh sách CK được phép giao dịch ký quỹ. CTCK phải có nghĩa vụ công khai thông tin về các điều kiện giao dịch ký quỹ bao gồm : danh sách CK được giao dịch ký quỹ, lãi suất vay ký quỹ, thời hạn vay, phương thức thực hiện lệnh gọi bổ sung. Các thông tin về các điều kiện trên phải được công bố tại trụ sở và trên website của CTCK. Tuy nhiên việc công bố các mã CK được phép giao dịch, tỷ lệ ký quỹ và các vấn đề về giao dịch 8 ký quỹ lại không được thực hiện tại nhiều CTCK. Trả lời vấn đề này, các CTCK cho rằng tỷ lệ ký quỹ được thay đổi liên tục, lên không đề cập trong danh sách. Chỉ khi khách hàng đặt lệnh mới biết tỷ lệ ký quỹ là bao nhiêu 1.2.2.3/. Điều kiện công ty chứng khoán thực hiện giao dịch ký quỹ Công ty chứng khoán thực hiện giao dịch ký quỹ phải thỏa mãn các điều kiện quy định về giao dịch ký quỹ sau: 1. Được cấp phép thành lập và hoạt động theo pháp luật chứng khoán Việt Nam; được cấp phép hoạt động nghiệp vụ môi giới chứng khoán; là thành viên của Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm Lưu ký chứng khoán; 2. Không có lỗ lũy kế lớn hơn hoặc bằng 50% vốn điều lệ (tính theo báo cáo tài chính có kiểm toán gần nhất nhưng không quá 06 tháng đến thời điểm nộp báo cáo thực hiện giao dịch ký quỹ); 3. Tỷ lệ tổng nợ trên vốn chủ sở hữu không vượt quá 6 lần. 4. Tỷ lệ vốn khả dụng theo quy định tại Thông tư số 226/2010/TT-BTC ngày 31/12/2010 của Bộ Tài chính là lớn hơn 150% trong vòng ba (03) tháng gần nhất tính đến thời điểm nộp báo cáo thực hiện giao dịch ký quỹ; 5. Có hệ thống giao dịch phục vụ giao dịch ký quỹ, giám sát tài khoản giao dịch ký quỹ; quy trình nghiệp vụ và quy trình quản lý rủi ro cho nghiệp vụ giao dịch ký quỹ; 6. Có tối thiểu 2 nhân viên có Chứng chỉ hành nghề chứng khoán để thực hiện hoạt động giao dịch ký quỹ. 1.3/. Giao dịch ký quỹ ở một số nước và bài học kinh nghiệm cho TTCK Việt Nam 1.3.1/. Giao dịch ký quỹ chứng khoán ở một số nước trên thế giới 1.3.1.1/. Tìm hiểu hoạt động giao dịch ký quỹ ở thị trường chứng khoán Mỹ Đối với một số nước như Mỹ không có các tổ chức chuyên doanh lĩnh vực tài chính chứng khoán mà rất nhiều tổ chức tài chính như NHTM, nhà môi giới chứng khoán... được phép tham gia vào hoạt động này như là một trong các nghiệp vụ kinh doanh. Trước năm 1920, không có quy định nào điều chỉnh hoạt động tài chính chứng khoán phục vụ cho giao dịch ký quỹ. Sau cuộc đại suy thoái năm 1929, vấn đề này mới được pháp luật Mỹ đặt dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt để ngăn ngừa các tổ chức tài chính cho vay quá mức. Hiện nay, hoạt động tài chính chứng khoán chịu sự điều chỉnh của Quy chế của Cục Dự trữ liên bang. 9 Tuy nhiên, hoạt động vay và cho vay chứng khoán của các tổ chức này cũng được kiểm soát nghiêm ngặt để ngăn ngừa tình trạng cho vay quá mức, dẫn đến rủi ro hệ thống. Cho dù thực hiện theo mô hình nào thì hoạt động này đều có một điểm chung là: vì đây là các hoạt động giao dịch phức tạp và ẩn chứa nhiều rủi ro nên thường chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật và thường bị hạn chế đối với các TTCK mới thành lập. 1.3.1.2/. Sự phát triển giao dịch ký quỹ chứng khoán tại Đài Loan Ngay khi TTCK vừa ra đời, năm 1962 một số giao dịch ký quỹ đã được cho phép thực hiện một cách hạn chế. Tháng 6/1974, theo yêu cầu của công chúng đầu tư về việc mở rộng hoạt động giao dịch ký quỹ nhằm thúc đẩy sự phát triển của TTCK trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Ủy ban Chứng khoán và Hợp đồng tương lai Đài Loan (TSPC) đã ban hành “Hướng dẫn về hoạt động cho vay để mua chứng khoán và cho vay chứng khoán của các định chế tài chính”, đồng thời hướng dẫn Ngân hàng Truyền thông, Ngân hàng Đài Loan và Ngân hàng Đất đai tổ chức thực hiện các giao dịch ký quỹ. Tháng 8/1979, “Quy chế quản lý ngành tài chính chứng khoán” được ban hành, sau đó, Công ty tài chính chứng khoán Fuh-Hwa được thành lập và đi vào hoạt động ngày 21/4/1980 với tư cách là một tổ chức tài chính chuyên thực hiện các hoạt động giao dịch ký quỹ chứng khoán. Tháng 1/1990, Luật Chứng khoán và giao dịch chứng khoán được sửa đổi, cho phép các CTCK thực hiện vay và cho vay chứng khoán. Kể từ năm 1994, hoạt động tài chính chứng khoán được mở rộng, TSPC cho phép thành lập hàng loạt Công ty tài chính chứng khoán như Global, Fu Bon, Entie, đánh dấu sự chấm dứt một giai đoạn ngành tài chính chứng khoán giữ vai trò định hướng chính sách trong lĩnh vực chứng khoán, chuyển sang giai đoạn kinh doanh trên cơ sở cạnh tranh thực sự. Giá trị giao dịch ký quỹ trên tổng giá trị giao dịch toàn thị trường tăng mạnh, từ 14,87% năm 1990 lên trên 38,29% năm 2001. 1.3.1.3/. Sự phát triển giao dịch ký quỹ chứng khoán tại Nhật Bản Tại Nhật Bản, nhiều Công ty tài chính chứng khoán đã được thành lập sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II bằng cách chuyển đổi các CTCK hiện tại nhằm mục đích ổn định và tăng cường hoạt động của các CTCK thông qua việc cung cấp các khoản vay để thực hiện giao dịch ký quỹ. Sau khi Luật Chứng khoán và Giao dịch Chứng khoán được sửa đổi năm 1955, các Công ty tài chính ckhoán thành lập phải được Bộ Tài chính cấp phép. Sau thời gian này, 9 Công ty tài chính chứng khoán đã được sáp nhập thành 3 công ty để tăng cường 10 chức năng tài chính chứng khoán, đó là Công ty tài chính chứng khoán Nhật Bản (vốn điều lệ 10 tỷ Yên), Công ty tài chính chứng khoán Osaka (vốn điều lệ 3,5 tỷ Yên) và Công ty tài chính chứng khoán Chubu (vốn điều lệ 200 triệu Yên) (tính đến tháng 6/2003). Đặc thù của hệ thống các Công ty tài chính chứng khoán tại các nước này là không đặt ra mục tiêu kinh doanh mà chủ yếu nhằm mục tiêu bình ổn giá cả và phát triển TTCK thông qua việc hỗ trợ các giao dịch chứng khoán. Việc thành lập các Công ty tài chính chứng khoán theo mô hình này đáp ứng được nhu cầu thúc đẩy hoạt động giao dịch của thị trường, song vẫn đảm bảo khả năng quản lý chặt chẽ để giảm thiểu khả năng rủi ro, đặc biệt là với các thị trường mới thành lập do vay và cho vay chứng khoán về bản chất là các giao dịch phức tạp và ẩn chứa nhiều rủi ro nếu hệ thống quản lý thị trường không đủ hiệu quả. 1.3.2/. Bài học kinh nghiệm khi áp dụng giao dịch ký quỹ chứng khoán tại Việt Nam  Một là thành lập Công ty tài chính chứng khoán. Cùng với sự phát triển của thị trường, tính thanh khoản của thị trường ngày một nâng cao, trình độ và năng lực của các nhà đầu tư chứng khoán ngày càng hoàn thiện, cần nghiên cứu cho phép áp dụng các giao dịch loại này như một biện pháp khuyến khích giao dịch, thực hiện thông lệ và tiêu chuẩn giao dịch quốc tế. Trong trường hợp của Việt Nam, với đặc thù TTCK còn rất non trẻ, trước mắt có thể nghiên cứu để triển khai hoạt động vay và cho vay chứng khoán theo mô hình thành lập Công ty tài chính chứng khoán như là một cơ quan thực hiện chính sách thị trường chứ không phải vì mục tiêu lợi nhuận (giống như Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan). Trước thực trạng hơn 100 CTCK với quy mô vốn, trình độ quản lý và công nghệ rất khác nhau ở Việt Nam hiện nay, việc áp dụng cơ chế giao dịch ký quỹ sẽ đặt ra những thách thức không nhỏ. Để cơ chế giao dịch ký quỹ vận hành hiệu quả dưới sự quản lý giám sát có hệ thống, cần có sự hiện diện của một định chế tài chính đặc biệt đóng vai trò "nhà cái" cho các CTCK tham gia cung cấp dịch vụ giao dịch ký quỹ. Mục tiêu của việc thành lập Công ty tài chính chứng khoán thể hiện ở việc thúc đẩy các hoạt động giao dịch chứng khoán, bình ổn thị trường, tăng tính thanh khoản cho TTCK. Do đó, Chính phủ phải đóng vai trò quyết định trong việc thành lập Công ty tài chính chứng khoán Việt Nam, trong đó có sự cân nhắc các điều kiện thực tế của nền kinh tế và TTCK. Trong thời gian đầu, do Chính phủ phải đóng vai trò chủ chốt trong việc quản lý và điều tiết 11 hoạt động tài chính chứng khoán, mô hình phù hợp là công ty sở hữu Nhà nước hoặc Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối.  Hai là cần thiết phải hình thành một hành lang pháp lý cho hoạt động vay và cho vay chứng khoán, bao gồm các Quy chế về hoạt động vay và cho vay chứng khoán và bổ sung các quy định tại các văn bản pháp luật liên quan (Quy chế về đăng ký, lưu ký, thanh toán bù trừ chứng khoán), trong đó những nội dung chính cần phải đề cập bao gồm:  Cuối cùng, theo thông lệ quốc tế cần quy định rõ giao dịch vay và cho vay chứng khoán phải thực hiện trên cơ sở Hợp đồng mẫu và phải làm thành văn. 12 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ NHU CẦU PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM TÀI CHÍNH GIAO DỊCH KÝ MUA QUỸ CHỨNG KHOÁN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 2.1/. Những quy định pháp lý giao dịch mua ký quỹ ở Việt Nam 2.1.1/. Thông tư số 74/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn về giao dịch chứng khoán Thông tư này hướng dẫn về giao dịch chứng khoán với nhiều quy định mới thuận lợi hơn cho hoạt động giao dịch và tính thanh khoản của thị trường như: mở nhiều tài khoản, mua bán chứng khoán trong ngày, giao dịch ký quỹ đã được phép áp dụng. Cũng theo Thông tư này, nhà đầu tư muốn thực hiện giao dịch ký quỹ phải mở tài khoản giao dịch ký quỹ tại công ty chứng khoán nơi nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch chứng khoán. Tại mỗi công ty chứng khoán nơi nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch, nhà đầu tư chỉ được phép mở 01 tài khoản giao dịch ký quỹ… 2.1.2/. Quyết định Số 637/QĐ-UBCK ngày 30.8.2011 - Quy chế hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán Theo quy định tại điều 16, tỷ lệ ký quỹ ban đầu sẽ do công ty chứng khoán quy định nhưng không thấp hơn 60%, thấp hơn mức dự thảo trước đó là 70%. - Tỷ lệ ký quỹ duy trì cũng sẽ do công ty chứng khoán quyết định nhưng không thấp hơn 40%. Theo dự thảo trước đó, tỷ lệ này chỉ là 20%. - Đồng thời, tài khoản giao dịch ký quỹ phải có một khoản tiền tối thiểu 10 triệu đồng, thấp hơn mức dự thảo trước đó là 20 triệu đồng. Mức cụ thể do công ty chứng khoán quy định. - Tỷ lệ trên có thể thay đổi tùy theo tình hình thị trường và do Ủy ban chứng khoán Nhà nước điều chỉnh. - Trường hợp tỷ lệ ký quỹ của khách hàng giảm xuống thấp hơn tỷ lệ ký quỹ duy trì, công ty chứng khoán sẽ phát hành lệnh gọi ký quỹ bổ sung. Thời gian bổ sung tài sản thế chấp trong thời hạn theo yêu cầu của công ty chứng khoán nhưng không quá 3 ngày làm việc. - Thời hạn các khoản vay giao dịch ký quỹ không quá 3 tháng tính từ ngày thực hiện 13 giải ngân khoản vay và có thể gia hạn tối đa là 3 tháng. So với dự thảo trước đây, thời hạn tối đa đối với các khoản vay giảm từ 12 tháng xuống còn 6 tháng. - Công ty chứng khoán thực hiện giao dịch ký quỹ phải không có lỗ lũy kế lớn hơn hoặc bằng 50% vốn điều lệ (tính theo báo cáo tài chính có kiểm toán gần nhất nhưng không quá 06 tháng đến thời điểm nộp báo cáo thực hiện giao dịch ký quỹ); tỷ lệ tổng nợ trên vốn chủ sở hữu không vượt quá 6 lần; Tỷ lệ vốn khả dụng theo quy định tại Thông tư số 226/2010/TT-BTC ngày 31/12/2010 của Bộ Tài chính là lớn hơn 150% trong vòng ba 3 tháng gần nhất tính đến thời điểm nộp báo cáo thực hiện giao dịch ký quỹ; - Điều 13 quy định hạn mức cho vay giao dịch ký quỹ của công ty chứng khoán. Theo đó, tổng dư nợ cho vay giao dịch ký quỹ của một công ty chứng khoán không được vượt quá 200% vốn chủ sở hữu của công ty chứng khoán; - Tổng mức cho vay giao dịch ký quỹ của công ty chứng khoán đối với một khách hàng không được vượt quá 3% vốn chủ sở hữu của công ty chứng khoán; và không vượt quá 10% vốn chủ sở hữu của công ty chứng khoán đối với một loại chứng khoán. - Tổng số chứng khoán cho vay giao dịch ký quỹ của một công ty chứng khoán không được vượt quá 5% tổng số chứng khoán niêm yết của một tổ chức niêm yết. - Vốn chủ sở hữu của công ty chứng khoán theo Báo cáo tài chính kiểm toán gần nhất nhưng không quá 6 tháng kể từ thời điểm tính toán. - Công ty chứng khoán bị ngừng giao dịch ký quỹ trong vòng 12 tháng nếu vi phạm về quản lý tài khoản, hạn mức cho vay, tỷ lệ ký quỹ, loại chứng khoán được phép giao dịch ký quỹ, vi phạm trên ba 3 lần nghĩa vụ báo cáo. Theo dự thảo trước đó, thời hạn này là 6 tháng 2.2/. Thực trạng hoạt động giao dịch ký quỹ của các công ty chứng khoán và nhà đầu tư ở Việt Nam hiện nay 2.2.1/. Giai đoạn 2006 - 2007 Cho vay đầu tư chứng khoán đã phát triển dưới nhiều hình thức nghiệp vụ khác nhau như: cầm cố chứng khoán, nghiệp vụ repo cổ phiếu, mua khống T + 2, các nghiệp vụ bảo chứng, ủy thác đầu tư....Tựu chung là các nghiệp vụ sử dụng đòn bẩy tài chính. Thời kỳ “hoàng kim” của cho vay đầu tư chứng khoán trong các năm 2006, 2007 có những đặc điểm cơ bản : 14  Hầu như tất cả các công ty chứng khoán đều đi vay tiền ngân hàng để phục vụ cho việc kinh doanh chứng khoán của doanh nghiệp, ngoài việc dành khoản tín dụng lớn cho nhà đầu tư, các CTCK cũng dùng khoản tiền vay đáng kể để hoạt động tự doanh;  Đa phần các nhà đầu tư cá nhân trong nước (thường là có kinh nghiệm đầu tư chứng khoán) đều đi vay tiền để đầu tư chứng khoán dưới nhiều hình thức như trên;  Hoạt động tín dụng đầu tư chứng khoán phát triển ở thị trường OTC, thị trường giao dịch tập trung và thị truờng đấu giá cổ phần các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Trong giai đoạn này có lẽ mọi nhà đầu tư đều tích cực đầu tư chứng khoán, đều tìm cách gia tăng các khoản tín dụng vì cứ có tín dụng là gặt hái được lợi nhuận dễ dàng mà ít người nghĩ tới những tình huống nguy hiểm sẽ xảy ra. Kết quả là dư nợ tín dụng chứng khoán không ngừng tăng lên, có thời điểm lên tới 60.000 tỷ. Sử dụng đòn bẩy tài chính đã làm cho nhiều nhà đầu tư và một số công ty chứng khoán liên tục gặt hái được lợi nhuận không ngừng, nhất là trong các năm từ 2005-2007, bởi vì khởi đầu cho giai đoạn này VN-Index ở mức rất thấp, cộng với nhiều sự thay đổi có tính buớc ngoặt về chính sách cho môi trường đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên khi thị truờng bắt đầu lao dốc, những đối tượng nhà đầu tư đã từng có kinh nghiệm sâu sắc về cầm cố chứng khoán trong cuộc khủng hoảng lần thứ nhất của TTCK Việt Nam (2001 -2002) nhanh chóng cơ cấu lại danh mục đầu tư và cơ cấu nguồn vốn, tích cực thanh lý cổ phiếu để trả nợ ngân hàng thì bị ảnh huởng không nhiều. Nhiều nhà đầu tư không tỉnh táo, không tích cực tất toán các khoản nợ, thậm chí còn gia tăng các khoản nợ khi TTCK tụt dốc thì tài sản của họ cũng nhanh chóng bị bốc hơi, một số nhà đầu tư mới chưa có kinh nghiệm đã lâm vào hoàn cảnh tiền bán chứng khoán không đủ trả ngân hàng đã buộc phải bán nhà để trả nợ. 2.2.2/. Giai đoạn 2008 - 2009 Sau thời kỳ hoàng kim của phong trào tín dụng đầu tư chứng khoán, việc cho vay đầu tư trở lại vào tháng 7/2008 khi tiến trình xử lý nợ vay kết thúc, đồng thời lạm phát đã được kiểm soát, đi cùng với TTCK phục hồi từ 360 điểm đến 570 điểm, tuy nhiên hoạt động cho vay chứng khoán nhanh chóng bị ngừng trệ từ tháng 9/2008 do Việt Nam bắt đầu chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sau quý 1/2009, kinh tế Việt Nam chạm đáy, TTCK đã xuống ở mức thấp và bắt đầu phục hồi đi lên thì hoạt động cho vay đầu tư chứng 15 khoán cũng khởi động trở lại, tuy nhiên đã có nhiều đặc điểm khác biệt căn bản so với thời kỳ “hoàng kim” :  Tất cả các tổ chức đầu tư chứng khoán trong nước không đi vay tiền để đầu tư chứng khoán.  Hầu như các công ty chứng khoán đã cơ cấu lại nguồn vốn đầu tư theo hướng dành một tỷ trọng vốn đáng kể đầu tư vào trái phiếu hay dùng tiền mặt để chi tiêu hoạt động hay phục vụ hoạt động cho vay đầu tư chứng khoán dưới nhiều hình thức, chỉ dành một khoản tiền tự có phục vụ cho công tác đầu tư tự doanh ngắn hạn và dài hạn.  Các tổ chức tín dụng, công ty tài chính, công ty chứng khoán đã có kinh nghiệm xương máu nên nhìn chung đều tính toán tăng giá trị tài sản cầm cố, lựa chọn danh mục cổ phiếu hay thời hạn cho vay.....  Tuy nhiên do sự cạnh tranh về khách hàng, một số công ty chứng khoán có sự cạnh tranh không lành mạnh về hạn mức cho vay. Trong thời gian qua, khi TTCK phục hồi đi lên từ mức thấp thì đã có một lượng tiền tín dụng đáng kể được đổ vào TTCK, với đỉnh cao dư nợ tín dụng chứng khoán khoảng 10.000 tỷ - 12.000 tỷ đồng. Dư nợ tín dụng lần này chủ yếu tập trung cho thị trường niêm yết, ít có dòng tín dụng đổ vào thị trường OTC. 2.2.3/. Giai đoạn 2009 - 2010 TTCK tăng nóng đi cùng với “ dòng tiền nóng “ tăng lên, trước tình hình đó ngày 19/6/2009, UBCKNN đã có văn bản nhắc nhở các công ty chứng khoán phải thực hiện đúng pháp luật hiện hành, thời điểm UBCKNN ra văn bản cũng là lúc VN-Index đạt ngưỡng 500 điểm, đây là ngưỡng có nhiều rủi ro cho hoạt động đầu tư chứng khoán bằng tiền đi vay. Tại thời điểm hiện tại, TTCK điều chỉnh và phân hoá, cũng là thời điểm giảm đáng kể các “dòng tiền nóng”; Trong khi đó các nhà đầu tư chứng khoán đầu tư bằng tiền đi vay đã sớm tỉnh táo, nhanh chóng cơ cấu lại nguồn tiền đầu tư, không tiếp tục vay mượn hoặc giảm đáng kể lượng tiền đi vay khi TTCK bước vào giai đoạn điều chỉnh khi phải chứng kiến cảnh nguồn cung cổ phiếu cầm cố được các công ty chứng khoán đẩy ra từ lúc mở cửa. Trong giai đoạn 2009 -2010, giao dịch ký quỹ không còn xa lạ với nhà đầu tư dù về mặt nguyên tắc UBCKNN vẫn chưa cho phép thực hiện. Khá nhiều các công ty chứng khoán đã có nguồn thu khá lớn từ hoạt động này. Qua tìm hiểu phân tích tình hình hoạt động của 16 các CTCK trong năm 2008-2010 của khối các CTCK cho thấy sự tăng trưởng của tỷ lệ doanh thu khác/tổng doanh thu. Doanh thu khác phần lớn có nguồn gốc từ các thu nhập ngoài phí giao dịch trong mảng môi giới, như lãi các hợp đồng ký quỹ, ứng trước tiền bán chứng khoán, Repo, ủy thác. Thực tế trên giấy tờ, các gói sản phẩm giao dịch ký quỹ trong đó có mua quý quỹ được thể hiện như một dịch vụ tư vấn đầu tư, hợp tác giữa hai bên CTCK và NĐT theo một danh mục cổ phiếu quy định, với tỷ lệ đòn bẩy phổ biến từ 50:50 đến 20:80 thậm chí còn cao hơn, tùy theo loại cổ phiếu và khả năng của CTCK. Tuy nhiên về bản chất, CTCK đang cung cấp tín dụng cho nhà đầu tư đòn bẩy tài chính và được hưởng lãi suất. Khảo sát trên các website của các CTCK hiện nay (đặc biệt là các CTCK nằm trong top 10 của hai SGDCK quí I/2011) có thể thấy khá nhiều các công ty thực hiện hoạt động giao dịch ký quỹ như: CTCK Bảo Việt (BVSC), CTCK Ngân hàng Đông Á (DAS), CTCK (FPTS), CTCK Sài Gòn (SSI), CTCK Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (SBS), CTCK Thăng Long (TLS), CTCK VNDirect (VNDS), CTCK VNS (VNS)…Tuy nhiên, thực tế cho thấy bên cạnh lợi nhuận ban đầu thu được từ hoạt động giao dịch ký quỹ, nhiều CTCK đã gặp phải những thất bại do chưa có một khung pháp lý hoàn thiện dẫn đến những mâu thuẫn pháp lý với nhà đầu tư. Đồng thời, việc cho phép nhà đầu tư ký quỹ với một khối lượng tiền lớn mà không có hoạt động quản trị rủi ro đã dẫn đến sự thua lỗ nặng nề cho các bên tham gia. Hiện tượng này có thể được minh họa điển hình qua vụ việc về giao dịch cổ phiếu của CTCP nhựa An Phát (AAA) niêm yết trên HNX. “Cổ phiếu AAA đã tăng mạnh từ mức giá 47.000 VND/CP ngày 19/8/2010 lên mức cao nhất là 91.600 VND/CP (bình quân) ngày 16/09/2010 với thanh khoản tốt, trong bối cảnh TTCK chỉ dao động rất hẹp. Khoảng 4,4 triệu CP được giao dịch trong khoảng giá trên 90.000 VND. Tuy nhiên, sau 5 ngày giao dịch, giá AAA đã giảm về mức 63.400 VND (bình quân) tính đến hết ngày 4/09/2010, với khối lượng đặt mua khiêm tốn và dư bán lên tới hàng triệu cổ phiếu”. Có nhiều giả thiết giải thích cho hiện tượng bất thường trong giao dịch cổ phiếu AAA, nhưng có một nhận định hợp lý cho rằng đã có sự làm giá cổ phiếu này của một nhóm nhà đầu tư. Lợi dụng việc được ưu đãi trong hoạt động ký quỹ tại một số CTCK, nhóm nhà đầu tư này đã liên kết với nhau thực hiện việc “làm giá” cổ phiếu AAA, sau đó sử dụng vốn ký quỹ từ các CTCK để mua ở giá 17 cao. Sau cùng, sau khi các nhà đầu tư đã “cao chạy xa bay”, các CTCK đã phải lĩnh hậu quả từ việc cho thực hiện ký quỹ với một tỷ lệ lớn. Chưa có số liệu thống kê chính thức về các khoản cho vay của công ty chứng khoán đối với nhà đầu tư dưới dạng hợp đồng hợp tác đầu tư nhưng chắc chắn con số này lên tới nhiều ngàn tỷ VNĐ. Các khoản vay ký quỹ tại các CTCK tiếp tục là áp lực nặng nề đối với TTCK nhất là khi thị trường đang đi xuống như hiện nay. Trong giai đoạn TTCK suy giảm trong tháng 5.2010, hiện tượng giải chấp của các CTCK đã khiến thị trường giảm điểm. Để đảm bảo thanh khoản, các CTCK phải bán chứng khoán bất chấp việc giá cổ phiếu và khối lượng giao dịch xuống rất thấp. Đối với các nhà đầu tư, do thị trường giảm sâu, cùng với lãi suất đối với lĩnh vực phi sản xuất tăng lên sẽ khiến nhiều NĐT bán ra để trả nợ gốc và lãi cho các NHTM. Vì không có dòng tiền mới vào thị trường nên bất chấp giá đã giảm mạnh, khối lượng giao dịch vẫn ở mức rất thấp. Nhiều tài khoản vô chủ xuất hiện để mặc cho CTCK tự xử lý. Đây là lý do khiến cho không ít CTCK đang ở bên bờ vực đổ vỡ tài chính. 2.2.3/. Giai đoạn 2011 Thực tiễn thị trường các nước cho thấy, việc dùng giao dịch ký quỹ đúng thời điểm là rất có lợi vì nhà đầu tư có thể kiếm lợi nhuận lớn khi số vốn đầu tư ban đầu có hạn, tạo tính thanh khoản cho thị trường. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế vĩ mô và thị trường Việt Nam như hiện nay, hình thức đầu tư này có độ rủi ro cao, càng sử dụng giao dịch ký quỹ nhiều thì số tiền thua lỗ càng nhanh. Do chưa có quy định cụ thể, nên nhiều khoản vay không được thể hiện trên sổ sách kế toán như bản chất của nó, mà nằm ở khoản phải thu hay tài khoản tự doanh tùy thuộc cách ghi nhận của CTCK. CTCK không thể thu hồi lại khoản hỗ trợ tài chính do đó phải tiến hành khoanh nợ cho NĐT. Nhiều công ty không thể xử lý vì nếu xử lý sẽ phải hạch toán tổn thất này thì kết quả kinh doanh sẽ xấu đi, chưa kể phải xử lý trách nhiệm người bảo lãnh, của nhân viên môi giới, điều này dẫn đến sự thiếu minh bạch trong các CTCK, gây khó khăn cho việc quản lý của các cơ quan quản lý. Khoản phải thu của các công ty chứng khoán trong báo cáo tài chính quý 1/2011 vẫn phình to. Mặt khác, VN-Index thời gian qua không nhất thiết phản ánh đúng diễn biến của thị trường chung, đặc biệt là giá của những cổ phiếu có thanh khoản cao thường nằm trong danh sách hỗ trợ đòn bẩy, cầm cố nhiều. Một vài mã như BVH, MSN, VNM, VIC lại không được các công ty hỗ trợ mạnh vì thanh khoản yếu lại là động lực tăng chủ yếu của chỉ số. 18 Trong báo cáo tài chính của các công ty chứng khoán, một mục đáng được lưu ý là khoản phải thu. Dĩ nhiên mục này bao gồm rất nhiều tiểu mục, nhưng phần lớn báo cáo tài chính quý 1/2011 cho thấy khoản phải thu lớn nhất nằm trong mục phải thu đối với các nghiệp vụ hợp tác đầu tư – nói ngắn gọn là hỗ trợ đòn bẩy. Cũng có một lượng tiền khá lớn được ghi vào mục “Phải thu khác”. Đa số thuyết minh báo cáo tài chính của nhiều CTCK không giải thích rõ các khoản phải thu để có thể hiểu hết được bức tranh toàn cảnh về khả năng sử dụng đòn bẩy của khách hàng như thế nào. Thông thường các khoản phải thu khá đa dạng như thu tiền ứng trước của khách hàng, hoạt động tư vấn, phải thu nội bộ hay các khoản “linh tinh” khác như chi hộ cho hội đồng quản trị... Tuy nhiên cũng giống như mục “Doanh thu khác” hay “Lợi nhuận khác” của các công ty chứng khoán, thực chất việc cung cấp đòn bẩy đã góp phần không nhỏ vào việc giảm lợi nhuận của các CTCK. Thống kê sơ bộ với 14/25 CTCK niêm yết đã có báo cáo tài chính quý 1/2011, chỉ một số ít công ty ghi rõ khoản phải thu liên quan đến hoạt động hợp tác kinh doanh với khách hàng. Đa số còn lại ghi vào khoản chung chung khiến việc xác định chính xác khoản phải thu liên quan đến dịch vụ đòn bẩy rất khó khăn. Chẳng hạn Công ty Chứng khoán HSC có khoản phải thu tổng cộng là 731,7 tỷ đồng, trong đó khoản phải thu từ hoạt động giao dịch chứng khoán là 653,92 tỷ đồng. Khoản phải thu này tách bạch thành 6 khoản nhỏ, trong đó lớn nhất là phải thu khách hàng về nghiệp vụ hợp tác đầu tư với 603,65 tỷ đồng. Công ty chứng khoán VNDS cũng có khoản phải thu ngắn hạn tổng cộng 919,5 tỷ đồng. Trong đó, khoản lớn nhất lên tới 734,6 tỷ đồng là phải thu về bảo lãnh thanh toán tiền mua chứng khoán của nhà đầu tư. VNDS có khoản thu khá đặc thù là các hợp đồng mua bán lại chứng khoán nhưng quy mô đang giảm mạnh, chỉ còn 480 triệu đồng ghi nhận thời điểm 31/3/2011. CTCK Sài Gòn có khoản phải thu 625 tỷ đồng, trong đó phải thu khách hàng về nghiệp vụ hợp tác đầu tư là 443,46 tỷ đồng. CTCK Sài Gòn – Hà Nội có khoản phải thu 475,79 tỷ đồng với hợp đồng hợp tác kinh doanh, mua bán chứng khoán. 19 Bảng 2.8: Thống kê các khoản phải thu của một số công ty chứng khoán Quý I/2011 Đơn vị tính: tỷ đồng CTCK Kim Long VNdirect TP.HCM NH nông nghiệp Bảo Việt Sài Gòn Sacombank Hải Phòng Phương Đông Sài Gòn – Hà Nội SME Tràng An Rồng Việt VIG Tổng Tổng số Phân bổ Thuyết minh phải thu lớn nhất TLDP PTKĐ Phải thu của khác hàng 23,72 0 Bảo lãnh thanh toán tiền mua C.khoán của KH 734,6 14,81 603,65 Phải thu KH về nghiệp vụ hợp tác đầu tư 0 5895,17 Phải thu khác 326,35 148,8 Phải thu khác 11,12 443,46 Phải thu KH về nghiệp vụ hợp tác đầu tư 0 439,06 Phải thu khác 0 153,58 Phải thu khác 0 288,69 Phải thu khác 0 475,79 Phải thu các hợp đồng hợp tác KD, mua bán CK 0 525,02 Phải thu khác 0 319,07, Phải thu khách hàng về giao dịch chứng khoán 0 833,17 Phải thu KH về nghiệp vụ hợp tác đầu tư 1,99 327,37 Phải thu hoạt động hợp tác KD với nhà đầu tư 0 11.202,15 (Trích lập dự phòng phải thu khó đòi: TLDPPTKĐ) Nguồn: VnEconomy 55,6 919,5 731,7 7001,45 150,37 625 511,2 155,64 295,13 590,9 721,1 325,7 850,85 375,42 Không phải lúc nào bảng cân đối kế toán và thuyết minh báo cáo tài chính của công ty chứng khoán cũng ghi rõ các khoản mục một cách cụ thể. CTCK Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - có khoản phải thu khổng lồ với 7.001,45 tỷ đồng. Tuy nhiên thuyết minh báo cáo tài chính khá mù mờ, không giải thích rõ các khoản thu này. Khoản phải thu của khách hàng đến cuối quý 1/2011 được ghi nhận là 1.397,87 tỷ đồng. Khoản phải thu khác là 5.895, 17 tỷ đồng. Trong đó, khoản phải thu khác này đang được trích lập dựng phòng 326,45 tỷ đồng. Hàng loạt CTCK khác cũng trong tình trạng tương tự. Công ty chứng khoán Bảo Việt có khoản phải thu khác 148,8 tỷ đồng trên tổng số phải thu 150,37 tỷ đồng. Công ty chứng khoán Sacombank phải thu khác 439,06 tỷ đồng trên tổng phải thu là 511,2 tỷ đồng. Công ty chứng khoán SME có khoản phải thu 525,02 tỷ đồng trên tổng phải thu là 721,1 tỷ đồng... Không thể tìm thấy các khoản mục cụ thể trong phần “Phải thu khác”, nhưng tất cả những khoản này đều chiếm tỉ trọng rất lớn trong tổng số phải thu của các công ty chứng khoán được khảo sát. Tính đơn giản tổng các khoản phải thu liên quan đến nghiệp vụ hợp tác đầu tư (nếu ghi rõ) và khoản “phải thu khác”, tổng giá trị tiền của 14 công ty 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan