Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nông - Lâm - Ngư Nông nghiệp Chuẩn đoán lâm sàng thú y...

Tài liệu Chuẩn đoán lâm sàng thú y

.PDF
20
602
144

Mô tả:

PHẦN A CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG THÚ Y Chương 1 ĐẠI CƯƠNG VỀ CHẨN ĐOÁN BỆNH Tóm tắt chương: nội dung nói rõ một số khái niệm về chẩn đoán; các phương pháp chẩn đoán bệnh trong thú y. Mục tiêu: giúp cho sinh viên chuyên ngành Chăn nuôi – Thú y có những kiến thức cơ bản trong khám bệnh cũng như các thuật ngữ chuyên ngành thường dùng 1.1. KHÁI NIỆM VỀ CHẨN ĐOÁN VÀ PHÂN LOẠI CHẨN ĐOÁN 1.1.1 Khái niệm chẩn đoán Chẩn đoán là phán đoán qua việc phát hiện, kiểm tra, phân tích, tổng hợp các triệu chứng để đưa ra kết luận chẩn đoán về bệnh gì và mức độ mắc bệnh. Một chẩn đoán đầy đủ và chính xác cần phải làm rõ được các nội dung sau: Vị trí bệnh trong cơ thể Tính chất của bệnh Hình thức và mức độ của những rối loạn trong cơ thể bệnh Nguyên nhân gây bệnh Tuy nhiên, một quá trình bệnh diễn ra trong cơ thể thường phức tạp, chẩn đoán dù có tỉ mỉ đến đâu cũng khó phát hiện hết những thay đổi của các quá trình đó và trả lời được đầy đủ các nội dung trên. Chẩn đoán lâm sàng càng cẩn thận, tỉ mỉ dựa trên nhiều mặt thì càng chính xác. Chú ý: Kết luận chẩn đoán có thể thay đổi theo quá trình bệnh. Gia súc có nhiều loại, đặc điểm sinh lý và các biểu hiện bệnh lý ở chúng cũng rất khác nhau. Phải cố gắng hiểu rõ và nắm được các đặc điểm sinh lý, các biểu hiện bệnh lý của từng loại gia súc, vận dụng thành thạo các phương pháp chẩn đoán thích hợp để rút ra một kết luận chính xác cho chẩn đoán. 1.1.2 Phân loại chẩn đoán a. Phân loại theo phương pháp chẩn đoán Theo phương pháp người ta chia chẩn đoán ra thành: Chẩn đoán trực tiếp: Đây là phương pháp chẩn đoán dựa vào các triệu chứng chủ yếu. Biện pháp này chỉ thực hiện hiệu quả khi vật bệnh biểu hiện các triệu chứng đặc trưng, điển hình. Ví dụ: Căn cứ vào các triệu chứng của trâu bò như lõm hông bên trái căng phồng, gõ vào thấy âm trống, con vật đau bụng, bồn chồn khó chịu,…để kết luận con vật bị chướng hơi dạ cỏ. Chẩn đoán phân biệt: Đây là biện pháp tổng hợp tất cả các triệu chứng mà vật bệnh biểu hiện, sau đó phân tích, so sánh, liên hệ với các bệnh liên quan, dùng phương pháp loại trừ dần những bệnh có những điểm không phù hợp, cuối cùng còn lại một bệnh có nhiều khả năng mà bệnh súc cần chẩn đoán mắc nhất. Chẩn đoán theo dõi: Trong một số trường hợp vật bệnh không biểu hiện các triệu chứng điển hình, do vậy ta không thể đưa ra được kết luận chẩn đoán sau khi khám mà phải tiếp tục theo dõi để phát hiện thêm những triệu chứng mới; thu thập thêm cơ sở, căn cư để kết luận chẩn đoán. Chẩn đoán dựa vào kết quả điều trị: Nhiều trường hợp con vật có triệu chứng lâm sàng, mà triệu chứng này lại có ở hai hay nhiều bệnh khác nhau, khi khám ta rất khó kết luận là 1 bệnh nào. Khi đó ta dùng phác đồ điều trị một trong các bệnh đó và căn cứ vào kết quả điều trị để đưa ra kết luận chẩn đoán. b. Phân loại theo thời gian chẩn đoán Theo thời gian chân đoán được chia làm các loại sau: Chẩn đoán sớm: Là đưa ra được các kết luận chẩn đoán ngay ở thời kì đầu của bệnh. Chẩn đoán sớm mang lại hiệu quả cao trong phòng và trị bệnh. Chẩn đoán muộn: Là các kết luận chẩn đoán được đưa ra vào thời kì cuối bệnh, thậm chí khi gia súc chết mổ khám mới chẩn đoán được bệnh. c. Phân loại theo mức độ chính xác Theo mức độ chính xác chẩn đoán được phân ra làm các loại sau: Chẩn đoán sơ bộ: Là việc đưa ra các kết luận chẩn đoán ngay sau khi khám bệnh để làm cơ sở cho điều trị. Chẩn đoán sơ bộ đưa ra các kết luận chưa được chính xác, do vậy cần tiếp tục theo dõi vật bệnh để đưa ra các kết luận chẩn đoán chính xác hơn. Chẩn đoán cuối cùng: Là việc đưa ra các kết luận chẩn đoán sau khi đã khám kĩ và căn cứ vào triệu chứng đặc trưng, sau một thời gian theo dõi cần thiết, căn cứ vào kết quả điều trị. Chẩn đoán nghi vấn: Đây là biện pháp thường gặp trong lâm sàng thú y, khi thấy một ca bệnh không có triệu chứng đặc trưng, điển hình, khi đó thường đưa ra các kết luận nghi vấn về bệnh để làm cơ sở cho điều trị. Kết luận nghi vấn cần được kiểm nghiệm thông qua việc theo dõi bệnh súc và kết quả điều trị. 1.2 KHÁI NIỆM VỀ TRIỆU CHỨNG VÀ PHÂN LOẠI TRIỆU CHỨNG 1.2.1 Khái niệm triệu chứng Triệu chứng là những rối loạn bệnh lý do nguyên nhân bệnh gây ra như những biểu hiện khác thường về cơ năng (tăng nhịp tim, tăng huyết áp…) và những biểu hiện bệnh lý (ổ viêm, vết loét…). Triệu chứng xuất hiện khi nguyên nhân gây bệnh đủ sức làm rối loạn sự hoạt động bình thường của cơ thể. Nhiệm vụ rất quan trọng của chẩn đoán là phát hiện triệu chứng của bệnh. Khi con vật mắc bệnh có thể biểu hiện rất nhiều các triệu chứng khác nhau, mỗi triệu chứng có một giá trị chẩn đoán nhất định. 1.2.2 Phân loại triệu chứng a. Phân loại theo phạm vi biểu hiện Theo phạm vi biểu hiện, triệu chứng được chia làm hai loại sau: Triệu chứng cục bộ: Là những rối loạn bệnh lý xuất hiện ở một bộ phận hay một khí quan nào đó của vật bệnh. Ví dụ: Khi con vật bị đau mắt: mắt có biểu hiện sưng đỏ, chảy nước mắt, nếu nặng chảy mủ, mắt sưng húp con vật không nhìn thấy được (hình 1.1) Triệu chứng toàn thân: Là những rối loạn bệnh lý xuất hiện do các phản ứng trên toàn bộ cơ thể đối với một nguyên nhân gây bệnh. Ví dụ: Con vật có biểu hiện mệt mỏi, ủ rũ, bỏ ăn, sốt, rối loạn Hình 1.1. Ngựa đau mắt tuần hoàn. Như vậy, triệu chứng toàn than nói lên tình trạng cơ thể. b. Phân loại theo giá trị chẩn đoán Theo giá trị chẩn đoán, triệu chứng được chia làm hai loại sau: Triệu chứng đặc thù: Là triệu chứng đặc trưng chỉ có ở một bệnh nào đó, khi gặp triệu chứng ấy thì chẩn đoán ngay được bệnh đó. Triệu chứng đặc thù chỉ có ở một số bệnh, không phải bệnh nào cũng có triệu chứng này. Ví dụ: Các dấu đỏ có hình: vuông, tròn, đa giác,…ở trên da của lợn trong bệnh Đóng dấu lợn là triệu chứng đặc thù (hình 1.2) 2 Triệu chứng chủ yếu và triệu chứng thứ yếu: Khi con vật bị bệnh nào đó có thể có nhiều triệu chứng. Trong đó, một số triệu chứng thường gặp hoặc đặc trưng trong bệnh đó, những triệu chứng này gọi là triệu chứng chủ yếu (có nhiều ý nghĩa trong chẩn đoán bệnh). Một số triệu chứng khác ít gặp hoặc không đặc trưng gọi là triệu chứng thứ yếu (ít có ý nghĩa chẩn đoán). Ví dụ: Khi con vật bị bệnh đường hô hấp thường có các triệu chứng chủ yếu là ho, khó thở,… có thể có các triệu chứng thứ yếu: rối loạn tiêu hóa, mệt mỏi, bỏ ăn… Triệu chứng điển hình và triệu chứng không điển hình: Triệu chứng điển hình là những triệu chứng phản ánh quá trình phát triển điển hình của bệnh. Qua triệu chứng điển hình ta Hình 1.2. Dấu son trên da lợn xác định được giai đoạn tiến triển của bệnh. bệnh bệnh Ví dụ: Quá trình phát triển của bệnh thùy phế viêm thường có ba giai đoạn (xung huyết gan hóa, tiêu tan), tương ứng với ba giai đoạn này khi ta khám bằng cách gõ vào vùng phổi của con vật phát ra các âm như sau: Âm bùng hơi, âm đục, âm bùng hơi. Nhiều bệnh có những triệu chứng không hoàn toàn theo quy luật phát triển thường thấy của bệnh, những triệu chứng như vậy gọi là triệu chứng không điển hình. Triệu chứng cố định và triệu chứng ngẫu nhiên: Triệu chứng cố định là triệu trứng thường có trong một số bệnh. Triệu chứng ngẫu nhiên là triệu chứng có lúc xuất hiện, có lúc không trong một bệnh nào đó. Ví dụ: Âm ran trong một số bệnh như viêm phế quản phổi, thùy phế viêm, viêm phổi hoại thư và hóa mủ,… là triệu chứng cố định. Trong bệnh viêm dạ dày ca ta mạn tính con vật đôi khi có triệu chứng thần kinh (run giẩy hoặc co giật), đó là triệu chứng ngẫu nhiên. Triệu chứng trường diễn và triệu chứng nhất thời: Triệu chứng trường diễn là triệu chứng xuất hiện trong suốt quá trình bệnh. Triệu trứng nhất thời chỉ xuất hiện trong một giai đoạn tiến triển của bệnh. Ví dụ: Trong bệnh viêm phế quản phổi, con vật ho suốt quá trình bệnh, lúc đầu là ho khan và ngắn, con vật có cảm giác đau. Sau đó tiếng ho ướt và kéo dài, con vật bớt đau. Như vậy, ho là triệu chứng trường diễn trong bệnh này. Khi nghe vùng phổi, lúc đầu thấy âm ran ướt sau thấy âm vò tóc, như vậy âm ran là triệu chứng nhất thời. Hội chứng: Là triệu chứng chung cho nhiều bệnh, thường gồm nhiều triệu chứng xuất hiện chồng lên nhau. Ví dụ: Hội chứng hoàng đản, hội chứng tiêu chảy, hội chứng đau bụng ngựa, hội chứng ure huyết,… 1.3 KHÁI NIỆM VỀ TIÊN LƯỢNG VÀ PHÂN LOẠI TIÊN LƯỢNG 1.3.1 Khái niệm tiên lượng Tiên lượng là việc người khám đưa ra các dự kiến về thời gian kéo dài của bệnh, các bệnh kế phát có thể xảy ra, khả năng cuối cùng của bệnh,… sau khi đã khám bệnh kĩ lưỡng và nắm chắc tình hình bệnh. Chẩn đoán bệnh là kết luận của hiện tại, còn tiên lượng là đưa ra các dự kiến trong tương lai. Tiên lượng là một công việc phức tạp, đòi hỏi phải có sự suy xét nhiều mặt. Tiên lượng không chỉ đánh giá vật bệnh sống hay chết, khỏi hay không khỏi mà còn phải tính đến tốn kém bao nhiêu, có kinh tế hay không… Do vậy, tiên lượng rất có ý nghĩa trong điều trị lâm sàng thú y. Để đánh giá tiên lượng được tốt, người bác sĩ thú y phải vững về chuyên môn, giàu kinh nghiệm công tác và am hiểu về kiến thức kinh tế, xã hội. 1.3.2 Phân loại tiên lượng Tiên lượng gồm có các loại sau: 3 Tiên lượng tốt: Bệnh súc có khả năng khỏi bệnh, khôi phục được sức khỏe, khôi phục được khả năng sản xuất và vẫn giữ được giá trị kinh tế. Tiên lượng không tốt: Bệnh súc chết hoặc không có khả năng khỏi bệnh hoàn toàn, mất khả năng sản xuất hoặc mất năng lực làm việc. Nếu điều trị khỏi cũng mất nhiều thời gian và tiêu tồn nhiều tiền của. Tiên lượng nghi ngờ: Là trường hợp bệnh súc có biểu hiện bệnh phức tạp, triệu chứng không điển hình, không đủ cơ sở để đưa ra đánh giá tiên lượng về bệnh. Tuy nhiên, một số trường hợp cần cần có kết luận tiên lượng để có biện pháp sử lí tiếp, nhưng kết luận đó không chắn chắn, đó là tiên lượng nghi ngờ. 1.4. PHƯƠNG PHÁP GẦN VÀ CỐ ĐỊNH GIA SÚC 1.4.1 Phương pháp gần gia súc Để đảm bảo cho người và gia súc khi khám bệnh và trị bệnh cho gia súc phải biết các tiếp cận gia súc. Trước khi tiếp xúc với gia súc cần phải hỏi kĩ chủ gia súc để biết được tính của con vật như con vật có hay cắn, hay đá không,… Người khám khi gần gia súc phải có thái đội ôn hòa, bình tĩnh, động tác nhẹ nhàng dứt khoát, không nên có những động tác thô bạo làm cho gia súc sợ sệt, phản ứng mạnh. Đối với trâu bò và ngựa: Để tiếp cận, người khám nên đứng trước gia súc, cách khoảng 1 m, rồi từ từ tiến lại gần, một tay cầm dây cương (ngựa) hoặc dây mũi (trâu bò), tay kia xoa hoặc vỗ nhẹ nhàng để làm quen với con vật. Đối với chó: Để tiếp cận người khám nên biết tên con vật và dùng thức ăn. Đối với lợn: Nên dùng thức ăn để tiếp cận. 1.4.2 Phương pháp cố định gia súc a. Ý nghĩa của việc cố định gia súc Để tiến hành tốt các thao tác: tiêm, lấy máu, băng bó vết thương, làm các phẫu thuật ngoại khoa như mổ dạ cỏ, thiến trâu bò đực… hoặc để cho chúng uống thuốc người cán bộ thú y thường phải bắt giữ và cố định chúng (trâu, bò, lợn…). Hiệu quả của các công việc trên phụ thuộc rất lớn vào khâu cố định gia súc. b. Các khâu chuẩn bị để cố định gia súc Kiểm tra kỹ các dụng cụ dùng để cố định như dây thừng, gióng gia súc,… xem có đủ và chắc chắn không. Phải biết sơ qua về tính tình con vật trước khi tiếp xúc. Phải làm quen gia súc, phải thao tác nhanh nhẹn, dứt khoát, nhưng cũng tránh những động tác quá thô bạo làm cho gia súc sợ hãi hoặc phản ứng mạnh làm khó khăn cho viêc cố định chúng. c. Một số phương pháp cố định gia súc * Đối với trâu bò Phương pháp kẹp cổ: Chọn 2 đoạn tre hoặc 2 đoạn cây chắc chắn, chôn xuống đất chéo nhau. Phía trên buộc lại tạo ra một khe vừa đủ cho trâu, bò chui qua (cũng có thể lợi dụng những cây có 2 chẽ phù hợp để cố định). Khi cố định trâu, bò thít chặt 2 dây ở 2 nút A, B. Có một người giữ thừng mũi (hình 1.3). Hình 1.3. Kẹp cổ và 2 nút dây thắt 4 Phương pháp cột cố định và buộc sừng hình số 8 Chọn một gốc cây tự nhiên hoặc chôn một cột gỗ chắc chắn. Ghì trán trâu, bò vào sát cột và buộc sừng vào cột theo hình số 8, thít chặt sừng vào cột. Cần có một người giữ mũi trâu và đầu dây thừng số 8 để trâu đứng yên khi tiêm hoặc thực hiện các thủ thuật khác (hình 1.4) Hình 1.4. Cột hình số 8 sừng trâu vào cột hoặc gốc cây. Phương pháp cố định đứng (Cố định trâu bò trong giá 4 trụ) Phần đầu và phần cổ được kẹp và buộc chặt (hình 1.5) để gia súc chỉ đứng tại chỗ, không tiến lên, cũng không lùi lại được. Hai chân sau dùng thừng buộc theo hình số 8. Phần ngực và bụng dùng dây thừng chắc buộc đỡ vào gióng. Không cho gia súc nằm xuống để dễ dàng thực hiện phẫu thuật hoặc khám bệnh. Hình 1.5. Giữ trâu bò đực trong giá 4 trụ để thiến Phương pháp vật trâu bò Trong một số phẫu thuật ngoại khoa bắt buộc phải vật ngã trâu, bò để cố định chúng. Có nhiều phương pháp vật trâu bò. Thường dùng phương pháp sau: Chuẩn bị buộc: Lấy một dây thừng thật chắc chắn dài 5 – 6 m. Một đầu thừng buộc cố định vào hai sừng gia súc, phần còn lại cuốn lần lượt làm 2 vòng (hình dưới). Một vòng sau nách và một vòng trước đùi gia súc. Đoạn còn lại kéo thẳng dọc theo thân gia súc (hình 1.6) Vật gia súc: Tiến hành theo trình tự sau: Một người khoẻ mạnh giữ 2 sừng để bẻ đầu con vật ngược theo chiều định cho con vật ngã. Hai hoặc 3 người kéo đoạn dây thừng còn lại theo chiều dọc thân gia súc. Chú ý: Phải có sự thống nhất giữa người bẻ đầu gia súc và những người kéo thừng ở phía sau. Trước khi vật phải kiểm tra mặt đất không gồ ghề, không có gạch đá và không nên cho gia súc này ăn quá no. 5 Hình 1.6. Phương pháp vật bò để cố định Khi con vật nằm xuống phải có người đè chặt đầu và ghìm sừng con vật xuống sát đất. Lấy dây thừng khác buộc hai chân sau và hai chân trước của trâu bò chụm lại với nhau. Dây thừng phải buộc sao cho khi không cần dùng nữa, cởi ra một cách dễ dàng nhanh chóng. Đối với bê nghé Người ta thường túm chân vật nằm, đè cố để cố định chúng (hình 1.7). Hình 1.7. Cố định nghé (túm chân vật nằm) * Đối với dê cừu Để cố định, người ta thường đứng dọc theo chiều con vật hai chân hai bên kẹp vào 2 thành bụng, hai tay nắm chặt sừng con vật (hình 1.8) Hình 1.8. Phương pháp cố định dê 6 * Cố định lợn Đối với lợn lớn Lợn được cố định bằng cách lồng một thòng lọng vào hàm trên, sau đó lồng tiếp thòng lọng thứ 2 quanh mõm để giữ cho hàm của nó đóng lại (hình 1.9 A) Hình 1.9 A. Phương pháp cố định lợn Hình 1.9 B. Phương pháp cố định lợn lớn Đối với lợn con Người ta thường dùng phương pháp túm chân lợn kẹp giữa hai đùi để cố định lợn con (hình 1.10) Hình 1.10. Phương pháp cố định lợn con (túm chân lợn kẹp giữa hai đùi) *Cố định chó Đầu tiên phải đeo rọ mõm hoặc bộc mồm chó, sau đó dùng dây vải cho vào mồm, phía trong răng nanh, rồi buộc hàm dưới lại, vòng dây buộc lên hàm trên, cuối cùng thắt nút lại ở phía sau cổ (hình1.11) 7 Hình 1.11. Phương pháp rọ mõm chó *Cố định gà Đối với gà lớn: Dùng bàn tay trái luồn xuống dưới lườn rồi nhấc gà ra khỏi chuồng. Hoặc dùng tay phải túm lấy 2 chân gà nhấc ra khỏi lồng. Sau đó đặt gà xuống, tay phải cố định 2 chân gà. Tay trái nhẹ nhàng mở cánh gà ra để người thứ 2 làm các thao tác như chủng… Đối với gà con: Đặt gà con trong lòng bàn tay trái, dùng ngón trỏ và ngón cái cố định cổ gà để đầu gà hướng lên trên cho tiện việc nhỏ thuốc vào mắt, mũi gà hoặc cho gà uống thuốc. 1.5. CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁM BỆNH Để khám bệnh cho gia súc có rất nhiều các phương pháp khác nhau. Các phương pháp khám bệnh cho gia súc được chia làm hai nhóm gồm các phương pháp khám cơ bản: quan sát (nhìn), sờ, nắn, gõ, nghe và các phương pháp khám bệnh đặc biệt: xét nghiệm, X – quang, siêu âm, nội soi,… Phần lớn triệu chứng được phát hiện nhờ các phương pháp khám cơ bản, tuy nhiên khi mắc bệnh con vật còn có những biểu hiện phi lâm sàng, những biểu hiện này chỉ có thể phát được nhờ các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm bằng các phương pháp khám đặc biệt. 1.5.1 Các phương pháp khám cơ bản a. Phương pháp quan sát Đây là phương pháp khám bệnh đơn giản nhưng chính xác, được sử dụng rộng rại trong lâm sàng thú y, là phương pháp được sử dụng trước tiên trong chẩn đoán bệnh gia súc. Qua phương pháp này ta có thể biết được trạng thái gia súc, cách đi đứng, màu sắc và tình trạng lông da, niêm mạc và các triệu chứng khác của con vật. Đồng thời quan sát giúp ta đánh giá được chất lượng đàn gia súc, sàng lọc được những con có nghi vấn mắc bệnh. Khi quan sát tùy theo mục đích và vị trí nhìn mà ta đứng xa hay đứng gần gia súc. Nhìn chung ta nên quan sát từ xa đến H.1.12.phương pháp quan sát gần, từ tổng quát đến bộ phận (hình 1.12) Nhìn toàn thân: là quan sát trạng thái, thái độ, cử động, tình hình dinh dưỡng, dáng điệu,… của gia súc. Nhìn cục bộ: nhìn lần lượt từ trước ra sau, từ trái qua phải, lần lượt các cơ quan bộ phận như đầu, cổ, lồng ngực, vùng bụng, bốn chân… để phát hiện những biến đổi bất thường nếu có như vết thương, vết loét, mụn, nốt, nước mắt, nước mũi, dử, lông rụng,… Nên quan sát nhờ ánh sáng ban ngày, nếu buổi tối hoặc thiếu ánh sáng có thể sử dụng ánh sáng điện hoặc đèn chiếu. Cần quan sát đối chiếu, so sánh giữa hai bộ phận tương ứng của 8 con vật: hai bên mông, hai bên thành bụng, hai bên ngực, hai bên chân… và có sự so sánh giữa cơ quan tổ chức đau với cơ quan tổ chức lành để thấy được những biến đổi bất thường. b. Phương pháp sờ nắn Sờ nắn là phương pháp dùng cảm giác của ngón tay, bàn tay để kiểm tra chỗ khám, xác định nhiệt độ, độ ẩm, trạng thái… và sự mẫn cảm của tổ chức cơ thể gia súc. Sờ nắn cũng biết được cảm giác của con vật khi đau. Qua sờ nắn người khám còn xác định được tình trạng mạch của gia súc, sờ nắn để đo huyết áp, để khám trực tràng. Do vậy, sờ nắn là phương pháp thường dùng trong thú y H 1.13. phương pháp sờ nắn (hình 1.13). Sờ nắn có hai cách sau: Sờ nắn nông: là việc sờ nắn những cơ quan bộ phận nông để biết được ôn độ, độ ẩm của da, lực căng của cơ, tần số hô hấp, nhịp tim… Sờ nắn sâu: dùng để khám các khí quan, tổ chức sâu trong cơ thể gia súc (ví dụ: Sờ nắn dạ cỏ trâu bò). Khi sờ nắn kiểm tra các khí quan, tổ chức của cơ thể gia súc, nhờ cảm giác tay ta có thể nhận biết các trạng thái sau: Dạng rất cứng: Như sờ vào xương. Dạng cứng: Như sờ vào gan, thận. Dạng bột nhão: Cảm giác mềm như bột, ấn tay rồi bỏ ra để lại vết. Dạng này thường do tổ chức bị thấm ướt (ví dụ: bị thủy thũng). Dạng ba động: Khi sờ thấy cảm giác lùng nhùng, di động, ấn vào giữa thì lõm xuống. Dạng này là do tổ chức mất đàn tính vì thấm đầy nước (Ví dụ: Các tổ chức bị mưng mủ). Dạng khí thũng: Sờ vào thấy cảm giác mềm, chứa đầy khí. Ấn mạnh vào tổ chức nghe thấy tiếng kêu lép bép do khí lấn sang phần tổ chức bên cạnh. Dạng này có thể do tổ chức tích khí hoặc có túi không khí. Sờ nắn là phương pháp khám bệnh đơn giản, tuy nhiên để sờ nắn mang lại hiệu quả cao đòi hỏi người khám phải nắm vững về vị trí giải phẫu và có kinh nghiệm trong chẩn đoán bệnh. c. Phương pháp gõ Gõ là phương pháp khám bệnh cơ bản, mà cơ sở của nó là ẩm hưởng, âm thanh do các vật thể chấn động tạo ra. Các vật thể khác nhau, ở trong các trạng thái khác nhau khi gõ sẽ cho các âm thanh khác nhau. Do vậy, các khí quan tổ chức khác nhau trong cơ thể gia súc có cấu tạo và tính chất khác nhau nên khi gõ sẽ phát ra các âm thanh khác nhau. Trong trạng thái bệnh lí, các cơ quan tổ chức cũng thay đổi về tính chất, khi đó âm phát ra khi gõ sẽ thay đổi. Kỹ thuật gõ Tùy theo gia súc cần khám bệnh lớn hay nhỏ mà ta có thể áp dụng các phương pháp gõ sau: * Gõ trực tiếp: Dùng ngón trỏ và ngón giữa của tay thuận gõ theo chiều thẳng đứng (vuông góc) vời bề mặt của tổ chức khí quan cần khám. Với cách gõ này, lực gõ không lớn, âm phát ra nhỏ, thường áp dụng với gia súc nhỏ. * Gõ gián tiếp: là các phương pháp gõ qua một vật trung gian Gõ qua ngón tay: Dùng ngón giữa và ngón trỏ tay trái đặt sát lên bề mặt tổ chức khí quan cần khám của gia súc, ngón giữa và ngón trở của tay phải gõ lên vuông góc với hai ngón tay trái. Phương pháp này thường áp dụng để khám Hình.1.14. búa gõ và bản gõ cho các loài gia súc nhỏ: dê, cừu, chó, mèo,… 9 Gõ bằng búa qua bản gõ Búa gõ có kích thước và trọng lượng khác nhau tùy theo vóc dáng của gia súc. Đối với gia súc nhỏ thường dùng loại búa có trọng lượng nhẹ từ 60 – 75 gam, gia súc lớn dụng loại búa nặng hơn 120 – 160 gam (hình 1.14) Bản gõ được làm cùng vật liệu với búa gõ, có thể bằng gỗ, sừng, nhựa hay kim loại. Bản gõ có loại hình vuông, hình tròn dài, hình chữ nhật,… sao cho thuận tiện, dễ thao tác, áp sát được vào thân con vật. Cách gõ: Tay trái cầm bản gõ (phiến gõ) đặt sát lên bề mặt khí quan tổ chức của gia súc cần khám. Tay phải cầm búa gõ, gõ dứt khoát từng tiếng một. Lực gõ mạnh hay nhẹ phụ thuộc vào tổ chức cần gõ to hay bé, ở nông hay sâu. Khi gõ mạnh, các chấn động có thể lan trên bề mặt cơ thể từ 4 – 6 cm, sâu đến 7 cm, còn nếu gõ nhẹ các chấn động lan 2 – 3 cm và sâu 4 cm. Khi gõ nên để gia súc ở nơi yên tĩnh, không có tạp âm để tránh làm lẫn tạp với âm gõ. Do vậy, nên để gia súc ở trong phòng có diện tích phù hợp và đóng kín cửa. * Những âm gõ Tùy theo đặc điểm và tính chất của các tổ chức, khí quan khi gõ ta có thể thấy các âm sau: Âm trong: âm này vang mạnh, âm hưởng kéo dài Ví dụ: Khi gia súc khỏe mạnh nếu ta gõ vùng phổi và vùng manh tràng thí ấm phát ra sẽ trong. Âm đục: âm này có tiếng vang yếu và ngắn Ví dụ: Khi gõ vùng gan hoặc vùng có bắp cơ dày sẽ phát ra âm đục. Khi phổi bị thùy phế viêm ở giai đoạn gan hóa ta gõ cũng sẽ nghe thấy có âm đục. Âm đục tương đối: là âm phát ra khi ta gõ vùng rìa phổi, vùng quanh tim hoăc vùng phổi bị xung huyết (vừa chứa nước vừa chứa khí)… Âm trống: là những âm to nhưng không vang Ví dụ: Âm phát ra khi ta gõ vào vùng dạ cỏ hoặc vùng manh tràng ở gia súc nhai lại khỏe mạnh. d. Phương pháp nghe: nghe là phương pháp dùng trực tiếp tai hoặc qua dụng cụ chuyên dụng để nghe những âm phát ra từ các khí quan bộ phận của của cơ thể gia súc như tim, phổi, dạ dày, ruột,…để biết được trạng thái và sự hoạt động của các cơ quan, bộ phận đó. * Các phương pháp nghe: có hai phương pháp nghe Nghe trực tiếp: là các dùng trực tiếp tai, áp sát vào cơ thể gia súc để nghe, người nghe có thể dùng một miếng vải hoặc miếng khăn sạch phủ lên vùng cần nghe trên cơ thể gia súc để giữ vệ sinh. Khi nghe phần ngực của gia súc thì người nghe quay mặt về phía đầu gia súc, còn khi nghe phần bụng của gia súc thì người nghe quay mặt về phía sau của con vật. Khi nghe tay bên trong của người Hình 1.15. Nghe tim bò nghe đặt lên sống lưng của con vật. Nghe gián tiếp: Đây là phương pháp nghe qua ống nghe. Hiện nay người ta thường dùng ống nghe hai loa có độ phóng đại âm thanh lớn, sử dụng thuân lợi nhưng dễ lẫn tạp âm, làm tính chất âm thay đổi (hình 1.15) * Điều kiện nghe Khi khám gia súc bằng phương pháp nghe phải thực hiện các điều kiện sau: Để gia súc ở nơi yên tĩch, tránh gió to, không làm gia súc rung da, gia súc phải đứng ở tư thế thoải mái. Nghe lần lượt từ trên xuống dưới, từ trái qua phải, ở mỗi vị trí phải nghe lâu để xác định rõ âm thanh nghe được. 10 Khi nghe phải có sự so sánh đối chiếu giữa hai bên ngực, nếu muốn nghe rõ thì cho gia súc vận động trong vài phút. 1.5.2. Các phương pháp khám đặc biệt Trong nhiều trường hợp, các phương pháp khám cơ bản không thể đưa ra những kết luận chẩn đoán chính xác hoặc cần phải có thêm căn cứ để kết luận về bệnh thì việc sử dụng các biện pháp khám đặc biệt là cần thiết. Các phương pháp khám đặc biệt bao gồm có các phương pháp sau a. Xét nghiệm Trong một số bệnh cụ thể cần phải tiến hành một số xét nghiệm cận lâm sàng (trong phòng thí nghiệm) như các xét nghiệm máu, phân, nước tiểu, sữa… b. X quang Chẩn đoán X-quang là những phương pháp dùng tia Rơnghen để khám xét trong cơ thể. Những phương pháp đó dựa vào: Tính chất đâm xuyên sâu của tia X-quang. Sự hấp thụ tia X- quang khác nhau của các phần tử trong cơ thể. Do các mô hấp thụ tia X-quang khác nhau nhiều hay ít nên nó tạo ra những hình X-quang đậm hay nhạt. Vì tia X-quang không tác dụng trên võng mạc mắt nên Hình.1.16. Chụp X-quang để thấy các hình ảnh đó, người ta phải dùng các phương pháp đặc biệt sau: Phương pháp chụp X- quang: dùng phim ảnh để chụp (hình 1.16). Phương pháp chiếu X- quang hay chiếu điện: dùng màn chiếu huỳnh quang hoặc dùng tăng sáng truyền hình. Hiện nay, người ta không dùng chiếu X- quang dưới màn huỳnh quang mà chỉ chiếu X-quang dưới tăng sáng truyền hình để giảm liều nhiễu xạ, bảo vệ cho thầy thuốc và cơ thể bệnh, đồng thời cho chất lượng hình ảnh tốt hơn. Khi cần thấy rõ chi tiết cấu tạo của một bộ phận cụ thể của cơ thể như: xương, phổi… người ta sử dụng phương pháp chụp X-quang. Tuy nhiên, khi muốn khám xét các bộ phận theo đủ mọi hướng và muốn thấy sự chuyển động của các cơ quan như: nhu động của dạ dày ruột… người ta dùng phương pháp chiếu X-quang. Hai phương pháp trên không mâu thuẫn với nhau mà được sử dụng kết hợp với nhau nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác chẩn đoán bệnh. c. Siêu âm (hình 1.17) * Nguyên lý J. Curie (1880) và Lippman (1981) đã tìm ra sóng siêu âm trên cơ sở hiệu ứng áp điện. Trên cơ sở tinh thể áp điện ép vào, giãn ra dưới ảnh hưởng của dòng điện xoay chiều tạo ra năng lượng âm học, người ta chế tạo ra các đầu dò phát và thu sóng siêu âm. Các sóng âm được phát ra từ đầu dò xuyên qua các tổ chức cơ thể, dội lại một phần năng lượng nếu gặp các tổ chức kháng âm của tổ chức khác nhau. Phần sóng âm còn lại tiếp Hình 1.17. siêu âm chẩn đoán bệnh tục truyền đi và dội lại tới khi không còn năng lượng. Các sóng âm dội lại trở về đầu dò phát sóng được đưa vào bộ phận tiếp nhận khuyếch đại của máy siêu âm để xuất hiện trên màn hiện sóng. Tín hiệu ghi nhận trên màn hiện sóng phản ánh cấu trúc của tổ chức khi sóng siêu âm truyền qua như kích thước, độ dày, biên độ di động, khoảng cách giữa các cấu trúc,… 11 Siêu âm là những sóng âm có tần số cao hơn 20.000 Hz, có đặc tính: Sự phát xạ của siêu âm Tính dẫn truyền của siêu âm. Sự phản hồi của siêu âm khi truyền qua môi trường khác nhau của các cơ quan. Sự suy giảm của siêu âm * Tính ưu việt của siêu âm Phương pháp thăm dò không chảy máu Không độc hại cho cơ thể nên thăm dò được nhiều lần để theo dõi diễn biến bệnh. Sử dụng dễ dàng và có kết quả nhanh chóng. d. Nội soi Để chẩn đoán bệnh nhất là bệnh đường tiêu hoá, hiện nay trong y học dùng các phương pháp nội soi: soi dạ dày - tá tràng, soi đại tràng, soi hậu môn - trực tràng, soi ổ bụng (hình 1.18) Soi dạ dày - tá tràng là phương pháp thăm dò bên trong ống tiêu hoá từ thực quản đến tá tràng nhờ máy nội soi dạ dày tá tràng ống mềm. Soi đại tràng, hậu môn - trực tràng là phương pháp chẩn đoán có sử dụng ống soi mềm đưa từ hậu môn đi ngược lên manh tràng để quan sát tổn thương của từ hậu môn lên đại tràng. Hình 1.18. Phương pháp nội soi khí quản ở gia súc Soi ổ bụng là phương pháp thăm dò trực tiếp về hình thái một số cơ quan trong ổ bụng, đánh giá tình trạng bất thường và mối liên quan giữa các cơ quan đó. Qua soi ổ bụng có thể sinh thiết để chẩn đoán bệnh. Phương pháp này đòi hỏi sự vô trùng tuyệt đối, tuân theo những chỉ định và chống chỉ định để hạn chế những tai biến có thể xảy ra, nguy hiểm đến con bệnh (Thí dụ: Nhiễm trùng, chảy máu,…). Ngày nay, người ta áp dụng nội soi điều trị để thay thế một số phẫu thuật thường qui ngày càng được áp dụng rộng rãi ở các cơ sở nội khoa, ngoại khoa, sản khoa. Phẫu thật qua nội soi có nhiều ưu điểm: thời gian ngắn hơn, chăm sóc sau phẫu thuật đơn giản hơn, có lợi cho sức khoẻ con bệnh. Chương 2 TRÌNH TỰ KHÁM BỆNH Tóm tắt chương: Nói về trình tự khi khám một vật nuôi mắc bệnh, tác dụng của bệnh án và bệnh lịch về mặt nghiên cứu khoa học và hành chính pháp lý, cách hỏi bệnh đối với chủ vật nuôi Cách tiến trình khám tổng thể một con bệnh như kiểm tra niêm mạc, khám lông và da, khám thân nhiệt,… Mục tiêu: Cung cấp cho sinh viên những kiến thức về cách lập hồ sơ bệnh, cách ghi chép từng phần trong hồ sơ bệnh đảm bảo tính khoa học và trung thực Giúp cho sinh viên có những kỹ năng khám tương ứng với mỗi một cơ quan nhất định và có những kiến thức tổng thể vè cách khám, đánh giá một cơ quan mắc bệnh theo sự biểu hiện khác nhau của các triệu chứng 12 2.1. HỎI BỆNH (hỏi chủ nhà về con vật ốm) Việc hỏi chủ nhà sẽ giúp ta có những thông tin quan trọng ban đầu về biểu hiện bệnh trên con vật ốm, về phương thức chăn nuôi và các lý do khác làm cho con vật ốm. 2.1.1. Hỏi thông tin về con vật * Nguồn gốc vật nuôi: loài, giống, xuất xứ? (giống mua từ đâu về hay tự gia đình sản xuất được?). Rất nhiều bệnh có liên quan đến các thông tin này. Ví dụ: gà ta thường ít mắc bệnh so với gà công nghiệp. Còn về xuất xứ: nếu giống mua ở nơi khác về thì có thể mang bệnh theo hoặc bị mắc bệnh trong quá trình vận chuyển... * Tuổi: vật nuôi còn non, trưởng thành, đã già ? Có rất nhiều bệnh chỉ xảy ra ở một độ tuổi nào đó. Ví dụ: bệnh lợn con ỉa phân trắng, bệnh giun đũa bê nghé. * Tính biệt: đực hay cái ? Nếu là gia súc cái: thời gian phối giống, chửa, đẻ, sảy thai hoặc các vấn đề khác như thế nào ? Nhiều bệnh có liên quan đến tính biệt của vật nuôi. Ví dụ: bệnh xảy thai, viêm vú chỉ có ở gia súc cái. * Tình trạng hiện tại của vật nuôi: còn ăn hay bỏ ăn ? Có đứng, đi lại được hay nằm lả,… Qua các thông tin trên có thể biết được bệnh nặng hay nhẹ và có hướng can thiệp kịp thời. 2.1.2. Hỏi biểu hiện của bệnh Xảy ra từ khi nào ? Tiến triển của bệnh nhanh hay chậm ? Con vật ốm có biểu hiện gì khác thường kể từ khi bắt đầu ốm cho đến khi kiểm tra ? Triệu chứng ở con vật ốm ? Có bao nhiêu con chết trong tổng đàn vật nuôi của gia đình ? Bệnh đã từng xảy ra bao giờ chưa ? Các loại vật nuôi khác trong nhà có bị bệnh không ? Vật nuôi nhà hàng xóm có bị bệnh như thế không? 13 Qua đó có thể biết được mức độ nặng nhẹ (chết nhiều hay ít), bệnh cấp tính (tiến triển nhanh) hay mãn tính (tiến triển chậm), mức độ lây lan nhanh hay chậm?. 2.1.3. Hỏi thông tin về môi trường xung quanh Thức ăn, nước uống: cho vật nuôi ăn thức ăn gì? Thức ăn có thay đổi gì không? Thức ăn có đủ không ? Cách cho ăn? Nước uống có đủ sạch sẽ không? Phương thức chăn nuôi: nuôi nhốt hay thả rông? Chuồng nuôi: Có khô ráo không? Có vệ sinh sạch sẽ, có thường xuyên tắm chải cho vật nuôi không ? Mật độ nuôi, nhốt có quá đông không? Có nhập đàn vật nuôi mới không? Có mua thịt hoặc sản phẩm chăn nuôi ở chợ mang về nhà không ? Có khách đến tham quan không ? Qua các thông tin trên, có thể định hướng được: liệu có phải là bệnh do nguyên nhân chăm sóc, nuôi dưỡng và sử dụng, hoặc có thể do bệnh lây lan từ xung quanh qua người hoặc động vật khác (nhất là đối với các bệnh truyền nhiễm). 2.1.4. Tác động của chủ vật nuôi Đã phòng vắc-xin cho con vật chưa ? Tên vắc-xin ? Ai dùng và khi nào ? Có cách ly con vật ốm không ? Có điều trị bằng thuốc không ? dùng thuốc gì ? Mua thuốc ở đâu ? Ai chữa ? Liều lượng thế nào ? Qua đó có thể loại bỏ khả năng xảy ra của các bệnh đã được phòng bằng vắc-xin và giúp định hướng cho việc chẩn đoán, điều trị. 2.2. KHÁM CHUNG 2.2.1. Quan sát bên ngoài con vật ốm Quan sát để xem tình trạng con vật tại chuồng nuôi và các biểu hiện khác thường của nó, đồng thời kiểm tra lại những thông tin đã được cung cấp từ chủ vật nuôi. a. Tình trạng hiện tại. Tư thế của con vật: đi đứng có bình thường không ? Có chân nào bị liệt hay bị đau không ? Đau ở chỗ nào ? Trong trường hợp con vật bị viêm khớp hoặc tổn thương ở các cơ quan vận động hay bị bệnh Lở mồm long móng thì đi lại rất khó khăn và con vật có biểu hiện đau. 14 Con vật có còn tỉnh táo hay mệt mỏi, nằm lả, ủ rũ ? (hình 2.1) Nếu nằm bệt một chỗ thì tư thế nằm như thế nào ? Con vật gầy hay béo ? Trong một số bệnh mạn tính, bệnh do ký sinh trùng và bệnh do dinh dưỡng thì con vật sẽ gầy còm, ốm yếu. Bụng con vật như thế nào ? Có bị chướng bụng không ? Ví dụ: trâu bò bị chướng hơi dạ cỏ thì bụng bên trái sẽ phình to lên. Hình 2.2.Chảy nước mũi Hình 2.1 Con vật ủ rũ Các lỗ tự nhiên (mắt, lỗ mũi, lỗ đái, hậu môn,...) của con vật có dịch viêm chảy ra không ? Trong nhiều bệnh, nhất là khi bị viêm nhiễm, các lỗ tự nhiên sẽ có dịch viêm, mủ, thậm chí lẫn cả máu chảy ra. Ví dụ: khi bị bệnh nhiệt thán, các lỗ tự nhiên của trâu bò thường chảy máu đen khó đông, khi bị viêm phổi nước mũi chảy nhiều (hình 2.2) b. Lông, da Mượt hay xơ xác ? Sạch hay bẩn? Có chỗ nào bị sưng không ? Màu sắc của da có thay đổi gì không? Có điểm, đám tụ huyết hay xuất huyết không? Có tổn thương gì trên da không ? Có ký sinh trùng ngoài da không ? Hình 2.3. Xuất huyết dưới da Trong nhiều bệnh, trên da sẽ có các dấu hiệu rất điển hình. Ví dụ: Lợn bị 1 trong 4 bệnh đó thì trên da sẽ có các điểm tụ huyết hoặc xuất huyết (hình 2.3) c. Hô hấp Con vật thở như thế nào ? Có khó thở không ? Cách thở ra sao ? Nhịp thở nhanh hay chậm ? Có bị ho không ? Hình 2.4. Thở khó Các triệu chứng trên thường có ở một số bệnh về đường 15 hô hấp. Ví dụ: khi bị bệnh viêm phổi con vật thường khó thở (hình 2.4) 2.2.2. Kiểm tra phân Trạng thái của phân có bình thường không? Có bị nhão ? Lỏng ? Táo (hình 2.5) Màu sắc của phân có thay đổi không ? Hình 2.5.Lợn ỉa chảy Trong phân có lẫn mủ, máu, màng nhầy không Trong phân có lẫn giun, sán không ? Trong phân có lẫn thức ăn chưa tiêu hoá không Phân có mùi thối khắm không ? 2.2.3. Kiểm tra nước tiểu. Số lượng nước tiểu nhiều hay ít? Trong nước tiểu có lẫn máu, mủ không ? Màu sắc của nước tiểu có thay đổi không ? (vật nuôi bị xuất huyết nặng ở thận hoặc bị bệnh ký sinh trùng đường máu thì nước tiểu có màu đỏ hoặc nâu đỏ). 2.3. SỜ NẮN VÀ KHÁM CÁC CƠ QUAN 2.3.1. Khám hạch lâm ba Khám hạch lâm ba rất có ý nghĩa trong chẩn đoán bệnh truyền nhiễm, nhất là trong bệnh lao hạch, bệnh tị thư, bệnh lê dạng trùng, thay đổi hạch lâm ba rất đặc hiệu. Trong cơ thể có rất nhiều hạch lâm ba, nhưng ta chỉ khám được các hạch nằm dưới da. Khi gia súc ốm một số hạch sẽ sưng to. a. Phương pháp khám: Nhìn, sờ nắn, chọc dò lúc cần thiết. Trâu, bò: Hạch dưới hàm, hạch trước vai, hạch trước đùi, hạch trên vú. Hạch dưới hàm ở trâu, bò nằm ở Hình 2.6.Vị trí hạch lâm ba ngoài phía trong phần sau xương hàm dưới, to bằng nhân quả đào, tròn và dẹp. Khi bị lao hạch cổ, hạch trên lỗ tai, hạch hầu nổi rõ có thể sờ được (hình 2.6) Ngựa: Hạch dưới hàm, hạch trước đùi. Ở ngựa hạch dưới hàm hình bao dài, to bằng ngón tay trỏ, nằm dọc theo mặt trong hai xương hàm dưới hai bên. Sau gờ động mạch dưới hàm. Khi có bệnh hạch bên tai, hạch cổ, hạch trước vai nổi rõ. 16 Lợn, chó, mèo: Hạch bẹn trong. Các hạch khác thường ở sâu khó sờ thấy. Khi khám hạch dưới hàm, người khám đứng bên trái hoặc bên phải gia súc tùy theo cần khám hạch nào, một tay cầm dây cương hay dây thừng, tay còn lại sờ hạch. Thế thuận lợi là ngưới khám đứng bên trái gia súc tay trái cầm dây cương tay phải khám. Hạch trước vai: ở trên khớp bả vai một ít, mặt dưới chùm cơ vai. Dùng cả 4 ngón tay ấn mạnh vào mặt trước chùm cơ bả vai, lần lui tới sờ tìm hạch. Những gia súc béo thường khó khám. Hạch trước đùi to bằng hạt mít, nằm dưới phần trùng mặt trước cơ căng mạc đùi. Lúc khám một tay để lên sống lưng làm điểm tựa, tay còn lại theo vị trí trên lần tìm hạch. Hạch trên vú: ở bò sữa nằm dưới chân bồng vú về phía sau. Cần cố định ga súc để khám nhất là ngựa hay đá về phía sau. b. Những triệu chứng. Những triệu chứng ở hạch cần chú ý: Hạch sưng cấp tính: Thể tích hạch to, nóng, đau và cứng, các thùy nổi rõ mặt trơn và ít di động. Hạch sưng trong các bệnh truyền nhiễm cấp tính, do những bộ phận gần hạch bị viêm ( như viêm mũi, viêm thanh quản) làm hạch dưới hàm sưng. Trâu, bò bị lê dạng trùng, hạch dưới hàm, hạch cổ, hạch trên vú sưng rất rõ. Hạch hóa mủ: Thường do viêm cấp tính phát triển thành. Lúc dầu hạch sưng, nóng, đau, sau đó phần giữa nhũn, phổng cao, bùng nhùng, lông dụng và thường hạch vỡ hoặc lấy kim trọc thì có mủ chảy ra. Ở ngựa hạch dưới hàm sưng to, hóa mủ, chung quanh hạch viêm thẩm ướt là triệu chứng của bệnh viêm hạch lâm ba truyền nhiễm. Nếu mủ trong hạch ít, tổ chức quanh hạch không viêm thường do lao hay tị thư. Cũng có trường hợp hạch hóa mủ là do tổ chức đó bị viêm lâu ngày. Hạch tăng sinh và biến dạng: Do viêm mãn tính, tổ chức tăng sinh viêm dính với tổ chức lành sung quanh làm thể tích hạch to không di động được. ấn vào không đau, mặt hạch không đều. Ở ngựa thấy triệu chứng trên trong bệnh tỵ thư, viêm xoang mũi mãn tính. Bò do lao hạch, xạ khuẩn. Các hạch trên toàn thân sưng to thường do bệnh bạch huyết( leucosia). Lợn: Hạch cổ, hạch sau hầu sưng cứng do lao. 17 2.3.2. Khám phần đầu Khám miệng: dùng miếng vải kéo lưỡi con vật ra khỏi miệng. Khám trong miệng xem có dị vật gì không ? Miệng, lưỡi có bị tổn thương gì không ? Khám mắt, mũi: xem có dị vật không ? Có viêm, sưng không ?, màu sắc niêm mạc như thế nào? Nếu có ổ viêm thì tại vị trí viêm có 4 biểu hiện đặc trưng là: sưng, nóng, đỏ, đau. 2.3.3. Khám phần chân Khớp: có bị viêm ? Gầm bàn chân có dị vật ? Vành móng, kẻ móng: có mụn nước ? có tổn thương ? 2.3.4. Khám cơ quan sinh dục: Có dịch viêm, mủ, máu chảy ra không ? Gia súc đẻ thì có bị sót nhau ?, có bị sát nhau ? lộn tử cung không? 2.3.5. Khám vú Sờ nắn bầu vú gia súc cái xem có bị sưng, nóng, đỏ, đau hoặc có mụn nước lở loét không ? Tuyến sữa có bình thường không? có mủ, máu chảy ra từ tuyến sữa không 2.4. KHÁM THÂN NHIỆT. Thân nhiệt cao hay thấp được coi là triệu chứng bệnh quan trọng. Có thể căn cứ vào thân nhiệt: Để chẩn đoán là bệnh cấp tính hay mãn tính, bệnh nặng hay bệnh nhẹ (bệnh cấp tính có thân nhiệt cao, còn bệnh mạn tính thân nhiệt thường không cao) Dựa vào thân nhiệt có thể chẩn đoán phân biệt giữa bệnh truyền nhiễm với hiện tượng trúng độc (bệnh truyền nhiễm thân nhiệt tăng cao, trúng độc thân nhiêt không tăng so với bình thường). Dựa vào thân nhiệt hàng ngày để theo dõi kết quả điều trị và tiên lượng (bớt sốt từ từ thường do điều trị đúng và tiên lượng tốt. Nếu đang sốt cao thân nhiệt đột ngột tụt xuống là triệu chứng xấu) 2.4.1.Thân nhiệt bình thường 18 Động vật có vú, gia cầm thân nhiệt ổn định ngay cả khi điều kiện môi trường sống thay đổi. Chăn nuôi giống nhau, thân nhiệt gia súc non cao hơn gia súc trưởng thành, gia súc già. Ở con cái cao hơn con đực. Trong một ngày đêm thân nhiệt thấp lúc sáng sớm (1-5 giờ), cao nhất vào buổi chiều (16-18 giờ). Mùa hè, trâu bò làm việc dưới trời nắng gắt thân nhiệt có thể cao hơn bình thường, 1,0-1,80C. Thân nhiệt dao động trong vòng 10C nằm trong phạm vi sinh lý; nếu vượt quá 10C, kéo dài sẽ ảnh hưởng các hoạt động của cơ thể. * Cách đo thân nhiệt: Dùng nhiệt kế có khắc độ “C” theo cột thủy ngân (hình 2.7) Trước khi dùng vẩy mạnh cho thủy ngân đến vạch cuối cùng. Đo thân nhiệt ở trực tràng, con cái khi cần có thể đo ở âm đạo. Thân nhiệt đo ở trực tràng thấp hơn nhiệt độ của máu 0,5-1,00C, ở âm đạo thấp hơn ở trực tràng 0,2- 0,50C,nhưng lúc có chửa lại cao hơn 0,50C. Hình 2.7.Cách đo thân nhiệt gia súc Trong một ngày đo thân nhiệt vao buổi sáng lúc 7-9 giờ, buổi chiều lúc 16-18 giờ * Đo thân nhiệt trên trâu, bò: không cần cố định gia súc. Một người giữ dây thừng hoặc cột lại, người đứng sau gia súc tay trái nâng đuôi lên, tay phải đưa nhẹ nhiệt kế vào trực tràng hơi hướng về phía dưới. Nhiệt kế lưu lại trong trực tràng trong 5 phút. * Đo thân nhiệt lợn, chó, mèo, dê, cừu: để đứng hoặc cho nằm, gia cầm giữ nằm để đo. * Đo thân nhiệt ngựa: Cần thận trọng vì ngựa rất mẫn cảm và đá về phía sau. Cho ngựa vào gióng cố định cẩn thận. Người đo đứng bên trái gia súc, trước chân sau, mặt quay về phía sau gia súc. Tay trái cầm đuôi bắt quay về phía sau và giữ lên trên sương khum. Tay phải cho nhiệt kế vào trực tràng, hơi nghiêng về phía trên một tý, lần nhẹ nhiệt kế về phía trước. Lúc niêm mạc ruột bị xây sước và chảy máu thì phải thụt thuốc tím ngay để sát trùng. 19 Thân nhiệt bình thường của vật nuôi Loài gia súc Bò Trâu Ngựa Cừu, dê Lợn Chó Mèo Thỏ Gà vịt chuột lang ngỗng ngan la, lừu Thân nhiệt ( 0C) 37,5-39,5 37,0-38,5 37,5-38,5 38,5-40,0 38,0-40,0 37,5-39,0 38,0-39,5 38,5-39,5 40,0-42,0 41,0-43,0 38,5-38,7 40,0-41,0 41,0-43,0 37,5-38,5 2.4.2. Rối loạn thân nhiệt: Khi cơ thể ở trong trạng thái bệnh lý, thân nhiệt sẽ bị thay đổi. Trên lâm sàng thường thấy có hai sự thay đổi: Thân nhiệt cao hơn bình thường (sốt), thân nhiệt thấp hơn bình thường (hạ thân nhiệt). Sốt: Là phản ứng toàn thân đối với tác nhân gây bệnh mà đặc điểm chu yếu là cơ thể sốt (thường gặp khi cơ thể bị nhiễm khuẩn). Quá trình đó là do tác động của vi khuẩn, độc tố của nó và những chất độc khác hình thành trong quá trình bệnh. Những chất đó thường là protein hay sản phẩm phân giải của nó. Sốt là khi thân nhiệt cao vượt khỏi phạm vi sinh lý. * Cơ chế sốt: Do nhiều nhân tố kích thích (vi khuẩn và độc tố của nó, virus, nấm, phản ứng miễn dịch, các hormone, thuốc, các sản phẩm phân hủy của tổ chức,…) gọi chung là chất sinh nhiệt ngoại sinh. Chất sinh nhiệt ngoại sinh tác động qua một chất sinh nhiệt nội sinh. Lý luận này rút ra từ những kết quả thực nghiệm trên động vật thí nghiệm. Chất sinh nhiệt đồng chất với Interlertin-I, sản phẩm tế bào đơn nhân của tế bào đơn nhân (monocyte) và đại thực bào. Sản sinh chất sinh nhiệt/ IL-I là khởi phát nhiều phản ứng - đáp ứng của giai đoạn cấp tính. Chất sinh nhiệt/IL-I gắn với các nơ ron cảm nhiệt vùng dưới đồi dẫn đến tăng đột ngột quá trình sinh nhiệt trong cơ bắp (rùng mình), sau đó giảm mất nhiêt (co mạch ngoài da). Ở bên trong vùng dưới đồi, chất sinh nhiêt/IL-1 kích thích quá trình tổng hợp prosta glandin E1(PG E1) từ các axit của các màng tế bào hoạt hóa sinh nhiệt và giải nhiệt. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan