Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chính sách tôn giáo từ thực tiễn thành phố hồ chí minh...

Tài liệu Chính sách tôn giáo từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

.PDF
91
734
135

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THANH HÒA CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THANH HÒA CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Chính sách công Mã số: 60.34.04.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. VĂN TẤT THU HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Văn Tất Thu. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Hà Nội, ngày tháng năm 2017 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Lê Thanh Hòa LỜI CẢM ƠN Sau gần 02 năm học tập và nghiên cứu tại Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Việt Nam, được sự quan tâm giúp đỡ của các thầy, cô giáo đặc biệt là sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của PGS. TS Văn Tất Thu, sự giúp đỡ của các bạn, đến nay tôi đã hoàn thành Luận văn thạc sĩ Chính sách công “Chính sách tôn giáo từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”. Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình, chu đáo của PGS. TS Văn Tất Thu và các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, các thầy, cô giáo, các đồng chí lãnh đạo Ủy ban nhân dân Thành phố, Sở Nội vụ Thành Phố Hồ Chí Minh, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Tôn giáo Thành phố và cán bộ thực hiện công tác tôn giáo trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành Luận văn này. TÁC GIẢ MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM 1.1. Những vấn đề lý luận chung về chính sách tôn giáo ở Việt Nam.................. 6 1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về tôn giáo. ...................... 20 Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội và tôn giáo của Thành phố Hồ Chí Minh ảnh hưởng đến thực hiện chính sách tôn giáo ............................................................ 29 2.2. Thực trạng chính sách tôn giáo hiện nay ..................................................... 34 2.3. Thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh ....... 44 2.4. Đánh giá chung vể chính sách tôn giáo hiện nay ......................................... 52 Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Phương hướng hoàn thiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay .......... 62 3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay ........... 65 3.3. Các kiến nghị đề xuất. .................................................................................. 76 KẾT LUẬN CHUNG ........................................................................................ 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 81 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BHG Ban Hành giáo CNH-HĐH Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá CNLĐ Công nhân lao động CNXH Chủ nghĩa xã hội CSVN Cộng sản Việt Nam GHPG Giáo hội Phật giáo HĐND Hội đồng nhân dân HTCT Hệ thống Chính trị MTTQ Mặt trận Tổ quốc QLNN Quản lý nhà nước TCN Trước Công nguyên UBĐK Uỷ ban Đoàn kết UBND Uỷ ban nhân dân UBTV Uỷ ban Thường vụ UBTVQH Uỷ ban Thường vụ Quốc hội XHCN Xã hội chủ nghĩa TNCS Thanh niên Cộng sản MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tôn giáo là một phạm trù thuộc thượng tầng kiến trúc. Tôn giáo ra đời và tác động sâu sắc đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Tôn giáo không chỉ thuần túy giải thích sự hình thành, phát triển của tự nhiên và xã hội; không chỉ hướng con người đến những giá trị của đời sống tinh thần và phương thức để thực hiện những ước muốn hạnh phúc của con người. Xã hội càng phát triển, tri thức khoa học mở ra cho nhân loại khả năng nối dài các giác quan để nhận thức sâu sắc hơn giới tự nhiên và bản thân con người, nhưng không vì thế mà tôn giáo thu hẹp ảnh hưởng của mình mà trái lại, tôn giáo tiếp tục phát triển cả về quy mô hệ, phái cả về quy mô thiết chế và tín đồ trên phạm vi toàn thế giới. Ngày này, tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã hội, ra đời và phát triển cả ngàn năm. Từ khi ra đời, tôn giáo đã trải qua những thăng trầm và không ngừng biến đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội, nhưng chung nhất, nó luôn là một nhu cầu tinh thần của đa số nhân loại. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đến tập quán của nhiều quốc gia, của các tộc người trong một quốc gia, theo cả các chiều tích cực và tiêu cực. Ở Việt Nam cũng vậy, là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo đang có xu hướng phát triển mạnh, đến nay năm 2017, Nhà nước ta đã công nhận tư cách pháp nhân cho 14 tôn giáo, với 38 tổ chức tôn giáo. Trong đó, các tôn giáo bản địa (nội sinh) và các tôn giáo được du nhập từ nước ngoài vào (ngoại sinh) đều được tạo điều kiện bình đẳng hoạt động theo pháp luật. Tình hình đó như là sự phản ánh về quá trình đất nước đổi mới, Việt Nam đã có sự phát triển khá mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, vì thế tôn giáo càng được khẳng định rõ hơn, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Bên cạnh những sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội lành mạnh, tuân thủ pháp luật, thì vẫn còn có hiện tượng một số người lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để 1 hành nghề mê tín dị đoan, mê hoặc nhân dân, cao hơn là phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc... Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước cần giải quyết vấn đề tôn giáo ở nước ta bằng các chính sách về tôn giáo từ đó giải quyết các vấn đề tôn giáo hiện nay một cách thành công trên cả nước. Ban hành thực thi chính sách tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng và có ý nghĩa quyết định sự thành bại của công tác tôn giáo trong tình hình mới. Các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác tôn giáo đều nhấn mạnh đến vai trò của công tác này và việc giải quyết vấn đề chính sách tôn giáo là một trong những việc làm cần thiết để đảm bảo khối đại đoàn kết dân tộc nhằm tới mục đích phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm qua thực hiện tốt chính sách tôn giáo, tình hình tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh tương đối ổn định, sinh hoạt tôn giáo và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra bình thường đúng với chủ trương của Đảng, chính sách tôn giáo của Nhà nước. Đại bộ phận chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo trong Thành phố an tâm, phấn khởi, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, về những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, các hoạt động từ thiện, nhân đạo, xây dựng gia đình văn hoá ở khu dân cư “sống tốt đời, đẹp đạo”, tích cực thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tuy nhiên, tình hình tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cũng nổi lên một số vấn đề có tính phức tạp. Đó là, hoạt động mê tín, dị đoan diễn ra khá phổ biến, một số cơ sở thờ tự của tôn giáo chưa tuân thủ các quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Di sản và của các quy định của Thành phố. Khi xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, tổ chức tôn giáo vẫn thiếu hồ sơ xin phép; triển khai khi chưa được sự đồng ý của các cơ quan có thẩm quyền. Tình hình khiếu kiện đòi lại đất đai, cơ sở cũ của giáo hội còn tiềm ẩn dấu hiệu phức tạp; hoạt động truyền đạo trái phép và các đạo lạ trên địa bàn tỉnh vẫn xảy ra. Thực hiện chính sách tôn giáo của Nhà nước và công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh những năm qua bên cạnh những ưu điểm còn một số hạn chế, bất cập ảnh hưởng trực tiếp đến thực hiện mục tiêu chính sách tôn giáo. Tình hình tôn giáo trong cả nước nói chung, ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng còn một số vấn đề phức tạp, giải quyết gặp nhiều khó khăn. 2 Nguyên nhân của các khó khăn, phức tạp là do chính sách tôn giáo chưa hoàn thiện, còn những hạn chế bất cập. Từ thực tế tình hình trên, tôi chọn đề tài: “Chính sách tôn giáo từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sĩ chính sách công. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trong thời gian qua, về lĩnh vực tôn giáo đã có nhiều công trình nghiên cứu và những cuốn sách viết về tôn giáo Việt Nam, đó là: Thứ nhất, Công trình nghiên cứu, cụ thể như sau: “Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” của PGS. TS Ngô Hữu Thảo, chủ nhiệm (1998); Cuốn sách “Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam lý luận và thực tiễn" của GS.TS Đỗ Quang Hưng; “Một số tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” của TS. Nguyễn Thanh Xuân; “Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam” của TS.Nguyễn Đức Lữ; Đề tài cấp Bộ “55 năm đường lối chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam (1945-2000)” của Ban Tôn giáo Chính phủ; “Tôn giáo Việt Nam” của GS. G.Condominas (Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, số 2, năm 2003); “Từ quan điểm duy vật lịch sử của C.Mác xem xét vấn đề tôn giáo ở nước ta” của TS. Ngô Hữu Thảo (Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 4, năm 2004); “Quá trình đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo và việc hoàn thiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới” của ThS. Trần Thanh Giang (Tạp chí triết học, Số 9, năm 2008…). Thứ hai, Những cuốn sách viết về tôn giáo Việt Nam, cụ thể như: “Lý luận tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của GS. Đặng Nghiêm Vạn (2001); “Những vấn đề tôn giáo hiện nay” (1994); “Tôn giáo trong mối quan hệ văn hóa và phát triển ở Việt Nam” của Nguyễn Hồng Dương (2004); “Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo” (2005); “Một số tôn giáo ở Việt Nam” của Nguyễn Thanh Xuân (2013). Qua các công trình trên, các tác giả đã đề cập đến nhiều khía cạnh, cả lý luận và thực tiễn của tôn giáo. Song các công trình đó, các tác giả chủ yếu đi vào một nội 3 dung, một quan điểm nào đó của C.Mác, Ph.Ăngghen hoặc giải quyết một vấn đề nào đó của tôn giáo ở Việt Nam. Do đó, để có cơ sở lý luận và thực tiễn để giải quyết vấn đề chính sách tôn giáo Việt Nam nói chung và chính sách tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Những nghiên cứu đã nêu trên đã phần nào đánh giá thực trạng và quá trình thực hiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Vì vậy, hướng đề tài mà tôi lựa chọn hy vọng sẽ làm sáng tỏ hơn về chính sách tôn giáo ở Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách tôn giáo ở Việt Nam để có cơ sở khoa học đánh giá thực trạng chính sách và thực hiện chính sách Tôn giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.2.1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách tôn giáo ở Việt Nam. 3.2.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng chính sách tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ rõ ưu điểm, hạn chế, bất cập, nguyên nhân của các hạn chế, bất cập. 3.2.3. Xác định phương hướng và đề xuất của các giải pháp hoàn thiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực hiện chính sách tôn giáo của Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu, về không gian, là địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, về thời gian là từ khi có Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12 tháng 3 năm 2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo đến nay. 4 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Luận văn được triển khai dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách tôn giáo. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Triển khai luận văn này, tác giả sử dụng những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng các phương pháp của các khoa học cụ thể, như tổng hợp và phân tích, khái quát hoá, thống kê, so sánh, lịch sử và lôgic, xã hội học, tôn giáo học. 6. Ý nghĩa của luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Các kết luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung hoàn thiện những vấn đề lý luận về chính sách công nói chung, chính sách tôn giáo nói riêng ở Việt Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để xây dựng chủ trương, biện pháp nâng cao hiệu quả công tác thực hiện chính sách tôn giáo ở địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh vùng Đông Nam bộ có tình hình tôn giáo tương tự với Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập tại trường đại học, cao đẳng, trung cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM 1.1. Những vấn đề lý luận chung về chính sách tôn giáo ở Việt Nam 1.1.1. Các khái niệm: Tín ngưỡng; tôn giáo; chính sách tôn giáo Tôn giáo, theo tiếng Latinh (Religare) có nghĩa là sự nối liền với cái tột cùng, như sự gắn bó với Chúa, với Thượng đế; hoặc được hiểu là sự phản ánh mối quan hệ giữa con người với thần thánh; giữa thế giới vô hình với thế giới hữu hình; giữa cái thiêng liêng với cái trần tục. Theo quan điểm mác-xít, tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã hội. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo phản ánh hư ảo tồn tại xã hội, có kết cấu gồm: Tâm lý, tình cảm, niềm tin và hệ tư tưởng tôn giáo. Tín ngưỡng, tôn giáo là một hiện tượng đa chiều, chính vì vậy các khái niệm về tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan là những vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong khoa học xã hội, Tôn giáo có nhiều khái niệm khác nhau nhưng nhìn chung đều có một nội dung cơ bản đó là: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và và hư ảo hiện thực khách quan. Qua phản ánh của tôn giáo mọi sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội trở thành thần bí. Tôn giáo cũng là sản phẩm của con người, gắn liền với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Tôn giáo là tín ngưỡng của những người cùng chung một tổ chức có hệ thống giáo lý, giáo luật và lễ nghi. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: “Tôn giáo là niềm tin của con người, tồn tại với hệ thống và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức” [58]. Tín ngưỡng là niềm tin của con người vào những điều thiêng liêng, huyền bí vượt khỏi giới tự nhiên. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: “Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng”[58]. 6 Mê tín dị đoan là một hiện tượng xã hội tiêu cực đã xuất hiện rất lâu và tồn tại đến ngày nay. Trên thực tế, mê tín dị đoan thường xen vào trong các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Mê tín dị đoan là niềm tin mù quáng vào những điều nhảm nhí có thể làm cho con người bị hủy hoại cả tinh thần, sức khỏe, tài sản, tính mạng của cá nhân, gia đình và xã hội. Chính sách tôn giáo là quan điểm, là tập hợp các quyết định chính trị có liên quan với nhau của nhà nước với mục tiêu, giải pháp, công cụ cụ thể nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào của công dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết đồng bào theo hoặc không theo tôn giáo nào vì sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. 1.1.2. Vấn đề chính sách tôn giáo Giải quyết tốt vấn đề tôn giáo sẽ tạo tiền đề quan trọng để thực hiện đại đoàn kết dân tộc. Đại hội XII của Đảng khẳng định: Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật. Tại Đại hội XII, Đảng ta khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo” [32, tr165]. Như vậy, chính sách tôn giáo không đơn thuần chỉ là định hướng vấn đề đời sống tâm linh, tinh thần, mà còn là định hưỡng vấn đề văn hoá, đạo đức, lối sống. Thông qua sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người, tín ngưỡng, tôn giáo đã góp phần tô đượm thêm sắc màu cho văn hoá dân tộc. Đảng ta coi những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo có thể được tiếp thu, vận dụng vào công cuộc xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên, mọi hoạt động văn hoá của tôn giáo phải đặt trong khuôn khổ pháp luật, thể hiện sự trân trọng, giữ gìn, bảo lưu những giá trị văn hoá của dân tộc, làm cho văn hoá thực sự là mục tiêu, động lực của sự phát triển. Tôn giáo nào cũng mang tính trừ ác, hướng thiện, khuyên con người 7 làm lành, tránh dữ, góp phần khẳng định cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác. Chính điều đó đã góp phần ngăn chặn, hạn chế những ham muốn, dục vọng ở con người, nhất là khi nước ta đang chịu sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, lối sống tư sản đã và đang thâm nhập vào trong đời sống xã hội. Để đoàn kết được tất cả các thành phần, giai cấp nói chung và đồng bào tôn giáo nói riêng vào khối đại đoàn kết dân tộc, lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam…, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, về cơ bản là ổn định, do nhận thức ngày càng rõ của đại bộ phận tín đồ, chức sắc tôn giáo về đường lối của Đảng, chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhà nước ta. Hệ thống quy phạm pháp luật và chính sách của nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo đã được bổ sung, hoàn thiện. Với yêu cầu, nhiệm vụ thực hiện đặt ra trong xây dựng nhà nước pháp quyền, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và mở cửa hội nhập quốc tế cần phải nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện chính sách tôn giáo trở thành vấn đề, nhiệm vụ quan trọng và cấp bách đặt ra hiện nay. Còn có những phần tử xấu, thậm chí phản động trong các tôn giáo, lợi dụng những vấn đề nổi cộm trong hoạt động tôn giáo, trong quan hệ giữa chính quyền và nhân dân địa phương để kích động, gây rối, hậu thuẫn cho các phần tử chống đối ở trong nước và ngoài nước. Cụ thể là: Tình trạng chuyển nhượng, hiến tặng đất, mở rộng cơ sở thờ tự, xây dựng nhà thờ, nhà nguyện trái pháp luật diễn ra ở nhiều địa phương. Bên cạnh đó, việc dựng tượng Thánh, tượng Chúa, tượng Phật,… trên đất công vẫn diễn ra ở một số nơi. Các hoạt động tôn giáo trái pháp luật như tình trạng chức sắc phong chui, tự nhận tuy giảm nhưng vẫn còn tiếp diễn; hoạt động in ấn, xuất bản, nhập từ nước ngoài và lưu hành kinh sách, ấn phẩm tôn giáo trái phép vẫn diễn ra; hiện tượng 8 giảng đạo, truyền đạo trái pháp luật tiếp tục diễn ra ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới. Do vấn đề lợi ích cá nhân hoặc không thống nhất được hướng hoạt động của các hệ phái tôn giáo nên đã dẫn đến mâu thuẩn nội bộ ở một số tổ chức tôn giáo. Từ đó, hình thành những hoạt động tranh giành tín đồ ở một số nhóm, hệ phái tôn giáo, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý nhà nước về tôn giáo. Hoạt động tôn giáo phức tạp của các tôn giáo trong vùng đồng bằng dân tộc thiểu số. Thời gian qua, ở các vùng chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, hoạt động tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số có những tác động xấu đến an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. Tại đây, các đối tượng phản động đã lợi dụng tôn giáo để tập hợp lực lượng, thực hiện các hoạt động gây rối, bạo loạn, đòi ly khai, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, như xưng vua và lập nhà nước Mông ở Tây Bắc, lập nhà nước Đê-ga ở Tây Nguyên, đòi tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam,… Hoạt động chống đối chính quyền của các phần tử phản động trong các tôn giáo. Với sự tiếp tay của các thế lực thù địch ở nước ngoài và nhóm “Đảng Việt Tân”, một số nhóm, cá nhân ở trong nước và nước ngoài đã tiến hành tuyên truyền, kích động nhân dân gây rối, chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo mới, đạo lạ và tà đạo. Theo thống kê, ở Việt Nam có khoảng 60 hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo mới, du nhập từ nước ngoài hoặc nội sinh (thực chất là các tổ chức tín ngưỡng mang màu sắc tôn giáo). Một số hiện tượng tín ngưỡng đang hình thành tổ chức, tiến tới đăng ký hoạt động tôn giáo mới. Tuy nhiên, hoạt động của nhiều nhóm trong số này có biểu hiện dị đoan, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống văn hóa. Một số tổ chức phản động cũng núp dưới danh nghĩa tôn giáo để tập hợp lực lượng, như: “Hội đồng Công luận án Bia Sơn”, “Cây Thập giá Chúa Giê-su Cờ-rít”,… Ngoài ra, còn do tác động từ bên ngoài do quá trình toàn cầu hóa về kinh tế và mở cửa hội nhập quốc tế đang diễn ra ở Nước ta. Tình hình chiến tranh, xung đột sắc tộc tôn giáo đang diễn ra ngày một phức tạp trong khu vực và trên thế giới. Các thế lực phản động, các nhóm lợi ích lợi dụng chiêu bài “dân chủ nhân quyền, tự do tín 9 ngưỡng tôn giáo” gây xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo lực lật đổ chính quyền…. Tình hình đó tác động và ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp vào nước ta, càng cần được xem xét nghiên cứu trong hoạch định, xây dựng chính sách công nói chung, chính sách tôn giáo ở nước ta nói riêng. Từ những phân tích trên đây cho thấy vấn đề tôn giáo thực sự trở thành vấn đề chính sách nhà nước cần tập trung giải quyết. Vấn đề chính sách tôn giáo cần phải được nghiên cứu thấu đáo, cẩn trọng mới có thể giải quyết thành công, mới đáp ứng được yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước đặt ra hiện nay. 1.1.3. Mục tiêu chính sách tôn giáo Qua các giai đoạn cách mạng, Đảng và nhà nước ta luôn xác định tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa quan trọng. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, chính sách “tín ngưỡng, tự do, lương giáo đoàn kết” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đoàn kết toàn dân kháng chiến thắng lợi, giành độc lập thống nhất hoàn toàn cho đất nước. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, vấn đề tôn giáo ở Việt Nam có những nội dung mới. Năm 1990, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 24-NQ/TW về công tác tôn giáo, xác định “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”, “các giáo hội và tổ chức tôn giáo nào có đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ mục đích, điều lệ phù hợp với pháp luật Nhà nước, có tổ chức phù hợp và bộ máy nhân sự đảm bảo tốt về cả hai mặt đạo, đời thì sẽ được Nhà nước xem xét trong từng trường hợp cụ thể để cho phép hoạt động” [11]. Ngày nay, tình hình hoạt động tôn giáo ở nước ta có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định. Một số công dân chưa tuân thủ pháp luật, còn có tổ chức truyền đạo trái phép, còn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan. Việc khiếu kiện và tranh chấp liên quan đến đất đai và cơ sở vật chất của tôn giáo ở một số nơi tăng lên, có nơi gay gắt và phức tạp. Ở một số nơi, nhất là vùng dân tộc thiểu số, một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành những hoạt động chống đối, kích động tín đồ nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị. 10 Để xảy ra những hạn chế đã nêu trên lý do là do chính sách tôn giáo chưa thực sự giải quyết được vấn đề tôn giáo ở nước ta, chính sách tôn giáo chậm sửa đổi những giải pháp và công cụ chính sách đã không đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Cần phải đưa ra mục tiêu cụ thể của chính sách tôn giáo, nhằm tạo mục tiêu để hướng tới trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Một là, chính sách tôn giáo ở Việt Nam bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân trên cơ sở pháp luật. Hai là, chính sách tôn giáo thực hiện theo hướng tích cực vận động đồng bào các tôn giáo tăng cường đoàn kết toàn dân nhằm xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”, tích cực góp phần vào công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định về chính trị, trật tự và an toàn xã hội. Ba là, hướng các chức sắc giáo hội hoạt động tôn giáo theo đúng pháp luật, ủng hộ các xu hướng tiến bộ trong các tôn giáo, làm cho các giáo hội ngày càng gắn bó với dân tộc và sự nghiệp cách mạng toàn dân, thể hiện rõ vai trò trách nhiệm của tôn giáo ở một quốc gia độc lập. Bốn là, luôn luôn cảnh giác, kịp thời chống lại những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân, chống chủ nghĩa xã hội. Năm là, những quan hệ quốc tế và đối ngoại về tôn giáo hoặc có liên quan đến tôn giáo phải theo chế độ, chính sách chung về quan hệ quốc tế đối ngoại của Nhà nước. Như vậy, chính sách tôn giáo của nhà nước bao gồm nhiều mặt, vừa có mặt đối nội, vừa có mặt đối ngoại. Thực hiện chính sách tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình thông qua chính sách, pháp luật. 1.1.4. Các giải pháp, công cụ chính sách tôn giáo Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng, bắt đầu từ Đại hội VI, đến nay đã hơn ba thập kỷ. Nhìn lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước trên mọi lĩnh vực, không thể không nói đến thắng lợi của sự đổi mới tư duy, đường lối của Đảng và chính sách tôn giáo của Nhà nước ta. 11 Có thể thấy, một thời gian dài, kể cả sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, quan điểm tả khuynh về tôn giáo vẫn còn tồn tại; thường nhấn mạnh sự khác biệt cơ bản giữa tôn giáo với chủ nghĩa xã hội; tập trung chủ yếu vào sự đối lập về hệ tư tưởng; xem xét bản chất tôn giáo một cách thiên lệch, bằng cách cắt xén phiến diện mệnh đề của chủ nghĩa C.Mác “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [14, tr 570]. Từ thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền, nền kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập quốc tế, Nhà nước đã ban hành và thực hiện thành công nhiều chính sách, trong đó có chính sách tôn giáo. Và trong việc xây dựng, hoàn thiện các chính sách công nói chung, chính sách tôn giáo nói riêng đã đặc biệt quan tâm đến giải pháp công cụ chính sách. Giải pháp công cụ chính sách là cách thức nhà nước sử dụng để tác động đến đối tượng chính sách nhằm đạt được mục tiêu chính sách. Cụ thể đối với chính sách tôn giáo để đạt được mục tiêu chính sách cần phải sử dụng các giải pháp sau: Một là, giải pháp tác động thông qua lợi ích kinh tế. Các chức sắc, chức việc, nhà tu hành và các tín đồ tôn giáo là bộ phận cấu thành cộng đồng nhân dân cả nước. Họ là đối tượng của chính sách, mục tiêu của chính sách như trên đã nêu là nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào của công dân, phát huy sức mạnh đoàn kết và vai trò của đồng bào theo các tôn giáo khác nhau trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thực sự và phát huy vai trò của giáo dân, đồng bào các tôn giáo, trước hết nhà nước phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ, trong đó quan trọng nhất là lợi ích kinh tế. Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu của chính sách tôn giáo nhà nước đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và văn hóa của nhân dân, trong đó có các giáo dân, đồng bào các tôn giáo. Chẳng hạn như chương trình xóa đói giảm nghèo, giảm nghèo bền vững; chương trình xây dựng nông thôn mới; các chương trình, dự án chính sách từ thiện nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công; chương trình, dự án bảo vệ môi trường, xã hội hóa giáo dục, y tế,... Thông qua các 12 chương trình, dự án của nhà nước, các cấp chính quyền tuyên truyền vận động và tạo điều kiện cho giáo dân, đồng bào các tôn giáo tích cực tham gia thực hiện. Bằng cách đó nhà nước tạo điều kiện cho giáo dân, đồng bào các tôn giáo phát huy quyền dân chủ, quyền làm chủ của mình tích cự tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội, làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Chỉ khi nào kinh tế xã hội phát triển, dân giàu nước mạnh thì quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào của công dân mới được bảo đảm trên thực tế. Như vậy, bằng việc sử dụng giải pháp tác động thông qua lợi ích kinh tế là giải pháp quan trọng để đạt được mục tiêu của chính sách tôn giáo. Hai là, giải pháp tác động thông qua quan hệ cộng đồng. Trong xây dựng chính sách công nói chung, xây dựng và hoàn thiện chính sách tôn giáo nói riêng cũng có thể sử dụng giải pháp tác động thông qua quan hệ cộng đồng các tôn giáo. Các tôn giáo ở nước ta rất đa dạng, mỗi tôn giáo có đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức khác nhau. Các tín đồ, giáo dân theo tôn giáo nào cũng cố kết với nhau thành một cộng đồng bền vững bằng niềm tin, đức tin vào đối tượng họ tôn thờ, bằng triết lý, giáo lý họ theo đuổi. Quan hệ cộng đồng chặt chẽ của các giáo dân, các tín đồ tôn giáo tạo nên sức mạnh, sự bền vững của các tôn giáo. Do đó trong xây dựng và hoàn thiện chính sách tôn giáo phải sử dụng giải pháp tác động thông qua quan hệ cộng đồng các tôn giáo để tạo ra động lực giúp chính sách tôn giáo được thực hiện trên thực tế. Ba là, giải pháp tác động thông qua giá trị xã hội. Trong xây dựng và hoàn thiện chính sách công nói chung, chính sách tôn giáo nói riêng chủ thể ban hành chính sách là nhà nước, ngoài việc sử dụng các giải pháp trên còn sử dụng giải pháp tác động thông qua các giá trị xã hội. Giải pháp này được sử dụng nhằm tạo ra niềm tin, hệ giá trị được mọi người tôn trọng và yêu thích, giải pháp này đặc biệt có tác dụng mạnh đối với các tôn giáo, và lý tưởng chính trị. Điều này có nghĩa là chính sách tôn giáo của nhà nước cần tạo ra đồng thuận về các giá trị mà các đối tượng chính sách (các tín đồ, giáo dân, chức sắc, chức việc…) theo đuổi. Đặc biệt đối với các tôn giáo ở nước ta, sử dụng giải pháp tác động thông các giá trị xã hội làm sao đạt được sự đồng thuận cao của các tôn giáo về các giá trị xã hội của 13 họ thừa nhận, tin tưởng, tôn trọng và tuân theo. Cụ thể phải sử dụng giải pháp tạo ra các giá trị xã hội chung đó là: “Tinh thần đại đoàn kết dân tộc”, “đoàn kết các tôn giáo”, “kính chúa yêu nước”, “sống tốt đời, đẹp đạo”, “sống phúc âm trong lòng dân tộc”, “đạo pháp đồng hành cùng dân tộc”,... Đồng thời dùng giải pháp tác động thông qua các giá trị xã hội để phát huy và tạo ra giá trị tương đồng các tôn giáo theo đuổi đó là mong ước tin tưởng về một tôn giáo đại đồng, một xã hội hạnh phúc, công bằng, bác ái, điều thiện thắng điều ác,... Như vậy, có thể thấy giải pháp tác động thông qua các giá trị xã hội là giải pháp cực kỳ quan trọng cần phải sử dụng trong xây dựng và hoàn thiện chính sách tôn giáo. Ngoài các giải pháp đã được nêu trên, khi xây dựng chính sách tôn giáo rất cần thiết phải xây dựng các công cụ của chính sách. Đối với chính sách tôn giáo ở Việt Nam cần phải đảm bảo các công cụ sau: Thứ nhất, công cụ quyền lực, pháp luật của nhà nước. Sử dụng công cụ quyền lực, công cụ pháp luật là cần thiết. Vì trong quản lý nhà nước hai công cụ: chính sách và pháp luật là hai công cụ hữu hiệu được nhà nước sử dụng để đảm bảo trật tự kỷ cương và hiệu lực hiệu quả của quản lý. Hai công cụ này có tác động và bổ sung cho nhau. Chính sách là nguồn khơi dậy sức sống của pháp luật, ngược lại từ các quy định của pháp luật có thể hình thành các chính sách, pháp luật trở thành căn cứ để xây dựng chính sách đồng thời là cơ sở pháp lý để bảo đảm cho chính sách tôn giáo được thực hiện trong thực tế cuộc sống. Đặc biệt trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà nước trong đó pháp luật là tối thượng, thì càng phải sử dụng công cụ quyền lực, công cụ pháp luật trong xây dựng và hoàn thiện chính sách tôn giáo. Thứ hai, công cụ hành chính tổ chức. Tính chất của công cụ này mang tính mệnh lệnh hành chính đơn phương, nhưng đối với chính sách tôn giáo đối tượng là các tín đồ tôn giáo, các giáo dân, các chức sắc, chức việc tôn giáo, có đặc tính riêng và với tinh thần “không tuyên chiến với tôn giáo” thì nên hạn chế sử dụng những công cụ này. Tuy nhiên, trong tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo để bảo đảm hiệu quả và thực hiện mục tiêu chính sách 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan