Lời nói đầu
Đất nước chúng ta đang trong thời kỳ đổi mới và thúc đẩy phát triển nền kinh
tế thị trường với sự quản lý của nhà nước.Nền kinh tế thị trường tạo ra cho cac
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhiều cơ hội thuận lợi và củng không ít những
khó khăn, thách thức mà các doanh nghiệp cần phải nỗ lực phấn đấu để hoạt động
nhằm đem lại hiệu quả cho nền kinh tế.
Các tổ chức, các doanh nghiệp không ngừng cải tiến tổ chức hoạt động doanh
nghiệp của mình nhằm tạo ra sức mạnh cạnh tranh với các tổ chức doanh nghiệp
khác.
Một trong những yếu tố rất quan trọng đối với các tổ chức doanh nghiệp đó là
vấn đề về tài chính của doanh nghiệp.Đứng trước những yêu cầu cấp thiết đó Tổng
công ty dầu khí Việt Nam đã lựa chọn và đưa ra những giải pháp được thảo luận
trong nhiều năm và đi đến quyết định thành lập nên công ty tài chính dầu khí.
Như chúng ta đã biết, Tổng công ty dầu khí Việt Nam đóng góp một tỷ lệ lớn
vào thu Ngân sách của nhà nước,nó gánh vác một trọng trách trong quá tình tiến
hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước cần một khối lượng vốn đầu tư rất
lớn.
Việc đó đã đòi hỏi Tổng công ty phải phát huy sức mạnh nội lực của mình
thông qua việc kinh doanh về mặt tài chính tiền tệ và sử dụng hợp lý nguồn tài
chính của Tổng công ty có một ý nghĩa hết sức to lớn đối với thời điểm hiện tại và
trong tương lai của Tổng công ty.
Ngày nay với xu thế hội nhập vào nền kinh tế thế giới và quốc tế hoá thị
trường tài chính-tiền tệ trên thế giới đang diễn ra rất mạnh mẽ, Tổng công ty dầu
khí đang từng bước tham gia vào quá trình này nhằm xây dựng được một nền tài
chính đủ mạnh để phục vụ cho quá trình phát triển của mình do vậy sự cần thiết
phải lập nên công ty tài chính dầu khí trực thuộc Tổng công ty dầu khí Việt nam là
một yêu cầu cấp thiết cho sự phát triển của Tổng công ty trong quá trình hội nhập
và phát triển kinh tế thế giới.
Trong thời gian thực tập tại công ty tài chính dầu khí, qua tìm hiểu tình
hình thực tế hoạt động của công ty em đã đi đến lựa chọn nghiên cứu đề tài:
Trang 1
''Những biện pháp cần được áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả thu xếp và huy
động vốn tại công ty tài chính dầu khí "
Trang 2
Chƣơng I
Những nguyên lý về vốn,hiệu quả của việc thu xếp
và huy động vốn của các doanh nghiệp
I. VAI TRÒ VÀ PHÂN LOẠI VỐN
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
1. Khái niệm về vốn.
Trong nền kinh tế thị trường ,doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế độc lập,có
tên riêng,có địa chỉ rõ ràng,có tài sản,có trụ sở giao dịch ổn định ,được đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp đều phải giải quyết 3
vấn đề đó là:
Sản xuất cái gì
Sản xuất như thế nào
Sản xuất cho ai
Nhưng trước tiên để bắt tay vào 3 quá trình sản xuất như nêu trên thì doanh
nghiệp phải cần một khoản đầu tư ban đầu đó là vốn.
Vậy vốn là gì?
Theo các nhà kinh tế học thì họ đã đưa ra những quan điểm sau về vốn.
Theo cuốn kinh tế học của D.Begg thì đã đưa ra 2 định nghĩa sau về vốn.
Thứ nhất đó là về vốn hiện vật: Đó là dự trữ hàng hoá đã sản xuất ra để sản
xuất các hàng hoá khác.
Thứ hai đó là về vốn tài chính:Đó là tiền và các giấy tờ có giá của doanh
nghiệp.
Theo quan điểm của K.Marx thì: Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư,là
đầu vào của quá trình sản xuất.
Các nhà kinh tế học đều thống nhất đó là: Vốn đó là đầu vào của quá trình
sản xuất,kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích tối đa hoá giá trịchủ sở hữu.
2. Vốn - quyền sở hữu và quyền sử dụng.
Trang 3
Khó khăn lớn nhất trong cơ chế quản lý đối với DNNN là vấn đề sử lý quan
hệ giữa quyền sở hữu vốn của nhà nước và quyền sử dụng vốn và tài sản của
doanh nghiệp. Bên cạnh những lợi thế so với doanh nghiệp tư nhân về các mặt
hoạt động, DNNN cũng có những điểm hạn chế phát sinh từ vấn đề sở hữu và sử
dụng vốn. ở doanh nghiệp tư nhân, người sở hữu vốn là người quản lý vốn luôn
luôn được đặt trong mối quan hệ phụ thuộc sống còn. Do đó, cơ chế quản lý của
loại doanh nghiệp này được hình thành một cách tự nhiên và rất chặt chẽ. Nói cách
khác, ở doanh nghiệp tư nhân, quyền sở hữu và quyền sử dụng luôn được" nhân
cách hoá", tức là có con người cụ thể gắn bó với những con người đó. Còn ở
DNNN thì quyền sở hữu nhà nước rất mơ hồ, không có con người cụ thể đảm nhận
hoặc đại diện với sự gắn bó trách nhiệm và quyền lợi. Do chưa xác định được
quyền sở hữu, nên quyền sử dụng của doanh nghiệp cũng bị vi phạm và chưa có
danh giới cụ thể. Sự lúng túng trong lý luận và thực tế quản lý đã dẫn đến tình
trạng Nhà nước có thể can thiệp tuỳ ý vào các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp và tình trạng doanh nghiệp bừa bãi vốn và tài sản của Nhà nước. Tình trạng
lộn xộn này không chỉ có ở nước ta mà ở nhiều nước khác như Liên Xô( cũ),
Trung Quốc v.v… ở Liên Xô trước đây, giới khoa học và chính phủ đã từng đề ra
nhiều giải pháp xử lý nhằm tháo gỡ tình hình. Một trong những giải pháp của họ là
tiến hành thực hiện cơ chế hạch toán kinh tế cấp Nhà nước( nước cộng hoà) Nghĩa
là, Nhà nước vừa đảm nhận chức năng là người sở hữu vừa làm nhiệm vụ của
người kinh doanh. Cách làm này thực chất là tước đoạt quyền kinh doanh, trong đó
có quyền tự chủ tài chính của DNNN để tập trung vào tay chính phủ nước cộng
hoà, biến chính phủ thành một đại doanh nghiệp của nhà nước, còn các DNNN
dưới nó là những đơn vị thừa hành, không có khả năng chiếm giữ và sử dụng vốn,
tài sản, thu nhập. Thực tế đã chứng minh rằng mô hình này quá phiêu lưu và ít có
khả năng mang lại hiệu quả.
Tiếp theo mô hình hạch toán kinh tế cấp Nhà nước, ở Liên Xô còn cho triển
khai dưới dạnh thí điểm hàng loạt các mô hình khác, như hạch toán kinh tế cấp
Nhà nước- Tập thể nhằm lôi kéo người lao động tham gia vào quản lý; khoán cho
tạp thể sản xuất; cho thuê xí nghiệp, nhà máy và hình thức thuê thầu ( kết hợp giữa
cho thuê và khoán); Tuy nhiên, tất cả các mô hình đó đều chưa thể hiện được ưu
Trang 4
thế của mình và cùng với sự tan rả của cường quốc này, hiện nay người ta đang tập
trung vào một giải pháp khác- tư nhân hoá.
ở Trung Quốc, chính phủ cũng chú ý tới giải pháp cho thuê thầu, song cách
giải quyết cụ thể có khác hơn so với ở Liên Xô trước đây. Thuê thầu ở Trung quốc
được thực hiện rộng rãi với nhiều hình thức: cá nhân thuê, tập thể thuê, toàn bộ tập
thể cùng thuê chung, thuê liên doanh và hình thành thị trường thuê thầu. Kết quả
thu được từ làn sóng này bước đầu tuy có khả quan, song ngay ở đây, đã hàng chục
năm nay, cuộc tranh luận về quyền sở hữu và quyền sử dụng cũng chưa ngã ngũ.
Người ta vẫn chưa thể "nhân cách hoá" được quyền sở hữu và quyền sử dụng và
thậm chí, ranh giới hoạt động của hai loại quyền này cũng chưa rỏ ràng.
ở nước ta, các ý kiến tranh luận về vấn đề này cũng rất sôi nổi và đa dạng. Có
người cho rằng, không có vấn đề phân biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng, mà hai
quyền này phải được hợp nhất vào một cá nhân - giám đốc doanh nghiệp. ý kiến
khác thì nhấn mạnh tới vai trò của nguời lao động, coi tập thể lao động là người
đại diện cho quyền sở hữu của Nhà nước tại doanh nghiệp. Lại có người cho rằng,
người đại diện cho quyền sở hữu của Nhà nước là cơ quan chủ quản. Mổi ý kiến
vừa nêu đều chứa đựng những luận cứ có sức thuyết phục nhất định. Song bên
cạnh đó, vẫn có những thiếu sót hoặc sai lầm.Thực vậy, người giám đốc của
DNNN cũng như doanh nghiệp cổ phần không thể là người có quyền hoặc đại diện
cho quyền sở hữu của Nhà nước hay của cá cổ đông. Chỉ có ở doanh nghiệp tư bản
tư nhân, khi nhà tư bản tự bỏ vốn kinh doanh thì hai quyền sở hữu và sử dụng mới
nhập vào cá nhân anh ta. Còn người lao động trong doanh nghiệp, thì nghĩa vụ lớn
nhất của anh ta là làm việc có hiệu quả để thu nhập cao cho gia đình và bản thân.
Thêm vào đó, ở vị trí của mình, người lao động không thể có đủ điều kiện, trình độ
và khả năng để đảm nhận chức năng là người chủ sở hữu. Cuối cùng, ý kiến có vẻ
hợp lí hơn cả là cơ qua chủ quản thực hiện quyền sở hữu vốn và tài sản của Nhà
nước tại doanh nghiệp. Cơ qua chủ quản là ai? Phải chăng là UBND huyện, tỉnh, là
các bộ và liên hiệp? ở đây, cần phân biệt hai chức năng quản lý là chức năng quản
lý kinh tế - kĩ thuật và chức năng quản lí vốn. Xu hướng phát triển kinh tế ở nước
ta đòi hỏi phải tập trung chức năng quản lý kinh tế- kĩ thuật vào các bộ và cơ quan
ngang bộ, hạn chế và tiến tới xoá bỏ mô hình phân cấp quản lý kinh tế cho chính
Trang 5
quyền địa phương như hiện nay. Như vậy, UBND các cấp không có lí do gì để
thực hiện vai trò là người chủ sở hữu về vốn và tài sản của DNNN. Còn các bộ chủ
quản, chức năng của nó là quản lí về mặt kinh tế và kĩ thuật, không có chức năng
quản lí vốn. Rõ ràng, phải có một lời giải đáp khác cho vấn đề này. Để tham khảo,
có thể lấy kinh nghiệm của các nước trên thế giới. ở Pháp, Malayxia và nhiều nước
khác, người thực hiện quyền sở hữu vốn và tài sản của Nhà nước tại các DNNN là
Bộ trưởng Bộ Tài chính do vậy, ở các DNNN, ngoài đại diện của toà án, còn có
người kiểm tra của Nhà nước do Bộ Tài chính cử đến. Việc huy động thêm vốn
của DNNN trên thị trường vốn quốc tế cũng phải dược phép của Bộ Tài chính
(
Cục kho bạc Nhà nước ). ở ý, Tây Ban Nha và một số nước khác, thì quyền sở
hữu Nhà nước về vốn và tài sản ở DNNN cũng do Bộ Tài chính thực hiện nhưng
thông qua một tổ chức trung gian là các công ty Tài chính.
Với những kinh nghiệm trên đây, có thể kết luận rằng, giải pháp đúng đắn và
hợp lý nhất là giao cho Bộ tài chính thực hiện quyền sở hữu tại các DNNN. Lý do
có tính thuyết phục nhất ở đây là chính Bộ tài chính là cơ quan chịu trách nhiệm
trong tất cả các khâu về hoạt động tài chính của doanh nghiệp từ việc cấp vốn, trợ
cấp và tài trợ tới khâu quản lý vốn đối với tất cả các DNNN. Bên cạnh đó, mọi
nghĩa vụ về mặt tài chính của doanh nghiệp đói với Nhà nước cũng được thực hiện
qua Bộ tài chính( thông qua hệ thống thuế, hệ thống kho bạc Nhà nước và một số
cơ quan khác trực thuộc Bộ này). Tất nhiên, để làm được việc này, cần thiết phải
có một cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại Bộ tài chính, cơ quan này có
nhiệm vụ cơ bản là giúp Bộ trưởng Bộ tài chính đảm nhận việc xem xét cấp vốn
cho các DNNN mới thành lập, quản lý vốn về mặt giá trị được bảo toàn, phát triển,
xem xét để tài chợ hoặc cấp phát vốn bổ sung cho doanh nghiệp trong trường hợp
cần thiết và theo luật định.
Vấn đề tiếp theo là quyền sử dụng. Trong vấ đề này, các ý kiến hầu như đều
thống nhất cho rằng người chịu trách nhiệm sử dụng và có quyền bố trí, sử dụng
vốn và tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp phải là Giám đốc doanh nghiệp.
Giám đốc có thể do Nhà nước (cơ quan chủ quản cấp trên) bổ nhiệm hoặc thuê
quyền hạn và trách nhiệm của Giám đốc được luật pháp hoá trên cơ sở của luật
doanh nghiệp Nhà nước và các văn bản phấp luật khác có liên quan. Điều chưa rõ
Trang 6
ràng ở đây là nội dung của quyền sử dụng vốn. Trong cơ chế bao cấp, Giám đốc
doanh nghiệp chỉ thực hiện chức năng quản lý và diều hành các hoạt động của
doanh nghiệp. Song anh ta không có quyền sử dụng vốn. vậy đây cần phân biệt
quyền điều hành sản xuất ( bố trí nhân lực, chỉ đạo thực hiện kế hoạch v.v…) với
quyền sử dụng vốn ( bố trí sử dụng các nguồn vốn) Quyền sử dụng vốn trong giai
đoạn này tập trung vào tay nhà nước. Chỉ từ sau nghị quyết 217- HĐBT, thì quyền
sử dụng vốn của Giám đốc doanh nghiệp mới được xem xét. Tuy nhiên, ở giai
đoạn này chưa có sự tách bạch rach ròi giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Có
thế xác định hai quyền này như sau:
Thứ nhất, quyền sở hữu vốn là quyền của người có vốn tại doanh nghiệp. Nội
dụng của quyền này là quyết định mặt hàng sản xuất và phương hướng sản xuất
cũng như các chỉ tiêu kế hoạch về doanh lợi do sử dụng vốn mang lại. Đồng thời
quyền sở hữu vốn cũng cho phép tham dự và quyết định phân phối thu nhập, trong
đó có thu nhập mà người sở hữu được hưởng từ nguồn vốn của mình.
Thứ hai, là quyền sử dụng vốn. Người sử dụng vốn có quyền dùng vốn đó để
hoạt đọng kinh doanh. Anh ta phải chịu sự chi phối của người sở hữu về các vấn
đề thuộc quyền của người sở hữu như vừa nêu trên. Đồng thời, anh ta được hoàn
toàn tư do sử dụng các nguồn vốn và tài sản đối với các vấn đề khác thuộc chức
năng kinh doanh của mình trong khuôn khỏ của pháp luật. Nghĩa vụ của người sử
dụng vốn là phải bảo toàn và phát triển vốn, phải nộp phần lợi nhuận do nguồn vốn
mang lại cho người sở hữu vốn. Thực tế mấy năm gần đây cho thấy hoạt động của
các doanh nghiệp không giống nhau, có nơi giám đốc doanh nghiệp bị tước cả
quyền sử dụng. Có nơi thì ngược lại hoạt động của Giám đốc doanh nghiệp đã xâm
phạm cả vào quyền của người sở hữu vốn. Việc sử lý tình trạng trên đang là một
đòi hỏi cấp thiết của nền kinh tế và đòi hỏi đó phải được thực hiện bằng các văn
bản pháp luật mà trước hết và quan trọng nhất là luật doanh nghiệp Nhà nước.
3. Các loại vốn đƣợc giao bao gồm:
a/Vốn cố định.
Tức nguyên giá của toàn bộ tài sản cố định (TSCĐ) hiện có tại doanh nghiệp
trừ đi hao mòn TSCĐ theo giá hiện hành trên sổ sách kế toán tại thời điểm giao
Trang 7
vốn bao gồm TSCĐ đang dùng, chưa dùng cần điều đi và chờ thanh lý,vốn giữ hộ
ngân sách,thuộc nguồn vốn ngân sách cấp và nguồn vốn xí nghiệp tự bổ sung.
b.Vốn lưu động.
Bao gồm vốn giữ hộ ngân sách và chênh lệch giá được bổ sung tăng vốn theo
quy định hiện hành.
c.Các loại vốn khác
Thuộc nguồn vốn ngân sách cấp và nguồn vốn xí nghiệp tự bổ sung chưa tính
vào vốn cố định và vốn lưu động nêu trên bao gồm:
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã cấp chưa thành TSCĐ,kể cả vốn đầu tư
XDCB dỡ dang.
Khấu hao cơ bản để lại xí nghiệp của phần TSCĐ thuộc nguồn ngân sách nhà
nước và nguồn vốn xí nghiệp tự bổ sung.
Quỹ khuyến khích phát triển sản xuất
Lợi nhuận chưa phân phối
Các quỹ dự trữ tài chính,quỹ dự phòng,quỹ rủi ro.
Các loại vốn trích vào giá thành như vốn sữa chữa lớn,chi phí trích trước…
Phạm vi các loại vốn được giao.
Bảng 1
Trang 8
TT
Nguồn hình thành
Phạm vi
1
Nguồn vốn cố định
Giao cho doanh
-Ngân sách cấp
nghiệp
-Xí nghiệp tự bổ sung
2
Nguồn vốn lưu động
-Ngân sách cấp
Giao cho doanh
nghiệp
-Xí nghiệp tự bổ sung
3
Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản
-Ngân sách cấp
Giao cho doanh
nghiệp
-xí nghiệp tự bổ sung
4
Các quỹ xí nghiệp
-Quỹ khuyến khích PTSX
Giao cho doanh
nghiệp
-Quỹ dự trữ tài chính
-Quỹ dự phòng
-Quỹ rủi ro
-Quỹ bảo toàn vốn
5
Lợi nhận chưa phân phối
Giao cho doanh
nghiệp
6
Vốn trích vào giá thành
-Nguồn vốn sữa chữa lớn
Giao cho doanh
nghiệp
-Chi phí trích trước
7
Nguồn vốn nhận liên doanh liên kết,nhận cổ phần
-Vốn cố định
Không giao cho
doanh nghiệp
-Vốn lưu động
-Vốn đầu tư XDCB
8
Các quỹ phúc lợi ,khen thưởng
Không giao cho
doanh nghiệp
9
Kinh phí chuyên dùng
Không giao cho
doanh nghiệp
10
Nguồn vốn tín dụng
-Vay ngắn hạn,dài hạn ngân hàng
Không giao cho
doanh nghiệp
-Vay đối tượng khác
11
Nguồn vốn trong thanh toán
-Các khoản phải trả người bán
-Các khoản người mua ứng trước
Không giao cho
Trang 9
doanh nghiệp
(Nguồn lấy từ tài liệu của công ty)
II . NGUYÊN LÝ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN
VÀ BẢO TOÀN VỐN
1. Sự cần thiết của bảo toàn và phát triển vốn.
a. Khái niệm:
Bảo toàn và phát triển vốn Sản xất kinh doanh dối với các doanh nghiệp
quốc doanh là nội dung cốt lõi của quy chế giao vốn.Giao vốn tạo ra sự chủ động
cho doanh nghiệp trong quá trình sử dụng vốn và hoạt động sản xuất kinh
doanh,đồng thời gắn trách nhiệm của doanh nghiệp đối với việc bảo toàn và phát
triển vốn nhà nước giao.
1.1. Bảo toàn và phát triển vốn được hiểu:
Bảo toàn vốn ở các doanh nghiệp quốc doanh được thực hiện trong quá trình
sử dụng vốn vào mục đích sản xuất-kinh doanh đảm bảo cho các loại tài sản khong
bị hư hỏng trước thời hạn,không bị mất mát hoặc ăn chia vào vốn.Đồng thời người
sử dụng vốn phải thường xuyên duy trì được giá trị đồng vốn củ mình,thể hiện
bằng năng lực sản xuất của TSCĐ, khả năng mua sắm vật tư cho khâu dự chữ và
tài sản lưu động nói chung,duy trì khả năng thanh toán của xí nghiệp.
1.2. Sự cần thiết của chế độ bảo toàn và phát triển vốn:
Trước hết xuất phát từ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,tài chính đối với các
doanh nghiệp quốc doanh.Chuyển sang nền kinh tế thị trường,các doanh nghiệp
quốc doanh hoạt động theo phương thức hạch toán kinh doanh,nhà nước không
tiếp tục bao cấp về vốn cho các xí nghiệp như trước đây.Để duy trì và phát triển
sản xất kinh doanh trong các doanh nghiệp phải bảo toàn ,giữ gìn số vốn được nhà
nước đầu tư,tức là kinh doanh ít nhất phải đảm bảo hoà vốn,bù đắp được số vốn bỏ
ra để sản xuất giản đơn.
1.3. Thực tiễn Bảo toàn và phát triển vốn :
Xuất phát từ điều kiện thực tiễn của nền kinh tế còn lạm phát,giá cả biến
động lớn,sức mua đồng tiền Việt Nam biến động nhiều và nhìn chung là suy
Trang 10
giảm,nếu tiếp tục duy trì cơ chế giá thấp như nhiều năm trước đây,thì số vốn sản
xuất kinh doanh của doanh nhiệp thể hiện bằng đồng tiền Việt Nam sẽ bị giảm dần
giá trị trên thực tế,sức mua của vốn bị thu hẹp,hậu quả không tránh khỏi đấy là lãi
giả còn lỗ thì thật,kinh tế quốc doanh ăn vào vốn.
2. Nguyên lý về bảo toàn và phát triển vốn
2.1. Bảo toàn và phát triển vốn cố định.
Trong quá trình sử dụng TSCĐ và sản xuất -kinh doanh ,doanh nghiệp phải
quản lý trặt chẽ,không để bị mất mát TSCĐ ,thực hiện đúng quy chế sử dụng,bảo
dưỡng ,sữa chữa,mua sắm nhằm bảo đảm cho TSCĐ không bị hư hỏng trước thời
hạn ,duy trì và nâng cao năng lực hoạt động của TSCĐ.
Doanh nghiệp được quyền chủ động đổi mới thay thế TSCĐ ,kể cả những tài
sản chưa hết thời hạn khấu hao theo yêu cầu đổi mới kỷ thuật công nghệ,phát triển
và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.Nhưng việc thay thế TSCĐ này phải
được báo cáo với cơ quan cấp trên.
Số tiền nhượng bán ,thu hồi do thanh lý TSCĐ phải gửi vào ngân hàng đầu tư
và phát triển và chỉ được sử dụng để tái đầu tư TSCĐ.
Các công trình đầu tư XDCB đình thi công thuộc nguồn vốn Ngân Sách Nhà
Nước cấp hoặc vay nợ nhà nước thì xử lý theo quy định riêng đối với từng trường
hợp cụ thể.
Trường hợp các doang nghiệp cần chuyển bán một phần tài sản,vật tư ứ
đọng không cần dùng thuộc diện phải nộp NSNN ,thì phải báo cáo cơ quan tài
chính cùng cơ quan chủ quản xem xét cùng quyết định bổ sung vốn lưu động cho
doanh nghiệp.
2.2. Nội dung cơ bản của bảo toàn và phát triển vốn cố định
Các doanh nghiệp phải xác định đúng nguyên giá TSCĐ để trên cơ sở đó tính
đúng ,tính đủ khấu hao cơ bản,khấu hao sữa chữa lớn để tạo nguồn thay thế và duy
trì năng lực sản xuất của TSCĐ,bảo toàn vốn cố định.
Hàng năm ,cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ công bố hệ số tính lại giá trị
TSCĐ.
Trang 11
Ngoài việc bảo toàn vốn cố định trên cơ sở hệ số trượt giá,số phải bảo toàn
về vốn cố định còn bao gồm cả số vốn ngân sách cấp thêm hoặc doanh nghiệp bổ
sung trong kỳ.
Vốn cố định phải bảo toàn đến cuối kỳ của doanh nghiệp được xác định theo
công thức :
Số vốn
Cố định
Số vốn
Phải bảo =
được giao - cơ bản
Toàn đến
đầu kỳ
Cuối kỳ
Khấu hao
trích trong
Hệ số
Tăng,giảm
điều chỉnh
vốn trong
giá trị
kỳ
TSCĐ
kỳ
Trong công thức trên:
Số vốn được giao đầu kỳ(hoặc số vốn phải bảo toàn đến đầu kỳ) là số vốn cố
định được giao lần đầu (không bao gồm số dư khấu hao cơ bản để lại xí nghiệp)
hoặc số vốn cố định là được điều chỉnh theo các hệ số phải bảo toàn đến đầu kỳ
sau.
Khấu hao cơ bản trích trong kỳ chỉ bao gồm khấu hao cơ bản của những
TSCĐ hiện có đến đầu kỳ(không bao gồm khấu hao cơ bản của những TSCĐ tăng
trong kỳ)
Hệ số điều chỉnh giá trị TSCĐ do các cơ quan có thẩm quyền công bố áp
dụng cho nghành kinh tế kỹ thuật và cho từng nguồn hình thành TSCĐ(nhập khẩu
,đầu tư,mua sắm trong nước)
Đối với vốn cố định tăng,giảm trong kỳ,hệ số điều chỉnh giá trị TSCĐ được
xác định cho từng trường hợp cụ thể trên cơ sở giá cả thực tế của TSCĐ khi
tăng,giảm và thời điểm giảm,tăng vốn trong kỳ.
Căn cứ vào kết quả xác định số vốn phải bảo toàn theo công thức nêu trên,các
doanh nghiệp phải tiến hành điều chỉnh tăng giá trị TSCĐ và vốn cố định theo các
hệ số điều chỉnh tương ứng với từng loại TSCĐ.
Trang 12
Phần chênh lệch thiếu hay số vốn cố định chưa bảo toàn đủ( số vốn cố định
đã bảo toàn được phải nhỏ hơn số vốn cố định phải bảo toàn) Phải được sử lý bằng
các nguồn sau đây:
Nếu vốn cố định không được bảo toàn do giá trị TSCĐ chưa được tính đủ thì
doanh nghiệp phải điều chỉnh tăng giá trị TSCĐ và do đó nguồn trích khấu hao
trong giá thành cũng tăng lên tương ứng.
Trường hợp TSCĐ mất mát,hư hỏng làm giảm vốn do trách nhiệm và sử lý
theo pháp luật.Nếu do các nguyên nhân chủ quan khác thì sử dụng nguồn vốn tự
bổ sung về đầu tư xây dựng cơ bản và quỹ phát triển sản xuất để bù đắp.
Trường hợp tổn thất TSCĐ do các nguyên nhân khách quan như thiên
tai,dịch hoạ,rủi ro trong quá trình sản xuất,kinh doanh.
Ngoài trách nhiệm bảo toàn vốn ,các doanh nghiệp có trách nhiệm phát triển
phát triển vốn cố định trên cơ sở quỹ khuyến khích phát triển sản xuất trích từ lợi
nhuận để lại xí nghiệp và phần vốn khấu hao cơ bản để lại xí nghiệp để đầu tư
XDCB cho xí nghiệp.
2.3. Chế độ bảo toàn và phát triển vốn lưu động
Bảo toàn vốn lưu động vè mặt già trị ,thực chất là giử được giá trị thực tế hay
sức mua của vốn,thể hịên khả năng mua sắm vật tư cho khâu dự trữ và tài sản lưu
động định mức nói chung,duy trì khả năng thanh toán của doanh nghiệp.Trong quá
trình sản suất kinh doanh các doanh nghiệp phải thường xuyên thực hiện và hạch
toán đúng giá trị thực tế của vật tư ,hàng hoá theo mức diễn biến tăng giảm giá cả
trên thị trường nhằm tính đúng,tính đủ chi phí vật tư vào giá thành sản phẩm,giá
vốn hàng hoá và phí lưu thông để thực hiện bảo toàn vốn lưu động.
2.3.1. Nội dung cơ bản của chế độ bảo toàn và phát triển vốn lưu động:
Các doanh nghiệp phải tự bảo toàn vốn lưu động ngay trong quá trình sản
xuất kinh doanh trên cơ sở mức tăng ,giảm giá tài sản lưu động thực tế tồn kho của
doanh nghiệp ở các thời điểm có thay đổi về giá.
Định kỳ tháng,quý ,năm các doanh nghiệp phải xác định các khoản chênh
lệch giá tài sản lưu động thực tế tồn kho ở doanh nghiệp bao gồm các khâu:Vật tư
dự trữ,bán thành phẩm,sản phẩm dỡ dang và thành phẩm để bổ sung vốn lưu động.
Trang 13
Tổng số chênh lệch giá(sau khi đã bù trừ giữa các khoản chênh lệch tăng và
giảm) được hạch toán bổ sung các nguồn vốn lưu động ngân sách cấp và doanh
nghiệp tự bổ sung.Việc phân định các khoản chênh lệch giá để bổ sung các nguồn
vốn lưu động ngân sách cấp và xí nghiệp tự bổ sung vào doanh nghiệp được căn cứ
vào tỷ trọng của từng nguồn trong tổng số vốn lưu động nhà nước giao cho doanh
nghiệp.
Số vốn lưu động sau khi được điều chỉnh giá tài sản lưuđộng thực tế tồn và
nghi tăng nguồn vốn lưu động ở thời điểm cuối nămlà số vốn thực tế đă bảo toàn
được của doanh nghiệp.
Cơ quan quản lý cấp trên doanh nghiệp và cơ quan tài chỉnh phải xác định hệ
số bảo toàn vốn lưu động hàng năm cho từng nghành , từng doanh nghiệp.Hệ số
trượt giá bình quân của vốn lưu động được tính phù hợp với đặc điểm cơ cấu tài
sản lưu động từng nghành,từng doanh nghiệp trên cơ sở mức tăng giảm giá thực tế
cuối năm so với đầu năm của một số vật tư chủ yếu tính theo cơ cấu kế hoạch của
từng doanh nghiệp.
Số phải bảo toàn hàng năm về vốn lưu động của doanh nghiệp được tính
theo công thức sau:
Số vốn lưu động
Phải bảo toàn
Số vốn đã được
=
đến cuối năm
báo cáo
giao(hoặc phải
bảo toàn hàng
Hệ số trượt giá vốn
lưu động của doanh
nghiệp trong năm
năm )
Trong công thức trên:
Số vốn đã được giao là số vốn lưu động giao lần đầu cho doanh nghiệp đã
được xác định trong biên bản giao nhận vón; số vốn phải bảo toàn đến đầu năm là
số vốn được giao nhận đã điều chỉnh theo hệ số bảo toàn vốn đén đầu năm sau.
Hệ số trượt giá vốn lưu động của doang nghiệp trong năm được xác định theo
nguyên tắc đã nêu,do cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính xác định cho doanh
nghiệp.
Trang 14
Ngoài hệ số trượt giá,số phải bảo toàn về vốn lưu động của doanh nghiệp còn
bao gồm cả số vốn ngân sách cấp thêm hoặc coi như ngân sách cấp,hoặc doanh
nghiệp tự bổ sung trong năm.
Phần chênh lệch thiếu hay chưa bảo toàn đủ vốn lưu động đã bảo toàn được
số vốn thấp hơn số vốn lưu động phải bảo toàn phải đựơc sử lý bằng các nguồn bù
đắp sau đây:
Trường hợp không bảo toàn được vốn lưu động do không có vật tư dự trữ và
do đó không có phần chênh lệch giá vào các thời điểm tăng giá thì doanh nghiệp
có trách nhiệm tự bổ sung bằng nguồn quỹ khuyến khích phát triển sản suất của
mình.
Nếu quỹ phát triển sản xuất không đủ nguồn thì cơ quan tài chính cùng với
cơ quan quản lý cấp trên xem xét cho trích thêm vào giá thành khoản còn thiếu đó
để đảm bảo mức vốn phải bảo toàn.Khoản trích thêm này đựoc tính trong giá thành
để xác định lợi tức chịu thuế.
Trường hợp mất mát ,hư hỏng vật tư làm giảm vốn lưu động do trách nhiệm
cá nhân,do các nguyên nhân chủ quan khác cũng như do các nguyên nhân khách
quan thì doanh nghiệp phải sử lý như đối với bảo toàn vốn cố định.
Trường hợp ngược lại,do doanh ghiệp có nhiều vật tư dự trữ vào các thời
điểm tăng giá,có thể số vốn lưu động thực tế bảo toàn được cao hơn số vốn phải
bảo toàn thì doanh nghiệp không phải nộp tiền sử dụng vốn đối với số vốn lưu
động ngân sách cấp dã bảo toàn cao hơn.
Ngoài việc bảo toàn vốn lưu động theo hệ số trượt giá các doanh nghiệp nhà
nước phải có trách nhiệm phát triển vốn từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất
trích từ lợi nhuận để lại.
2.3.2. Trách nhiệm thực hiện chế độ bảo toàn vốn.
Giám đốc và kế toán trưởng doanh nghiệp, Hội đồng quản trị doanh nghiệp
chịu trách nhiệm trực tiếp trước Nhà nước về việc lập báo cáo kịp thời quyết toán
tài chính theo định kỳ, trong đố xác định kết quả sản xuất kinh doanh và việc thực
hiện chế độ bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp.
Trang 15
Mọi tổn thất, hao hụt vốn và không bảo toàn được vốn phát sinh trong nhiệm
kỳ giám đốc nào thì giám đốc đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật cho đến khi
xư lý xong.
Bộ tài chính cùng với bộ chủ quản, trên cơ sở tham khảo ý kiến của Uỷ ban
vật giá Nhà nước và Tổng cục thống kê, xác định và công bố hệ số điều chỉnh giá
trị TSCĐ vào các thời điểm 01/1 và 01/7 hàng năm, phù hợp với đặc điểm TSCĐ
theo từng ngành kinh tế kỹ thuật.
Thủ trưởng cơ quan và cơ quan quản lý tài vụ doanh nghiệp quốc doanh của
Bộ (sở) tài chính chịu trách nhiệm trực tiếp trước nhà nước về việc phê duyệt
quyết toán hàng năm của doanh nghiệp, xử lý các trường hợp không bảo toàn được
vốn theo đúng các quy định hiện hành đã nêu ở phần trên.
3. Đánh giá doanh nghiệp về phƣơng diện sử dụng vốn.
Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của
mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để đạt tới lợi nhuận tối đa các
doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất- kinh doanh,
trong đố quản lý và sử dụng vốn là một bộ phần rất quan trọng, cố ý nghĩa quyết
định kết quả và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Do vậy , khi đẫ chuyến sang hạch
toán kinh doanh, được trao quyền chủ động trong việc sử dụng vốn, trách nhiệm
bảo toàn và phát triển vốn, các doanh nghiệp nhà nước phải quan tâm đúng mức
đến hiệu quả sử dụng vốn. Muốn vậy các doanh nghiệp phải thường xuyên tự đánh
giá mình về phương diện sử dụng vốn, qua đó, thấy được chất lượng quản lý sản
xuất kinh doanh, khả năng khai thác các tiềm năng sẵn có, biết được mình đang ở
cung đoạn nào trong quá trình phát triển ( thịnh vượng hay suy thoái), đang ở vị trí
nào trong quá trình thi đua, cạnh tranh với các xí nghiệp khác…
Qua phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nhằm có biện pháp tăng cường
quản lý, sử dụng tiết kiệm các yếu tố của sản xuất để đạt hiệu quả cao hơn.
Các cơ quan quản lý Nhà nước quản lý doanh nghiệp với tư cách chủ sở hữu
cũng phải thường xuyên đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng
vốn của doanh nghiệp quốc doanh nhằm có những biện pháp tác động, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp phát huy cao nhất những lợi thế, tiềm năng trong sản xuất
Trang 16
kinh doanh hoặc có các biện pháp hữu hựu giúp doanh nghiệp trong những hoàn
cảnh khó khăn.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp có thể sử dụng hệ thống
các chỉ tiêu phân tích dưới đây.
3.1. Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất.
Chi tiêu hiệu quả sử dụng vốn phản ánh kết quả chung nhất của doanh
nghiệp trong việc quản lý, sử dụng các loại vốn sản xuất, thể hiện bởi quan hệ so
sánh giữa kết quả sản xuất trong kỳ( doanh thu hoặc sản lượng sản phẩm tiêu thụ)
và số vốn sản xuất bình quân.
Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn có thể tính theo các chỉ tiêu tổng hợp và chi
tiết dưới đây:
3.1.1. Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn thuộc quyền sử dụng của doanh nghiệp,
được tính theo công thức sau đây:
Hv =
D
V
Trong đó: Hv- Hệ số hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn
D - Doanh thu hoặc sản lượng sản phẩm tiêu thu trong kỳ
V - Số dư bình quân toàn bộ vốn
3.1.2. Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bao
gồm vốn cố định (kể cả TSCĐ đầu tư bằng các nhuồn vốn khác, nhưng không tách
TSCĐ không cần dùng, hoặc chưa dùng) và vốn lưu động thực tế sử dụng( không
kể số vốn bị chiếm dụng), được tính như sau:
Hsx =
D
Vsx
Trong đó: Hsx-Hệ quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh
D -Doanh thu hoặc sản lượng sản phẩm tiêu thu trong kỳ
Vsx-Số dư bình quân vốn sản xuất kinh doanh.
3.1.3. Hiệu quả sử dụng vốn cố định được tính như sau:
Hvcđ =
D
Vcd
Trang 17
Trong đó: Hvcđ- Hiệu quả sử dụng vốn cố định
D
- Doanh thu hoặc sản lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ
Vcđ - Số dư bình quân vốn cố định
3.1.4. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động được tính như sau:
Hvlđ =
D
Vld
Trong đó: Hvlđ- Hệ số hiệu quả sử dụng vốn lưu động
D
-Doanh thu hoặc sản lượng sản phẩm tiêu thu trong kỳ
Vlđ -Số dư bình quân vốn lưu động
Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn trên đây đều có ý nghĩa chung là một đồng
vốn sản xuất của doanh nghiệp làm ra bao nhiêu đồng sản phẩm trong kỳ. Chỉ tiêu
này càng lớn, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao. Đồng
thời, để đạt hiệu quả sử dụng vốn càng cao thì doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ
và sử dụng tiết kiệm vốn nhằm tối thiểu hoá số vốn sử dụng hoặc tối đa hoá kết
quả sản xuất trong giới hạn về các nguồn vốn hiện có.
Trang 18
Bảng 2: Dƣới đây là ví dụ về phân tích hiệu quả sử dụng vốn
Số
Chỉ Tiêu
TT
Năm
Năm
Trƣớc
Nay
1
Doanh thu
2100
2
Sốdư bình quân toàn bộ vốn 900
Mức
chênh
Tỷ lệ %
Lệch
2600
+500
+23,8
1200
+300
+33,33
thuộc quyền sử dụng của
doanh nghiệp
3
Số dư bình quân vốn SXKD
800
1050
+250
+31,25
4
Số dư bình quân vốn cố định
300
450
+150
+50,00
5
Số dư bình quân vốn lưu động 500
600
+100
+20,00
6
Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn
2,33
2,16
-0,17
-7,29
7
Hiệu quả sử dụng vốn SXKD
2,62
2,47
-0,15
-5,72
8
Hiệu quả sử dụng vốn cố định
7,00
5,78
-1,22
-17,42
9
Hiệu quả sử dụng vốn lưu 4,20
4,33
+0,13
+3,09
động
( Lấy từ giáo trình bảo toàn và phát triển vốn)
Số liệu về tính các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cho thấy
tình hình quản lý và sử dụng vốn sản xuất- kinh doanh năm nay có phần sút kém
so với năm trước. Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn giảm(- 7,29%) , hiệu quả sử dụng
vốn sản xuất kinh doanh giảm(-%,72%), hiệu quả sử dụng vốn cố định giảm nhiều
nhất (-17,42%). Riêng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng(+3,09%). Mặc dù
doanh thu của doanh nghiệp tăng khá lớn 500 triệu đồng (+23,80%) so với năm
trước nhưng có thể do ảnh hưởng của biến động giá trị TSCĐ trong điều kiện bảo
toàn vốn làm tổng số vốn sản xuất kinh doanh tăng lên, hiệu quả sử dụng vố giảm
đi. Trong đó, tỉ trọng của vốn cố định trong tổng số vốn sản xuất - kinh doanh tăng
lên so với năm trước làm cho hiệu quả sử dụng vốn cố định giảm nhiều hơn so với
mức giảm hiệu quả sử dụng vốn sản xuất- kinh doanh.
Trang 19
Tỷ trọng vốn cố định trong tổng số vốn sản xuất kinh doanh của năm trước là
37,5%(300:800) của năm nay là 42,85%(450:1050), như vạy tỷ trọng vốn cố định
năm nay tăng 5,35%(42,85%-37,5%).
3.2. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động.
Đây là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ tổ chức ,quản lý
sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Tốc độ lưu chuyển vốn của doanh nghiệp được thể hiện bởi hai chỉ tiêu: Số
vòng quay vốn lưu động trong kỳ và số ngày luân chuyển củamột vòng quay vốn.
Số vòng quay vốn: Là số lần luân chuyển vốn lưu động trong kỳ,được tính
như sau:
C=
D
Vld
Trong đó: C- Số vòng quay của vốn
D-Doanh thu trừ thuế doanh thu hoặc thuế tiêu thụ đặc biệt
Vlđ-Số dư bình quân vốn lưu động
Vốn lưu động bình quân tháng,quý,năm được tính như sau:
Vốn lưu động bình = Vlđ đầu tháng + Vlđ cuối tháng
Quân tháng
2
Vốn lưu động bình = Vlđ1 + Vlđ2 + Vlđ3
Quân quý
Trong đó: Vlđ1,Vlđ2,Vlđ3
3
là vốn lưu đọng bình quân tháng 1,2,3.
Vốn lưu động bình = Tổng cộng vốn bình quân các quý
Quân năm
4
Trang 20
- Xem thêm -