Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Cảm quan đô thị trong tiểu thuyết việt nam đương đại...

Tài liệu Cảm quan đô thị trong tiểu thuyết việt nam đương đại

.PDF
172
1042
94

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ THANH HƢƠNG CẢM QUAN ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ LÝ LUẬN VĂN HỌC HÀ NỘI – 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ THANH HƢƠNG CẢM QUAN ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI Chuyên ngành : Lý luận văn học Mã số : 62220120 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LÝ LUẬN VĂN HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP HÀ NỘI – 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng, minh bạch. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình. Tác giả Luận án Đố Thanh Hƣơng LỜI CẢM ƠN Em xin trân trọng cảm ơn thầy hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp và các thầy cô trong Hội đồng chấm luận án đã chỉ bảo cho em nhiều ý kiến đóng góp quý báu, tạo điều kiện tốt nhất để em có được kết quả này. Em xin chân thành cảm ơn BGH, bạn bè, đồng nghiệp trường THPT Minh Phú đã luôn giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận án Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến đấng sinh thành, những người thân yêu, bạn bè đã động viên giúp đỡ để em có thêm ý chí và động lực phấn đấu học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận án này… Luận án không thể tránh khỏi những thiếu xót, rất mong được tiếp thu ý kiến đóng góp chân thành của các nhà khoa học và độc giả. Hà Nội, 2017 TÁC GIẢ LUẬN ÁN ĐỖ THANH HƢƠNG MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1 Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ........................................... 6 1.1. Vấn đề đô thị trong văn học nƣớc ngoài ........................................................................ 6 1.1.1. Khái lƣợc về thực tiễn văn học đô thị ở một số quốc gia trên thế giới .............. 6 1.1.2. Những nghiên cứu về văn học đô thị ở nƣớc ngoài ........................................ 12 1.2. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết về đô thị trong văn học Việt Nam....................... 16 1.2.1. Những vấn đề chung......................................................................................... 16 1.2.1.1. Vấn đề đô thị trong văn học từ đầu thế kỉ XX - 1945 ............................... 16 1.2.1.2.Vấn đề đô thị trong văn học từ 1945 - 1975 .............................................. 17 1.2.1.3. Vấn đề đô thị trong văn học sau 1975 ...................................................... 19 1.2.2. Ý kiến về những tiểu thuyết tiêu biểu viết về đề tài đô thị ............................... 24 Chƣơng 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CẢM QUAN ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI................................................................................................. 29 2.1. Đô thị Việt Nam và các vấn đề cơ bản của đô thị .................................................... 29 2.1.1. Khái niệm “đô thị hóa” ..................................................................................... 31 2.1.2. Quá trình hình thành đô thị và đô thị hóa ở Việt Nam ..................................... 31 2.1.2.1. Đô thị truyền thống (đô thị thời phong kiến) ............................................ 32 2.1.2.2. Đô thị hiện đại .......................................................................................... 33 2.2. Giới thuyết một số khái niệm nghiên cứu ................................................................ 38 2.2.1. Cảm quan .......................................................................................................... 38 2.2.2. Cảm quan đô thị ............................................................................................... 39 2.2.2.1. Khái niệm .................................................................................................. 39 2.2.2.2. Cảm quan đô thị trong văn học Việt Nam ................................................ 41 2.3. Tác động của đời sống đô thị đến cảm thức sáng tạo của nhà văn ................................. 53 2.4. Đô thị và tâm lý thị hiếu ngƣời đọc ........................................................................ 56 Chƣơng 3. NHỮNG PHƢƠNG DIỆN CƠ BẢN CỦA CẢM QUAN ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI .................................................................... 59 3.1. Không gian đô thị ..................................................................................................... 59 3.1.1. Không gian đô thành ........................................................................................ 59 3.1.1.1. Ánh sáng của nền văn minh, hiện đại ....................................................... 59 3.1.2. Gia đình ............................................................................................................ 74 3.2. Thời gian đô thị ........................................................................................................ 83 3.2.1. Nhịp sống của con ngƣời đô thị........................................................................ 84 3.2.2. Tốc độ đô thị hóa .............................................................................................. 86 3.3. Con ngƣời đô thị ...................................................................................................... 87 3.3.1. Con ngƣời sùng bái vật chất, chạy theo văn minh ........................................... 87 3.3.2. Sự dịch chuyển từ con ngƣời gia đình sang con ngƣời cá nhân bản thể .......... 94 3.3.3. Con ngƣời cô đơn, chối bỏ đô thị ..................................................................... 97 Chƣơng 4. PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN CẢM QUAN ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI ............................................................................. 102 4.1. Kết cấu nghệ thuật .................................................................................................. 102 4.1.1. Kĩ thuật dán ghép – phân mảnh ...................................................................... 102 4.1.2. Kĩ thuật lồng ghép .......................................................................................... 105 4.2. Phƣơng thức trần thuật ........................................................................................... 111 4.2.1. Đa bội điểm nhìn ............................................................................................ 111 4.2.2. Ngôn ngữ trần thuật ........................................................................................ 117 4.2.2.1. Ngôn ngữ vay mượn, pha tạp.................................................................. 118 4.2.2.2. Ngôn ngữ đời thường, suồng sã.............................................................. 120 4.2.3. Giọng điệu trần thuật ...................................................................................... 123 4.2.3.1. Giọng hài hước, chế giễu, châm biếm .................................................... 123 4.2.3.2. Giọng hoài nghi ...................................................................................... 128 4.2.3.3. Giọng đối thoại ....................................................................................... 131 4.2.3.4. Giọng trữ tình, triết lí ............................................................................. 136 4.3. Bút pháp kì ảo ........................................................................................................ 141 KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 147 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 152 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Nếu nhƣ ở các quốc gia phát triển, văn học đô thị đã xuất hiện từ lâu thì ở Việt Nam, theo nhiều nhà nghiên cứu, mới có “văn học nông thôn” mà chƣa có “văn học đô thị”. Nếu nhƣ ở Pháp, ngay từ khi Những bông hoa ác (1857) của Baudelaire ra đời, ngƣời ta đã nhận thấy nỗi chán chƣờng đô thị thì trong văn học Việt Nam, mãi đến giai đoạn 1930- 1945 mới bắt đầu xuất hiện tên gọi “khối sầu đô thị”. Điều này cũng không có gì đáng ngạc nhiên, vì ở Việt Nam, phải đến khi ngƣời Pháp tiến hành khai thác thuộc địa thì mới bắt đầu hình thành các đô thị và quá trình đô thị hóa mới đƣợc nhà văn chú ý. Vũ Trọng Phụng đƣợc coi là ngƣời tiên phong trong lĩnh vực này và hiện nay cũng chƣa có tác phẩm nào có thể vƣợt qua Số đỏ về đề tài đô thị. 1.2. Sau 1975, đặc biệt là sau 1986, đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam cùng với quá trình giao lƣu và hội nhập quốc tế. Quá trình đô thị hóa đã đƣợc đề cập đến trong sáng tác của nhiều nhà văn nhƣ Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tƣ... Cảm thức về sự cô đơn và những nỗi bất an, về sự biến mất của nhiều giá trị truyền thống, về lối sống hƣởng thụ, coi trọng vật chất nhất thời... đều là hệ quả của tác động cơ chế kinh tế thị trƣờng và đô thị hóa. Điều đáng nói là khi xã hội càng phát triển, đô thị hóa diễn ra càng nhanh chóng thì những hệ quả trên càng sâu sắc. 1.3. Nếu nhƣ việc nghiên cứu đô thị và đô thị hóa trong văn học đã đƣợc giới nghiên cứu văn hóa và văn học trên thế giới quan tâm từ lâu thì ở Việt Nam, gần đây, đô thị hóa trong văn học mới đƣợc chú ý. Đặc biệt, sau gần ba thập kỉ đổi mới, đô thị hóa và cơ chế kinh tế thị trƣờng đã làm biến đổi sâu sắc và toàn diện các lĩnh vực đời sống, phạm vi ảnh hƣởng ngày càng lan rộng. Đô thị, bên cạnh mặt tích cực, đã và đang bộc lộ những mặt trái đầy nhức nhối. Vấn đề đô thị đã không còn là vấn đề quan tâm của đô thị học, xã hội học, văn hóa học mà còn là mối quan tâm của nhiều nhà văn về vấn đề con ngƣời. 1.4. Sau năm 1975, nhất là từ sau đại hội Đảng lần thứ VI, đất nƣớc bƣớc vào thời kì đổi mới. Diện mạo xã hội thay đổi nhanh chóng khiến hiện 1 thực càng trở nên bề bộn. Hiện thực ấy cần đến những thể loại văn học có sức bao chứa rộng lớn hơn nhƣ trƣờng ca, tiểu thuyết,… Sự nở rộ của thể loại tiểu thuyết sau năm 1975 là sự thăng hoa khá ấn tƣợng cả về nội dung tƣ tƣởng và giá trị nghệ thuật. Dẫu chƣa trở thành “nhịp mạnh” (Đỗ Lai Thúy), tiểu thuyết từ 1986 đến nay đã thể hiện ngày càng sâu sắc đời sống đô thị với những tác động của nó đến con ngƣời trong bối cảnh mới trên các bình diện đạo đức, lối sống và cả quan niệm giá trị. Mà điều đáng nói hơn, những cái nhìn ấy về đô thị chủ yếu là của những nhà văn sống ở phố - viết về phố. Cảm quan đô thị, vì thế, sẽ đậm nét hơn. Đó là cơ sở lý luận và thực tiễn để chúng tôi lựa chọn đề tài Cảm quan đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ chuyên ngành Lý luận văn học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài nghiên cứu: Cảm quan đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, chúng tôi hƣớng đến những mục đích sau: - Bƣớc đầu hệ thống hóa và xây dựng khung phân tích cho đề tài theo hƣớng tiếp cận văn hóa học; - Phân tích tác động của quá trình đô thị hóa đến đời sống xã hội và tri nhận của nhà văn về các giá trị và các mối quan hệ phức tạp trong đời sống đô thị hiện đại thông qua cái nhìn độc đáo và thông điệp của nhà văn trong các văn bản nghệ thuật; - Phân tích những phƣơng thức thể hiện cảm quan đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện đƣợc những mục đích trên, chúng tôi tiến hành thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu nhƣ sau: - Tìm hiểu những vấn đề lý luận liên quan trực tiếp đến đề tài nhƣ: đô thị và đô thị hóa, tác động của đô thị hóa đến văn hóa và con ngƣời; về tƣ duy, lối sống, nhãn quan văn hóa, ứng xử của con ngƣời trƣớc nhịp sống đô thị hiện đại...; cảm quan về các vấn đề đời sống đô thị; 2 - Đi sâu phân tích các phƣơng diện cơ bản trong cảm quan đô thị của tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại; - Phân tích những phƣơng thức nghệ thuật thể hiện cảm quan đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu cảm quan đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại. Cụ thể, chúng tôi tập trung làm sáng tỏ sự tác động của đô thị hóa đến đời sống xã hội, đời sống tâm lí con ngƣời đƣợc phản ánh trong văn học và những hình thức nghệ thuật mới mẻ thể hiện đô thị của tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi tập trung nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại qua sáng tác của một số nhà văn nhƣ: Chu Lai, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phƣơng, Nguyễn Ngọc Tƣ, Đỗ Phấn, Nguyễn Xuân Thủy, Nguyễn Đình Tú, Trần Trọng Vũ… Để đạt mục đích nghiên cứu, chúng tôi tiến hành so sánh tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại về đề tài đô thị hóa với văn học giai đoạn trƣớc đó, so sánh tiểu thuyết Việt Nam với một số nƣớc khác về cùng vấn đề nghiên cứu. Sự so sánh này sẽ giúp cho ngƣời viết đƣa ra những nhận xét khách quan, chính xác hơn về sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam trong hành trình phát triển của nó. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Trên cơ sở phƣơng pháp luận Macxit, luận án đặt văn học trong mối liên hệ với xã hội và văn hóa để lí giải cảm quan đô thị của nhà văn. Về phƣơng pháp cụ thể, luận án chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp sau: - Phƣơng pháp hệ thống: đặt tiểu thuyết viết về đô thị trong đời sống tiểu thuyết và đời sống văn hóa Việt Nam đƣơng đại, theo khuynh hƣớng đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại và tổng thể /văn hóa Việt Nam hiện đại; 3 - Phƣơng pháp so sánh: so sánh văn học và tiểu thuyết đƣơng đại với văn học, tiểu thuyết trƣớc đó; so sánh văn học viết về đô thị ở Việt Nam với văn học đô thị ở nƣớc ngoài. - Tiếp cận thi pháp học và tự sự học: làm nổi rõ những điểm mới trong nghệ thuật tổ chức tự sự nhằm thể hiện cảm quan đô thị một cách độc đáo; - Phƣơng pháp liên ngành: nhìn cảm quan đô thị trong tiểu thuyết từ góc nhìn văn hóa, văn học, tâm lý học, xã hội học, nhân học để làm nổi rõ hƣớng nghiên cứu của đề tài. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Đề tài giúp ngƣời đọc hiểu sâu hơn cảm quan đô thị của nhà văn trong tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại, từ đó cắt nghĩa sâu hơn những biến đổi của đời sống xã hội, văn hóa, tâm lí con ngƣời trong xã hội hiện đại. - Những nghiên cứu của đề tài cũng góp phần khẳng định sự xuất hiện của một khuynh hƣớng nghệ thuật mới mẻ đang phát triển mạnh mẽ trong đời sống văn học đƣơng đại, một diễn ngôn nghệ thuật mang đậm dấu ấn của thời đại mới. 6. Ý nghĩa khoa học của đề tài 6.1. Ý nghĩa lí luận Trên cơ sở nhận diện và cắt nghĩa đề tài đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại, luận án góp một cái nhìn toàn diện về chủ đề đô thị trong văn học Việt Nam theo tiến trình lịch sử. Từ đó, chúng tôi bƣớc đầu đƣa ra những kiến giải mới về sự cách tân nghệ thuật của tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại trong bối cảnh sự xâm nhập của tƣ duy nghệ thuật hiện đại, hậu hiện đại và văn học Việt Nam là một thực tế. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Những kết quả nghiên cứu của đề tài là nguồn tƣ liệu tham khảo cần thiết cho việc mở rộng nghiên cứu và giảng dạy về văn học Việt Nam giai đoạn từ sau năm 1975 trong nhà trƣờng. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận án gồm 04 chƣơng: 4 Chƣơng 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu Chƣơng 2. Cơ sở hình thành cảm quan đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại Chƣơng 3. Những phƣơng diện cơ bản của cảm quan đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại Chƣơng 4. Phƣơng thức thể hiện cảm quan đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại 5 Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Vấn đề đô thị trong văn học nƣớc ngoài 1.1.1. Khái lược về thực tiễn văn học đô thị ở một số quốc gia trên thế giới Ngƣời phƣơng Tây giao thƣơng buôn bán từ rất sớm. Ngay từ thời cổ đại họ đã xây dựng đƣợc những thành bang nổi tiếng nhƣ Athena, Spart, nhƣng đó chƣa phải là đô thị hiện đại theo cách hiểu ngày nay. Đến thời hiện đại khi nền văn minh công nghiệp đã phát triển sớm ở các quốc gia nhƣ: Anh, Đức, Pháp, Mỹ…chủ nghĩa tƣ bản đã hình thành. Cùng với đó là sự thay đổi lực lƣợng sản xuất, quan hệ sản xuất, sự mở rộng của kinh tế hàng hóa đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của xã hội. Nhƣ một tất yếu, những biến động về lịch sử và đời sống xã hội đã làm thay đổi nhãn quan, tâm lý, thị hiếu của con ngƣời. Theo đó cảm quan đô thị đã xuất hiện trong văn học, trƣớc hết là ở những nghệ sỹ nhạy cảm và trải nghiệm những biến thiên của đời sống cũng nhƣ chứng kiến sự phát triển của văn minh và lối sống công nghiệp. Bởi thế so với các quốc gia phƣơng đông văn minh đô thị và văn học đô thị ở phƣơng tây phát triển sớm hơn nhiều. Ở Anh, sự phát triển của công nghiệp, quá trình đô thị hóa với tốc độ nhanh chóng đã biến nƣớc Anh trở thành một trong những nƣớc có chủ nghĩa tƣ bản phát triển nhất châu Âu thế kỉ XIX. Và cũng nhƣ một tất yếu, xã hội tƣ bản càng phát triển càng bộc lộ những mặt trái trong sự tác động tới đời sống con ngƣời. Những nhà thơ Vùng hồ tiêu biểu cho dòng văn học lãng mạn tiêu cực ở Anh đã thể hiện tƣ tƣởng muốn thoát li thực tại xã hội tƣ sản, xa lánh chốn thị thành. Họ hƣớng thơ ca vào việc mô tả quá khứ, những con ngƣời và những hiện tƣợng đơn giản, bình thƣờng, gần thiên nhiên. Còn những nhà văn hiện thực phê phán, họ phản ánh trung thành xã hội Anh nửa đầu thế kỉ XIX. Trong những trang viết của Charles Dickens, William Thackeray, Charlotte Bronte… xã hội tƣ sản Anh hiện lên là một xã hội bất công và tàn ác. Ở đó, giai cấp thống trị chỉ là bọn tham tiền và quyền lực, kiêu căng bất trị, nhân cách hèn hạ,… 6 Ở Pháp, thế kỉ XVIII – XIX là thế kỉ của những sự thay đổi lớn với sự xuất hiện của các nhà tƣ tƣởng Ánh sáng, các nhà chủ nghĩa xã hội không tƣởng và những cuộc Cách mạng: Đại cách mạng tƣ sản (1789), Cách mạng tháng Bảy – 1830 và Cách mạng tháng Hai – 1848. Tƣ tƣởng tiến bộ cộng với sự phát triển của các đô thị lớn, đặc biệt là Paris đã khiến những nhà văn nhạy bén sớm nhận ra mặt trái của chủ nghĩa tƣ bản. Victor Hugo – nhà văn lãng mạn ƣu tú của nƣớc Pháp – trong tất cả các sáng tác của mình đều thể hiện bức tranh chân thực của nƣớc Pháp với những đau khổ của tầng lớp nhân dân cùng cực. Đặc biệt, trong tác phẩm lớn nhất – Những người khốn khổ - ông đã miêu tả những cảnh đau lòng dƣới đáy xã hội Pháp với cả chiều rộng và chiều sâu. Mặt trái của xã hội Pháp đƣợc Victor Hugo thể hiện đậm nét ở ba vấn đề: “Sự sa đọa của đàn ông vì bán sức lao động, sự trụy lạc của đàn bà vì đói khát, sự cằn cỗi của trẻ thơ vì tối tăm” [39, tr.412]. Hiện thực luôn đƣợc nhìn bằng đôi mắt lãng mạn nên chan chứa lòng thƣơng yêu với những khổ đau của cuộc đời. Các sáng tác của Honoré de Balzac thể hiện sức khái quát hiện thực lớn. Nội dung tiểu thuyết hiện thực của Balzac bao quát mọi hoạt động của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau trên những lĩnh vực khác nhau. Ông đã phản ánh trong các trang viết những mặt cơ bản của cuộc sống con ngƣời: đời sống vật chất, đời sống kinh tế, đời sống tinh thần. Đặc biệt, Balzac đã vạch trần vai trò của đồng tiền, đồng tiền đã trở thành động lực xã hội trong tay giai cấp tƣ sản nắm chính quyền. Đó là xã hội tƣ sản tối tăm mà để tồn tại, con ngƣời bắt buộc phải lựa chọn giải pháp bán linh hồn cho quỷ sứ. Bán linh hồn cho quỷ là phƣơng thức tất yếu và là quy luật của sự tha hóa nhân phẩm con ngƣời trong xã hội Paris đƣơng thời. Đó cũng là phƣơng thức nghệ thuật tiêu biểu để Balzac thể hiện sự phủ nhận quyết liệt đối với xã hội tƣ sản đó. Tuy nhiên, ngay cả với Honoré de Balzac hay Victor Hugo, những trang viết ấy vẫn chỉ là phản ứng quyết liệt đối với xã hội tƣ sản đƣơng thời. Đô thị - ở đây là Paris – hiện lên trong cái nhìn không thể dung hòa nhƣ ác cảm đối với một tên xấu xa đã đánh cắp đi những điều nhân văn đối với con ngƣời. Sự phản ánh ấy vẫn kín đáo che giấu khát vọng hƣớng đến tƣơng lai – nơi ấy có một xã hội nhân bản hơn. Vì vậy, cảm quan đô thị ở hai đại biểu 7 lớn, đại diện cho khuynh hƣớng lãng mạn và hiện thực của văn học Pháp nêu trên vẫn chƣa định hình cụ thể. Phải đến đại biểu lớn của chủ nghĩa tƣợng trƣng trong nền văn học Pháp thế kỉ XIX – Baudelaire – thì cảm quan đô thị mới đƣợc định hình cụ thể và rõ nét. Đến Baudelaire, sự phản ứng đối với xã hội tƣ sản đƣợc đẩy lên đỉnh điểm. Đó là sự chán ghét đến hận thù thế giới tƣ bản. Baudelaire luôn mang một nỗi buồn sâu sắc, luôn luôn bị ám ảnh bởi tuổi già và cái chết. Chính ông đã viết trong một bức thƣ gửi cho bạn năm 1866 nhƣ sau: “Sự nhất quán chân thực của Những bông hoa ác là ở sự chân thành đau đớn của nhà thơ, đƣợc thể hiện trọn vẹn trong đó. Cần phải nói với anh rằng trong cuốn sách dữ dội này, tôi đã gởi vào đó tất cả tƣ tƣởng của tôi, tất cả tấm lòng tôi, tất cả tôn giáo của tôi, tất cả sự hận thù của tôi…” [39, tr.427]. Những bông hoa ác đã làm chấn động dƣ luận khi Baudelaire đƣa cái xấu, cái ác và nỗi đau lên ngôi. Đó là hệ quả tất yếu, là biểu hiện cao nhất của nỗi cô đơn và tình cảm suy đồi của con ngƣời trong thế giới tƣ bản hiện đại. Ở Mỹ, kết quả của cuộc nội chiến Bắc Mỹ và Nam Mỹ (1860-1865) đã cho ra đời nhà nƣớc tƣ sản. Dẫu phát triển muộn hơn châu Âu nhƣng chủ nghĩa tƣ bản sớm đƣa Mỹ phát triển vƣợt cả “công xƣởng của thế giới” về kinh tế. Văn học lãng mạn và văn học hiện thực Mỹ cũng thể hiện những phản ứng đối với xã hội tƣ sản. Nhƣng không giống nhƣ những tác giả Anh, Pháp, các tác giả miền Tây đi theo khuynh hƣớng trở về với thiên nhiên thôn dã nhƣ sự ứng xử tiêu cực với xã hội đƣơng thời. Washington Irving hay Herman Melville – đại biểu của văn học lãng mạn - đều thể hiện sự phủ nhận đối với nền văn minh tƣ bản chủ nghĩa bằng cách quay về với cuộc sống bình lặng nơi thôn quê rừng núi ngày xƣa hoặc cuộc sống của những ngƣời thổ dân. Trong sáng tác của Jack London – một nhà văn không hề biết đến tuổi thơ – lại thể hiện rất rõ bức tranh của xã hội Mỹ vào hai thập kỉ cuối thế kỉ XIX. Những tháng ngày du thủ du thực, những năm tháng không thể nào quên khi Jack trở thành "hobos" - một kẻ vô danh trong đội quân cái bang khổng lồ, kiếm sống "nhƣ loài thỏ" theo các chuyến tàu hàng ngang dọc khắp nƣớc Mỹ, những mạo hiểm trong cơn sốt tìm vàng ở Alaska… Những cuộc hành trình đó đã đem lại một túi vốn sống khổng lồ mà Jack có đƣợc trong suốt cuộc đời 8 cơ cực của mình. Đó là hiện thực khắc nghiệt của nhà nƣớc tƣ sản Mỹ những năm cuối thế kỉ XIX đƣợc khắc họa trong những tác phẩm sau này đã trở thành kiệt tác của Jack: Tiếng gọi nơi hoang dã (1903), Răng nanh trắng (1906),… Qua những trang viết, Jack muốn gửi tới ngƣời đọc bức tranh về sự khốn cùng của con ngƣời trong cuộc vật lộn, tranh giành sự sống với tự nhiên. Đó là biểu hiện mâu thuẫn giữa sự tàn bạo dã man của cái gọi là văn minh và sự tự do của loài vật sống hoang dã trong thiên nhiên, nhất là trong Tiếng gọi nơi hoang dã. Truyện toát lên một một nhân sinh quan rõ rệt của tác giả: tình yêu đối với loài vật. Ông cho rằng, chỉ có trên cơ sở một tình yêu vô hạn đối với loài vật mới chiến thắng đƣợc những con vật, thậm chí là dữ tợn. Mark Twain – nhà văn lớn nhất của Mỹ thế kỉ XIX – cũng tìm về thiên nhiên nhƣng với ngôn ngữ nói dân gian trong trẻo, duyên dáng, làm nên thắng lợi của miền Viễn Tây dân gian với những salon văn học ở Boston. Ở châu Á, theo nghiên cứu, một số nƣớc thuộc khu vực văn hóa chữ Hán (Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên…), các đô thị ra đời ở thời hậu kì trung đại, kéo theo sự ra đời của văn hóa thị dân rồi văn học thị dân – khởi nguồn của văn học mang cảm quan đô thị. Ở khu vực văn hóa này, Nho giáo đƣợc coi nhƣ một công cụ bồi đắp tƣ tƣởng và củng cố quyền lực, sản sinh một nền văn học giàu tính đạo đức, tƣ tƣởng và lí tƣởng (nền văn học cung đình). Khi kinh tế thị dân phát triển kéo theo sự thay đổi thị hiếu văn học ở tầng lớp này. Một nền văn học mới đƣợc sản sinh nhằm phản ánh những sự việc của cuộc sống thƣờng nhật, những tâm sự cá nhân, khƣớc từ những cái cao cả mang tính đạo đức, thậm chí đi ngƣợc lại với những chuẩn mực đạo đức phong kiến. Tầng lớp thị dân tìm đến với dòng văn học mới này với mục đích giải trí, để thỏa mãn những nhu cầu trần thế, khát vọng khẳng định cái tôi cá nhân trong một xã hội trọng tập thể. Nhƣ vậy, “đô thị đã giải phóng cho văn học khỏi cái rọ đạo đức, mang đến cho văn học đặc tính giải trí, cũng là một trong những đặc tính chung của văn học muôn đời” [156]. Đến thời kì hiện đại (từ đầu thế kỉ XX), văn học đô thị ở châu Á đƣợc hiểu theo nghĩa khác. Đó là dòng văn học phản ánh những vấn đề về đời sống đô thị trên mọi 9 phƣơng diện và phản ánh lối sống, cách tƣ duy của con ngƣời đô thị trong sự đối lập với nông thôn. Nhật Bản là đất nƣớc tiếp xúc lớn nhất với phƣơng tây. Ngay từ thời Minh Trị lối sống phƣơng tây và văn hóa phƣơng tây đã tràn vào xứ sở hoa anh đào, vì thế đô thị và văn học đô thị ở Nhật Bản phát triển tƣơng đối sớm. Ngay những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, một nền văn học đại chúng đã hình thành ở Nhật Bản. Đó là nền văn học thể hiện rõ xã hội tiêu dùng của thời đại mới khác xa đời sống tiêu dùng của đời sống văn hóa Nhật Bản cũ. Sau thế chiến thứ II kết thúc, Nhật Bản từ một đất nƣớc hùng mạnh đã trở thành một đất nƣớc hoang tàn, kiệt quệ, hoàn toàn mất tinh thần. Sự bại trận, thảm họa bom nguyên tử và thời kỳ chiếm đóng của Mỹ trở thành những cú sốc tinh thần to lớn, để lại những vết thƣơng sâu sắc trong tâm hồn ngƣời Nhật. Đây là giai đoạn khủng hoảng đối với nền văn hóa, đạo đức truyền thống Nhật Bản. Sau 1954, nền kinh tế Nhật đƣợc phục hồi và phát triển thần tốc, đặc biệt là vào những năm 1960 – 1970. Làn sóng công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ ở Nhật, biến quốc đảo này trở thành một trong những nƣớc có nền kinh tế lớn nhất thế giới. Sự phát triển kinh tế với trình độ cao ở Nhật đã hình thành nền văn minh kĩ trị ở đất nƣớc này. Con ngƣời Nhật Bản với sức sáng tạo diệu kì đã trở thành những chủ nhân của robot, khiến mặt trời dƣờng nhƣ không bao giờ lặn trên đất Nhật. Nhƣng, nhƣ một hệ quả tất yếu, sống trong xã hội hiện đại, xa rời tự nhiên, con ngƣời càng ngày càng trở nên cô đơn, trống rỗng, họ hoạt động theo thói quen không khác gì những sản phẩm robot. Trong những trang viết của Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro, Akutagawa Ryunosuke, Kawabata Yasunari, Mishima Yukio, Abe Kobo…, nhất là Murakami Haruki, ngƣời đọc luôn thấy sự trăn trở trƣớc số phận con ngƣời trong xã hội hiện đại đầy bất an, phi lí. Xây dựng những hành trình đi tìm kiếm ý nghĩa đích thực của cuộc sống, nhân vật trong các tác phẩm của những nhà văn hiện đại ấy rất đa dạng, phong phú, và có tính phổ quát cao, phản ánh đƣợc những tồn tại sâu kín của con ngƣời Nhật Bản và nhân loại nói chung trong thời hậu kì tƣ bản. Những tác phẩm của văn học Nhật Bản đã chạm vào nỗi cô đơn, hoang mang sâu sắc của con ngƣời đô 10 thị, vì thế Nhật Bản đƣợc coi là đi sớm hơn những nƣớc Đông Á khác trên con đƣờng đến với văn học đô thị. Cuối thế kỉ XIX Trung Quốc bị các nƣớc phƣơng tây xâu xé và một số thành phố lớn nhƣ Bắc Kinh, Thƣợng Hải đã ảnh hƣởng lối sống phƣơng tây. Đặc biệt ở Thƣợng Hải, đời sống đô thị và sự phồn hoa của lối sống tây hóa đã khiến cho đô thị hóa phát triển hết sức nhanh chóng và bắt đầu xuất hiện những nhà văn viết về đô thị. Từ thập niên 90 trở lại đây, quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ chóng mặt, thành thị đã trở thành một thế giới đa giá trị và sôi động. Trƣớc đây, thành thị đƣợc coi là một không gian đƣợc “nuôi dƣỡng” bởi nông thôn thì nay giữa thành thị và nông thôn đã hình thành một loại hình quan hệ mới: sự phát triển của thành thị kéo theo sự phát triển của nông thôn, thành thị đem lại văn minh cho nông thôn. Hình tƣợng chính trong văn học chuyển sang các sản phẩm tiêu dùng cao cấp của xã hội hiện đại nhƣ: rƣợu, thuốc lá cao cấp, xe hàng hiệu,… Từ thái độ phê phán đô thị, các tác giả mới của văn học Trung Quốc chuyển dần sang miêu tả và phản ánh trạng thái cuộc sống thƣờng nhật của đô thị. Đóng góp cho đề tài đô thị trong văn học Trung Quốc phải kể đến các nhà văn nữ. Nếu nhƣ các nhà văn nam giới khá mặn mà và am hiểu về nông thôn (Mạc Ngôn, Giả Bình Ao, Lý Nhuệ…) thì các nhà văn nữ ít quan tâm đến đề tài này. Lí do rất đơn giản, những nhà văn nữ trẻ hầu hết đều sống ở thành thị, vốn sống, sở trƣờng của họ là ở thành thị. “Họ hiểu biết về xe hơi đời mới nhiều hơn là thổ nhƣỡng một vùng quê. Nội dung chủ yếu trong tác phẩm của họ là viết về đô thị với nhịp sống gấp gáp, hỗn độn. Đọc truyện họ ta thấy cảnh làm ăn, buôn bán, đầu cơ, giao dịch chứng khoán, hộp đêm, quán bar… Tóm lại là hình ảnh một thành phố vừa hấp dẫn, ma mị, quyến rũ, vừa đầy cơ hội nhƣng cũng đầy cạm bẫy, vô nhân…” [124]. Nông thôn trong cái nhìn của những nhà văn này đã trở thành xa lạ hoặc nếu có tìm về nông thôn thì hành trình đó giống một cuộc phiêu lƣu hơn là sự tìm hiểu thực sự (Gia đình ngọt ngào của tôi - Vệ Tuệ). Trong các tác phẩm của Miên Miên (Kẹo), Xuân Thụ (Búp bê Bắc Kinh), Kha Lăng Yến (Khách không mời), đô thị giống nhƣ một cạm bẫy, ẩn chứa đằng sau những phồn hoa đô hội ấy là số phận lang bạt, thoi thóp của những ngƣời làm thuê, là cuộc 11 sống phè phỡn của quan chức tham nhũng, chiếm đoạt… Những tác phẩm ấy giống nhƣ ngụ ngôn về cuộc sống đô thị của một đất nƣớc đang phát triển nhƣ vũ bão. Nhƣ vậy, ra đời nhƣ là hệ quả tất yếu của chủ nghĩa tƣ bản, kinh tế thị trƣờng, đô thị hiện đại đã tác động mạnh mẽ tới đời sống của con ngƣời và đời sống văn học. Diễn biến của quá trình đô thị hóa nhƣ một vấn đề nóng bỏng của thời đại khiến văn học luôn có sự quan tâm đến đề tài này. Trong sự phản ánh của những nền văn học lớn đƣợc điểm danh trên đây, có thể thấy, các nhà văn luôn thể hiện sự phản ứng tiêu cực, sự không thể hòa hợp với thành thị, bằng cách này hay cách khác. Và Baudelaire với Những bông hoa ác đã trở thành nhà văn tiêu biểu cho cảm quan đô thị, cho sự hình thành văn học đô thị trên thế giới từ thế kỉ XIX đến nay. Nỗi hận thù với xã hội, sự cô đơn và những tình cảm đồi trụy mà Baudelaire đã trải nghiệm đến nay vẫn còn nóng bỏng trong văn học viết về đô thị trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. 1.1.2. Những nghiên cứu về văn học đô thị ở nƣớc ngoài Trở lên chúng tôi đã điểm qua thực tiễn văn học ở các quốc gia trên thế giới một cách sơ lƣợc nhất. Ở đây, trong phạm vi bao quát tƣ liệu còn hạn chế chúng tôi muốn điểm tên một số công trình tiêu biểu bàn luận về văn học đô thị. Có thể kể đến các công trình nhƣ: “Tiểu thuyết đô thị Mỹ” (The American City Novel) của Blanche Gelfant; “Hình tƣợng đô thị trong văn học hiện đại” (The Image of the City in Modern Literature) của Burton Pike; “Văn học và sự trải nghiệm đô thị” (Literature and the Urban Experience) của Michael Jaye and Ann Chalmers Watts; “Thơ ca và đô thị” (The Poet and the City) của John H. Johnston; “Độc giả và đô thị trong văn học Mỹ thế kỉ XIX” (The Spectator and the City in Nineteenth-Century American Literature) của Dana Brand... Trƣớc hết phần lớn các nhà nghiên cứu, các học giả tâp trung trả lời câu hỏi văn học đô thị là gì và đâu là những vấn đề trung tâm của văn học đô thị. Về vấn đề này, có nhiều ý kiến khác nhau: một là, các học giả nhƣ Richard Lehan, Mary-Ann Caws, và David Seed có xu hƣớng xem sự hình thành các 12 thành phố là yếu tố căn bản để xác định một văn bản là văn học đô thị. Hai là, các học giả nhƣ Diane Levy, Michael Jaye và Ann Watts có xu hƣớng xem nhân vật là trung tâm của việc xác định một văn bản là văn học đô thị. Đối với những học giả có xu hƣớng nhìn nhận vai trò quan trọng của bối cảnh thành phố, "văn học đô thị" đƣợc sử dụng nhƣ một thuật ngữ tính từ đơn giản làm nổi bật các thành phố nhƣ yếu tố trung tâm của nó, chẳng hạn nhƣ: “Đô thị và tiểu thuyết” (The city and the Novel, Seed), “Đô thị trong văn học” (The City in Literature, Lehan), hoặc “Những hình tƣợng đô thị” (City Images, Caws). David Seed lập luận rằng văn học đô thị bao gồm các thay đổi vai trò của cách thiết lập thành phố: “tiểu thuyết đô thị đặc trƣng khám phá tiến độ của sự thay đổi xã hội và môi trƣờng”. Luận đề của Levy “Những dấu hiệu đô thị: Hƣớng tới một định nghĩa về văn học đô thị", cho rằng văn học đô thị vẫn đang trong giai đoạn hình thành và thử nghiệm. Levy không đi sâu hơn mà chỉ gợi ý văn học đô thị là gì. Bằng việc so sánh ba văn bản: Dubliners (1914) của James Joyce, The Buddha of Suburbia (1990) của Hanif Kureishi, và Glue (2001) của Irvine Welsh, trong cuốn “Đô thị trong văn học: Lịch sử tri thức và văn hóa” (The City in Literature: An Intellectual and Cultural History, Lehan Richard), tác giả nhằm chứng minh rằng nhân vật – con ngƣời – chính là yếu tố quan trọng nhất để xác định một văn bản là văn học đô thị. Theo ông, đô thị không chỉ đƣợc tạo ra bởi các thiết lập thành phố mà còn đƣợc tạo bởi một thái độ và trạng thái thể hiện qua nhân vật. Nhƣ vậy, góc nhìn, tâm thế của con ngƣời đô thị là một yếu tố quan trọng xác định tính đô thị của một tác phẩm văn chƣơng. Và tâm lí đô thị là điều mà các nhà văn viết về đô thị đặt lên vị trí hàng đầu. Greg Guldin và Aidan Southall trong cuốn “Nhân loại học đô thị ở Trung Quốc” (Urban anthropology in China) cũng cho rằng, các đô thị ra đời là do kết quả của sự phát triển kinh tế và những chuyến di cƣ. Điều đó làm cho các đô thị trở thành đa sắc tộc, vì thế để nghiên cứu về đô thị cần có một cái nhìn đa diện từ các góc nhìn nhân chủng học đô thị, kinh tế học, thậm chí cả học thuyết sắc tộc… Đồng quan điểm với Lehan, Daniel Paul McKeown B.A trong cuốn “Hình tƣợng đô thị và văn học đô thị” (The Image of the City and Urban 13 Literature) cũng đã đề cập đến vấn đề nhân vật – con ngƣời – nhƣ một vấn đề trung tâm của văn học đô thị. Trong chuyên luận, Lehan tập trung vào chủ đề chính là những mô tả về sức mạnh của văn học trong việc làm tái hiện hình ảnh đô thị xung quanh chúng ta. Lehan đã tìm hiểu sự chuyển đổi từ những thành phố công nghiệp non trẻ cuối thế kỉ XVIII đến những thành phố công nghiệp hiện đại cuối thế kỉ XX, nghiên cứu nhiều tiểu thuyết, nhiều tác phẩm thơ, dựa vào nền tảng triết học, xã hội học và nhân học để viết nên cuốn sách. Cuốn sách đƣợc chia thành hai phần: những tác phẩm văn học châu Âu và những tác phẩm của văn học châu Mỹ. Ở mỗi phần, Lehan đều quan tâm đến những câu trả lời cho vấn đề: sự phát triển đa dạng của thành phố công nghiệp và ảnh hƣởng của nó đến xã hội thế tục. Ông nói: “Các tác phẩm mới đây của Dickens, Balzac, Gogol và Dostoyevsky về thành phố đã cho thấy những dòng ngƣời đàn ông và đàn bà trẻ tuổi rời bỏ những ngôi làng của mình để đi vào thành phố, kiếm tìm những nhu cầu thiết yếu cao hơn của bản thân họ; hay sự đổ vỡ gia đình khiến những anh hùng đi con đƣờng riêng của mình để kiếm tìm thành công trong một thế giới lắm tiền nhiều của, thế giới thƣơng mại”. Vì thế, câu hỏi trung tâm của cuốn sách trở thành: làm thế nào để nguồn năng lƣợng cá nhân mới đổ vào thành phố đƣợc chuyển đổi? Nó có phục vụ cho lợi ích của nhân loại hay không? Nó sẽ phù hợp với mô hình xã hội mang tính lịch sử và tự nhiên hay chỉ dẫn đến tội ác? Qua nghiên cứu về một số tác phẩm nhƣ: Robinson Crusoe (1719) của Daniel Defoe, Bleak House (1853) của Dicken, The Man Without Qualities (1943) Robert Musil, We (1924) của Eugene Zamyatin, Lehan đã nhận thấy: nếu nhƣ trong Robinson Crusoe, một cá nhân duy nhất có thể biến một vùng hoang dã thành một khu canh tác nông nghiệp, nếu nhƣ thanh tra Bucket trong Bleak House còn có thể kết nối thế giới bị biến mất với thành phố thƣơng mại thì ở hai tác phẩm sau (The Man Without Qualities và We), nhân vật không thể kiểm soát đƣợc xung quanh. Họ bị bao bọc trong một thành phố mà xung quanh toàn là những bức tƣờng thủy tinh. Ở đó, sự tự do cá nhân đã bị triệt tiêu. Qua các tác phẩm từ thời Khai sáng đến thời kì hiện đại, Lehan cũng cho thấy hình ảnh trống rỗng và tiêu hủy của các thành phố 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan