Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các yếu tố tác động đến mức độ đô la hóa tài chính bằng chứng thực nghiệm ở cá...

Tài liệu Các yếu tố tác động đến mức độ đô la hóa tài chính bằng chứng thực nghiệm ở các nước thuộc khu vực asean + 6

.PDF
100
6
110

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÊ TRỌNG AN CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỨC ĐỘ ĐÔ LA HOÁ TÀI CHÍNH- BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM Ở CÁC NƯỚC THUỘC KHU VỰC ASEAN + 6 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2015 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÊ TRỌNG AN CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỨC ĐỘ ĐÔ LA HOÁ TÀI CHÍNH- BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM Ở CÁC NƯỚC THUỘC KHU VỰC ASEAN + 6 Chuyên ngành: Tài chính-Ngân hàng Mã số: 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. TRẦN NGỌC THƠ Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Lê Trọng An MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC Tóm tắt................................................................................................................................ 1 1. Giới thiệu ...................................................................................................................... 2 1.1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................................... 2 1.2. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................................... 3 1.3. Cấu trúc bài nghiên cứu .............................................................................................. 4 2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây ......................................................................... 5 2.1. Đô la hóa tài chính....................................................................................................... 5 2.2. Các quan điểm tiếp cận Đô la hóa tài chính............................................................. 11 2.2.1. Quan điểm thay thế tiền tệ ...................................................................................... 11 2.2.2. Quan điểm thể chế .................................................................................................. 12 2.2.3. Quan điểm thất bại thị trường ................................................................................ 15 2.2.4. Quan điểm danh mục đầu tư................................................................................... 18 2.3. Các nghiên cứu về Đô la hóa tài chính .................................................................... 21 3. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 26 3.1. Mô hình nghiên cứu .................................................................................................. 26 3.2. Mẫu, dữ liệu và kỳ vọng dấu ................................................................................... 27 3.2.1. Mẫu nghiên cứu ...................................................................................................... 27 3.2.2. Dữ liệu, mô tả biến và kỳ vọng dấu ........................................................................ 27 3.2.3. Giả thuyết nghiên cứu............................................................................................. 35 3.3. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 35 4. Kết quả nghiên cứu .................................................................................................... 39 4.1. Thống kê mô tả ........................................................................................................... 39 4.2. Kết quả hồi quy cho các nước ASEAN + 6 ............................................................... 44 4.3. Kết quả hồi quy cho các nước ASEAN và Việt Nam ................................................ 52 5. Kết luận ....................................................................................................................... 58 5.1. Kết luận nghiên cứu .................................................................................................. 58 5.2. Một số kiến nghị và gợi ý chính sách ........................................................................ 60 5.3. Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo ................................................. 63 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt ADB Tiếng Anh Tiếng Việt Asian Development Bank Ngân hàng phát triển Châu Á The Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á GMM Generalized Method of Moments Phương pháp mô men tổng quát IFS International Financial Statistics Thống kê tài chính quốc tế IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế MVP Minimum Variance Porfolio Danh mục phương sai nhỏ nhất ASEAN NHNN Ngân hàng nhà nước TCTD Tổ chức tín dụng USD Đô la Mỹ VND Việt Nam đồng WEO World Economic Outlook Tổng quan kinh tế thế giới WGI Worldwide Governance Indicators Chỉ số chính phủ toàn cầu DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 1. Kết quả thống kê mô tả ...................................................................................... 40 Bảng 2. Hệ số tương quan giữa các nhóm biến lạm phát và nợ công và đô la hóa .... 43 Bảng 3.Hệ số tương quan giữa các biến thể chế ............................................................ 43 Bảng 4. Kết quả hồi quy GMM sai phân một bước cho ASEAN + 6 .......................... 45 Bảng 5. Kết quả hồi quy GMM giữa đô la hóa với các biến thể chế ỏ khu vực ASEAN + 6 ........................................................................................................................ 51 Bảng 6. Kết quả hồi quy GMM cho trường hợp ASEAN ............................................. 54 Bảng 7. Kết quả hồi quy GMM cho Việt Nam ............................................................... 57 DANH MỤC HÌNH ẢNH, ĐỒ THỊ Hình 1. Đô la hóa, lạm phát và nợ công ở khu vực ASEAN + 6 ................................. 41 Hình 2. Đô la hóa, lạm phát và nợ công ở ASEAN ....................................................... 42 Hình 3. Đô la hóa, lạm phát và nợ công ở Việt Nam .................................................... 42 1 Tóm tắt Bài nghiên cứu này tìm hiểu mối quan hệ giữa nhóm biến lạm phát, nhóm biến liên quan đến nợ công, nhóm biến thể chế và các biến vĩ mô khác với mức độ đô la hóa tài chính ở 15 nước khu vực ASEAN + 6 trong giai đoạn 2000-2013. Kết quả hồi quy GMM sai phân một bước cho thấy độ trễ của đô la hóa tài chính có khả năng giải thích sự dai dẳng của chính nó. Mặt khác bài nghiên cứu còn chỉ ra nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đô la hóa ở các quốc gia này là lạm phát, trong khi đó tỷ lệ nợ công cao trong quá khứ chính là tác nhân chủ chốt dẫn đến sự kéo dài dai dẳng của đô la hóa ngay cả khi lạm phát giảm xuống. Bên cạnh đó, việc cải thiện thể chế bao gồm nâng cao các quy định pháp luật, tiếng nói và trách nhiệm, chất lượng điều hành và kiểm soát tham nhũng cũng góp phần hạn chế tình trạng đô la hóa vì những điều này củng cố niềm tin của công chúng đối với các chính sách của chỉnh phủ. Ngoài ra, các yếu tố vĩ mô khác như: mức độ mở cửa tài chính, chế độ tỷ giá và thu nhập bình quân đầu người cũng cho thấy sự tác động của chúng đến mức độ đô la hóa của quốc gia. Bài nghiên cứu còn sử dụng các biến giả khu vực và biến giả quốc gia để tiến hành kiểm tra các mối quan hệ này cho trường hợp ASEAN và Việt Nam. Kết quả cho thấy rằng các biến kinh tế ở ASEAN và Việt Nam có tác động đến đô la hóa mạnh hơn so với toàn khu vực, trong khi việc cải thiện thể chế và chất lượng chính phủ ở các nước này lại không giúp hạn chế mức độ đô la hóa tốt như các nước phát triển trong khu vực vì sự thiếu hụt niềm tin nơi công chúng đối với thể chế và các chính sách của các nước ASEAN và Việt Nam. Đối với trường hợp Việt Nam, bài nghiên cứu chỉ ra việc kiểm soát tham nhũng và ổn định chính trị có tác động rất lớn đến tâm lý người dân, do đó ảnh hưởng mạnh hơn đến mức độ đô la hóa so với các nước khác. Cuối cùng, bài nghiên cứu đưa ra một số gợi ý chính sách nhằm góp phần hạn chế được mức độ đô la hóa trong thời gian tới ở Việt Nam theo đúng mục tiêu của đề án chống đô la hóa của Ngân hàng Nhà nước. Từ khóa: Đô la hóa tài chính; Rủi ro lạm phát; Nợ công; Thể chế quốc gia 2 1. Giới thiệu 1.1. Lý do chọn đề tài Đô la hóa là một hiện tượng ngày càng phổ biến ở các nền kinh tế khi mà các quốc gia tăng cường sự hội nhập và mở cửa tài chính với thế giới. Ngày càng có nhiều quốc gia chấp nhận sử dụng hoàn toàn hoặc một phần các đồng tiền mạnh như đồng USD hay đồng Euro làm đồng tiền giao dịch chính thức của mình hoặc nắm giữ một tỷ lệ lớn tiền gửi ngân hàng định danh bằng các ngoại tệ mạnh này trong các ngân hàng thương mại. Đô la hoá xuất hiện từ rất sớm và len lỏi vào các nền kinh tế theo nhiều cách thức khác nhau và biểu hiện ra dưới hai hình thức là đô la hoá hoàn toàn (đô la hoá chính thức) và đô la hoá một phần (đô la hoá không chính thức). Đối với một nền kinh tế, đô la hoá mang lại nhiều lợi ích nhưng cũng kèm theo nhiều chi phí và rủi ro tiềm ẩn. Không những thế, trên thực tế đô la hoá còn kéo dài dai dẳng theo thời gian mặc dù nền kinh tế đã đi vào ổn định, lại càng khiến cho những tác động của đô la hoá trở nên khó kiểm soát hơn. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách rất quan tâm đến việc đo lường mức độ đô la hoá của quốc gia cũng như mức độ tác động của đô la hoá đối với nền kinh tế, từ đó đưa ra những chính sách khuyến khích và hạn chế tình trạng đô la hoá hiệu quả. Để đáp ứng yêu cầu trên, nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã được tiến hành từ rất sớm nhằm làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến đô la hoá tài chính. Các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào việc đưa ra các phương pháp ước tính đô la hoá và tìm ra các yếu tố tác động đến mức độ đô la hoá cho các nước ở khu vực Nam Mỹ- khu vực có mức độ đô la hoá cao nhất thế giới hoặc đánh giá các tác động này trên một mẫu lớn bao gồm các nước phát triển và nước đang phát triển trên khắp thế giới. Hiện nay, chưa có một nghiên cứu thực nghiệm chuyên biệt, cụ thể nào cho một khu vực kinh tế ở châu Á như ASEAN + 6 hay ASEAN và đặc biệt là cho Việt Nam. Mặc dù các khu vực/quốc gia này có quy mô tương đối nhỏ so với các khu vực kinh tế khác trên thế giới nhưng các quốc gia ở khu vực này có mức độ phát triển kinh tế-chính trị-xã hội rất khác nhau cũng như diễn biến đô la hoá trên thực tế diễn ra rất phức tạp. Vì vậy, việc nghiên cứu các yếu tố tác động đến mức độ đô la hoá ở ASEAN + 6, ASEAN hay Việt Nam đều sẽ cho những kết quả nghiên cứu thú vị và có ý nghĩa trong việc hoạch định chính sách của chính phủ các nước để đối phó với những tác động của đô la hoá đến các nền kinh tế trong tương lai. Do đó, bài nghiên cứu chọn đề tài: “Các yếu tố tác động đến mức độ Đô la hoá tài 3 chính- Bằng chứng thực nghiệm ở các nước thuộc khu vực ASEAN + 6” làm đề tài nghiên cứu nhằm trả lời các vấn đề liên quan đến tình trạng đô la hoá ở khu vực ASEAN +6. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu Bài nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa các nhân tố liên quan đến lạm phát, nợ công, thể chế và các nhân tố vĩ mô khác đến mức độ đô la hoá ở 15 nước thuộc khu vực ASEAN + 6 trong giai đoạn 2000-2013 với các mục tiêu nghiên cứu như sau: Thứ nhất, đo lường được mức độ đô la hoá tài chính của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu. Thứ hai, kiểm định được mức độ tác động của lạm phát, nợ công, thể chế quốc gia và một số nhân tố vĩ mô khác đến mức độ đô la hoá tài chính ở các nước trong mẫu nghiên cứu. Đồng thời xác định được các nhân tố dẫn đến tình trạng đô la hoá kéo dài dai dẳng ở các nước này. Thứ ba, so sánh được mức độ tác động của lạm phát, nợ công, thể chế quốc gia và một số nhân tố vĩ mô khác đối với mức độ đô la hoá tài chính giữa ASEAN/Việt Nam so với toàn khu vực ASEAN + 6 và giữa Việt Nam và ASEAN. Thứ tư, đưa ra được một số gợi ý chính sách dựa trên các kết quả thực nghiệm nhằm góp phần hạn chế tình trạng đô la hoá theo đúng mục tiêu trong đề án chống đô la hoá của Ngân hàng Nhà nước. Để có thể đạt được các mục tiêu trên, bài nghiên cứu đưa ra các câu hỏi nghiên cứu như sau: Thứ nhất, phương pháp nào phù hợp nhất để đo lường mức độ đô la hoá tài chính của các quốc gia ASEAN + 6? Thứ hai, lạm phát, nợ công, thể chế và các biến vĩ mô khác có tác động như thế nào đến mức độ đô la hoá tài chính ở các nước ASEAN + 6? Thứ ba, nhân tố nào dẫn đến tình trạng kéo dài dai dẳng của đô la hoá tài chính theo thời gian ở các quốc gia ASEAN + 6? 4 Thứ tư, mức độ tác động của lạm phát, nợ công, thể chế và các biến vĩ mô khác đối với mức độ đô la hoá tài chính ở các nước ASEAN như thế nào so với toàn bộ khu vực ASEAN + 6? Thứ năm, mức độ tác động của lạm phát, nợ công, thể chế và các biến vĩ mô khác đối với mức độ đô la hoá tài chính ở Việt Nam như thế nào so với toàn bộ khu vực ASEAN + 6 và so với ASEAN? Thứ sáu, từ kết quả bài nghiên cứu, có thể đưa ra những hàm ý chính sách nào cho Việt Nam nhằm hạn chế đô la hoá trong thời gian tới? Cuối cùng, mô hình GMM sai phân một bước có phải là mô hình phù hợp, đáng tin cậy để kiểm nghiệm các mối quan hệ nêu trên hay không? 1.3. Cấu trúc bài nghiên cứu Bài nghiên cứu được cấu trúc thành 5 phần. Phần 1 giới thiệu tổng quan các vấn đề trong bài nghiên cứu: lí do chọn đề tài, câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu. Phần 2 trình bày tổng quan các nghiên cứu trước đây có liên quan đến đô la hoá tài chính, bao gồm: khái niệm đô la hoá, tác động của đô la hoá đối với nền kinh tế; các quan điểm về đô la hoá và các bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ của các nhân tố vĩ mô với tình trạng đô la hoá của quốc gia. Phần 3 trình bày phương pháp nghiên cứu, mang đến một cái nhìn tổng quan về mô hình dữ liệu bảng động, phương pháp hồi quy GMM, các giả thuyết nghiên cứu; mô tả mẫu nghiên cứu, dữ liệu nghiên cứu và nguồn thu thập dữ liệu cũng như nêu rõ cách xác định và ý nghĩa của biến số được sử dụng trong mô hình ước lượng. Phần 4 trình bày các kết quả nghiên cứu bao gồm thống kê mô tả, các kết quả thực nghiệm từ mô hình hồi quy dữ liệu bảng động bằng phương pháp GMM sai phân một bước và các kiểm định cho khu vực ASEAN + 6; ASEAN và Việt Nam. Phần kết luận tổng quát những kết luận chính của bài nghiên cứu, nêu lên một số kiến nghị, gợi ý chính sách cho các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng dựa trên tình hình đô la hoá thực tế và kết quả của bài nghiên cứu, cũng như chỉ ra một số điểm hạn chế còn tồn tại của bài nghiên cứu và hướng phát triển đề tài trong tương lai. 5 2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây 2.1. Đô la hóa tài chính Đô la hoá tài chính là một trong những đề tài nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà kinh tế học trên thế giới suốt một khoảng thời gian dài. Việc định nghĩa đô la hoá tài chính vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận khác nhau nhưng một số nghiên cứu sau đây được cho là giải thích khá trọn vẹn khái niệm này. Theo Baliño và cộng sự (1999) và Patricia AlvarezPlata and Alicia García-Herrero (2007), đô la hóa có thể được định nghĩa là việc nắm giữ một tỷ trọng đáng kể các tài sản định danh bằng ngoại tệ của cư dân một quốc gia. Ngoài ra, bài nghiên cứu “Benefits and Costs of Dollarization” của Ngân hàng Trung ương Atlanta (2002) cho rằng việc giải thích các thuật ngữ "đô la hóa" đã phát triển từ những năm đầu thập niên 1970. Trong các tài liệu nghiên cứu giai đoạn này, "sự thay thế tiền tệ" là thuật ngữ dùng để mô tả nhu cầu ngoại tệ của các tác nhân kinh tế trong nước. Hầu hết các tài liệu về thay thế tiền tệ trình bày về kinh nghiệm của các nước Mỹ Latinh trong những năm 1970 và 1980. Với sự ưu tiên của người Mỹ Latinh đối với đô la Mỹ, thuật ngữ đô la hóa được đưa ra để mô tả về nhu cầu ngoại tệ. Thuật ngữ thay thế tiền tệ và đô la hóa được hoán đổi cho nhau trong suốt một thời gian dài. Trong những năm 1990, "đô la hóa" được dùng để mô tả việc áp dụng một cách hợp pháp đồng đô la Mỹ như là nội tệ trong nước. Do đó, điều quan trọng là phải phân biệt giữa hai loại đô la hóa: đô la hóa chính thức hay đô la hóa toàn phần, và đô la hóa không chính thức hay đô la hóa một phần. Trong đô la hóa chính thức hay đô la hóa toàn phần, cơ quan tiền tệ thông qua việc đồng đô la Mỹ được hợp pháp hóa cho tất cả các giao dịch. Đồng đô la Mỹ tham gia vào tất cả các chức năng của tiền tệ trong nước, bao gồm: đơn vị tính toán, phương tiện trao đổi và lưu trữ giá trị. Đô la hóa không chính thức hay đô la hóa một phần đề cập đến quá trình mà các cá nhân thay thế đồng nội tệ với ngoại tệ để giao dịch và phân bổ tài sản tài chính của họ. Trong trường hợp như vậy, các cơ quan tiền tệ không nhất thiết phải thúc đẩy hoặc khuyến khích đô la hóa. Đô la hóa một phần thường đáp ứng các nhu cầu bảo vệ sức mua của thu nhập bằng tiền và tài sản trong nước khỏi những tác động xấu của tỷ lệ lạm phát cao. Dưới hình thức đô la hóa không chính thức hoặc một phần, thật sự rất hữu ích để phân biệt giữa sự thay thế tiền tệ và thay thế tài sản. Sự khác biệt này phụ thuộc vào động cơ của 6 các tác nhân kinh tế đối với các yêu cầu ngoại tệ. Sự thay thế tiền tệ đề cập đến việc sử dụng ngoại tệ làm phương tiện trao đổi và đơn vị tính toán. Trong tình trạng lạm phát, chi phí của việc nắm giữ đồng nội tệ trở nên quá đắt đỏ dẫn đến người dân sẽ thực hiện các giao dịch bằng ngoại tệ. Sau một thời gian ban đầu, các giao dịch bằng USD được chấp nhận rộng rãi. Một sự sụt giảm quá trình này thì không thể diễn ra ngay lập tức ngay cả khi giảm tỷ lệ lạm phát. Mặt khác, sự thay thế tài sản mô tả việc phân bổ danh mục đầu tư vào các tài sản được định danh bằng ngoại tệ. Đồng đô la Mỹ thay thế đồng nội tệ như công cụ lưu trữ giá trị. Bằng việc sử dụng tài sản định danh bằng ngoại tệ, các cư dân nội địa cố gắng tránh những tác động tiêu cực của sự bất ổn kinh tế vĩ mô, lạm phát và mất giá của tiền tệ. Trong những trường hợp này, rủi ro và lợi nhuận là các biến quan trọng trong nhu cầu ngoại tệ. Đồng quan điểm trên, Patricia Alvarez-Plata và Alicia García-Herrero (2007) trong bài nghiên cứu “To dollarize or de-dollarize: Consequences for Monetary Policy”, hay nghiên cứu của Baliño và các cộng sự (1999) và Levy Yeyati (2006) đều cho rằng Đô la hóa có thể được định nghĩa là việc nắm giữ của dân cư các tài sản được định danh bằng ngoại tệ trên tổng tài sản của họ. Josef T. Yap (2001) cũng định nghĩa đô la hóa tài chính là việc sử dụng đồng đô la trên cả ba phương diện của tiền tệ và ông cũng xem xét tình trạng đô la hóa tài chính dưới hai góc độ đô la hóa chính thức và đô la hóa không chính thức. Ngoài ra, để định lượng mức độ đô la hóa của một quốc gia, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã xác định rằng khi tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ trên tổng cung tiền rộng (M2) chiến trên 30% thì nền kinh tế đó có mức độ đô la hóa cao, trung bình là từ 15% - 30% còn nếu tỷ lệ này ở mức dưới 15% thì được coi là mức đô la hóa thấp. Ngoài ra, trong bài nghiên cứu De facto dollarization and its effect on financial development and economic growth of Cambodia, Lao PDR and Viet Nam của IMF (2007), thuật ngữ "đô la hóa" được sử dụng trong nhiều ngữ cảnh khác nhau. Đô la hóa tiền mặt và đô la hóa tiền gửi là việc sử dụng tiền mặt và tiền gửi bằng ngoại tệ song song với tiền mặt và tiền gửi bằng đồng nội tệ. Đô la hóa tiền tệ đề cập đến tình trạng đô la hóa tiền mặt cộng với đô la hóa tiền gửi. Đô la hóa tài chính là việc sử dụng ngoại tệ cho các giao dịch tài chính. Đô la hóa thực là việc sử dụng ngoại tệ để định giá tiền lương, hàng hóa và dịch vụ. 7 Như vậy, để phù hợp với mục tiêu nghiên cứu, bài nghiên cứu sẽ sử dụng định nghĩa đô la hóa dưới góc độ đô la hóa tài chính, nghĩa là tình trạng cư dân một quốc gia sử dụng ngoại tệ trong các giao dịch tài chính. Đô la hóa (hay đô la hóa tài chính) được nhắc đến trong bài nghiên cứu này không chỉ bao gồm việc sử dụng đồng đô la Mỹ mà còn các ngoại tệ khác được cư dân quốc gia sử dụng trong các giao dịch tài chính (mua, bán, vay nợ, cầm cố, tiền gửi, các giao dịch thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ…). Mặt khác, bởi vì đặc điểm kinh tếchính trị-xã hội đặc thù của các nước trong mẫu của bài nghiên cứu, nên bài nghiên cứu này còn xem xét đô la hóa ở góc độ đô la tài chính dưới góc độ là đô la hóa không chính thức hay còn gọi là đô la hóa một phần. Khi nghiên cứu về đô la hóa tài chính, một trong những vấn đề cần phải quan tâm xem xét là tác động của đô la hóa đối với một quốc gia. Phần tiếp theo sẽ sơ lược về các tác động này để giải thích vì sao cần phải đánh giá giữa lợi ích và chi phí khi nghiên cứu về đô la hóa và tầm quan trọng của việc xác định các yếu tố tác động đến mức độ đô la hóa, từ đó lựa chọn các giải pháp để khuyến khích hoặc hạn chế tình trạng đô la hóa khi hoạch định chính sách ở một quốc gia. Tác động của đô la hoá tài chính đến một quốc gia có thể được xem xét qua hai khía cạnh: Tác động tích cực (lợi ích) và tác động tiêu cực (bất lợi). Theo nghiên cứu Benjamin J. Cohen (2000), đô la hóa tài chính mang đến ba lợi ích chính (ngoài lợi ích chung là giảm chi phí giao dịch). Thứ nhất, đô la hóa làm giảm chi phí hành chính. Chính phủ không còn phải gánh chịu chi phí của việc duy trì một cơ sở hạ tầng để dành riêng cho việc sản xuất và quản lý đồng tiền riêng của quốc gia. Phải thừa nhận rằng, việc tiết kiệm như vậy thật sự rất hấp dẫn với các nước nhỏ và nghèo bởi vì làm giảm các phí tổn do hạn chế về quy mô nhỏ gây ra. Tuy nhiên đối với các nước lớn và giàu có, thì khả năng giảm chi phí này là không đáng kể. Thứ hai, tình trạng đô la hóa cũng có thể thiết lập một cơ sở vững chắc cho một nền tài chính vững mạnh hơn. Đô la hóa có nghĩa là việc sử dụng nhiều hơn một loại tiền tệ. Nó cũng có nghĩa là tăng cường hội nhập tài chính với Hoa Kỳ, mà điều này sẽ buộc các tổ chức tài chính trong nước nâng cao hiệu quả và chất lượng các dịch vụ của họ. Hơn nữa, đô la hóa tài chính còn mang đến một sự cam kết lâu dài để lạm phát thấp, trách nhiệm tài 8 chính, và sự minh bạch của chính phủ. Điều đó sẽ có giá trị rất lớn đối với các nước mà trước đây đã không được đánh giá cao về sự ổn định giá cả hoặc sự ổn định tài chính. Thứ ba, cũng quan trọng không kém lợi ích thứ 2, đô la hóa có thể làm giảm đáng kể lãi suất cho vay của nội địa. Đô la hóa thiết lập một mối quan hệ ổn định với một đồng tiền mà đồng tiền này có uy tín và an toàn. Thay vì phải đầu tư rất nhiều nỗ lực để có thể xây dựng lòng tin thị trường trong chính sách tiền tệ của riêng mình, một chính phủ có thể đạt được sự tín nhiệm ngay lập tức bằng cách "thuê" sự uy tín của Ngân hàng liên bang Mỹ để thay thế. Việc giảm lãi suất có thể sẽ làm cho đầu tư trong nước và tăng trưởng kinh tế tăng mạnh hơn trong tương lai. Tuy nhiên đối nghịch với các lợi ích nêu trên của đô la hóa tài chính là một số chi phí tiềm ẩn. Đối với tình trạng đô la hóa hoàn toàn, đô la hóa sẽ tước quyền tự chủ tiền tệ quốc gia và mang đến các khoản lỗ tiềm năng từ việc mất đi tiền thuế đúc tiền và hiệu quả từ vị thế người cho vay cuối cùng đối với các ngân hàng trong nước. Tuy nhiên trong thực tế, không có chi phí nào trong số những chi phí này có xu hướng trở nên nghiêm trọng như chúng thường xuyên bị các nhà kinh tế cáo buộc. Bất lợi quan trọng hơn của đô la hóa tài chính (bao gồm cả đô la hóa toàn phần và đô la hóa một phần) là chính trị chứ không phải là bất lợi về kinh tế kinh tế, mà bất lợi này liên quan đến việc mất đi một biểu tượng mạnh mẽ đặc trưng cho quốc gia, mất đi một nguồn cung khẩn cấp cho doanh thu nhà nước, và mất đi một biện pháp quan trọng trong việc cách ly ngoại giao. Đầu tiên đô la hóa tài chính mang đến các chi phí kinh tế. Thật sự rất dễ dàng để có thể mô tả các chi phí kinh tế thuần tuý của đô la hóa. Khi xuất hiện tình trạng đô la hóa, hình thức “tự trị” tiền tệ sẽ mất, vì đất nước bị đô la hóa không còn có thể thực hiện kiểm soát đơn phương cung tiền hoặc thay đổi tỷ giá của mình. Tất cả quyền được chuyển nhượng lại cho Ngân hàng Liên bang Hoa Kỳ, với rất ít lời hứa rằng hoàn cảnh cụ thể của đất nước bị đô la hóa sẽ được xem xét khi FED đưa ra một quyết định tiền tệ. Ở nhiều nước Mỹ Latinh, việc tự chủ tiền tệ từ lâu đã bị mất dần bởi sự tăng trưởng ổn định của tình trạng đô la hóa không chính thức. Mức độ thay thế đồng tiền phản ánh áp lực và sở thích thị trường đối với ngoại tệ càng tăng thì mức độ áp đặt sự ràng buộc của bên ngoài đối với khả năng của chính phủ khi quản lý các điều kiện kinh tế vĩ mô càng lớn. 9 Bên cạnh đó với tình trạng đô la hóa, một chính phủ sẽ đánh mất một công cụ mạnh mẽ để bảo đảm cho việc chi tiêu công của mình, đó chính là tiền thuế đúc tiền. Về mặt kỹ thuật khoản tiền này được xác định là khoản chênh lệch giữa giá trị danh nghĩa của một đồng tiền so với chi phí sản xuất của nó. Thuế đúc tiền có thể được hiểu như là một sự thay thế nguồn thu cho nhà nước ngoài những nguồn có thể thu được thông qua đánh thuế hoặc bằng cách vay mượn từ các thị trường tài chính trong và ngoài nước. Những gì không thể được trả bằng biên lai thuế hay vốn vay có thể được trả một cách hiệu quả bằng cách in tiền. Việc đô la hóa tự động chấm dứt khoản thu này của chính phủ trừ khi họ có bổ sung thêm một số điều khoản và được đồng ý cho phép chia sẻ thuế đúc tiền với Hoa Kỳ. Đối với nhiều nước ở Mỹ Latin, nơi đồng bạc xanh thậm chí đã chiếm một phần lớn nguồn cung tiền nội địa, đặc quyền thuế đúc tiền của chính phủ các quốc gia này đã bị giảm bớt đi rất nhiều. Cuối cùng, sự thật là một đất nước bị đô la hóa đã đánh mất vai trò của người cho vay chính thức cuối cùng, vì khi áp dụng một ngoại tệ nào đó cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng trung ương từ bỏ khả năng chiết khấu tự do trong thời gian khủng hoảng tài chính. Các ngân hàng trong nước do đó có thể phải đối mặt với rủi ro thanh khoản tiềm ẩn. Tuy nhiên trên thực tế chi phí này có thể được bù đắp khá dễ dàng. Đô la hóa làm giảm nhu cầu tổng thể cho dự trữ quốc tế, vì một phần giao dịch nước ngoài mà trước đây bắt buộc dùng ngoại tệ thì hiện nay có thể được coi là tương đương với giao dịch trong nước. Do đó, một phần tài sản định danh bằng đồng USD của ngân hàng trung ương có thể được dành riêng thay vì dùng một quỹ bình ổn nào đó để giúp đỡ các tổ chức tài chính trong nước khi họ gặp vấn đề. Thứ hai, đô la hóa tài chính mang đến các chi phí liên quan đến chính trị. Ở mức độ biểu tượng, việc nắm giữ đồng nội tệ thực sự rất hữu ích vì điều này giúp cho chính phủ cảnh giác sự phân chia nội bộ hoặc bất đồng chính kiến. Sự tập trung quyền lực của các cơ quan nhà nước dễ dàng hơn trong chừng mực công dân nước đó đều cảm thấy họ bị ràng buộc với nhau như thành viên của một đơn vị xã hội duy nhất – bao gồm cả cộng đồng chính trị và lịch sử. Các nhà nhân văn học đã cho chúng ta thấy rằng các quốc gia được tạo lập không chỉ bằng vũ lực mà còn phải thông qua sự trung thành, thông qua một cam kết tự nguyện cùng hướng đến một đặc trưng của quốc gia. Sự khác biệt giữa cư dân trong nước và các 10 cư dân ở nước khác có thể được khắc họa rõ nét dưới nhiều cách thức bao gồm cả các biểu tượng hữu hình như: quốc kỳ, quốc ca, tem bưu chính, kiến trúc công cộng hay thậm chí cả đội tuyển thể thao quốc gia. Trong số những biểu tượng này, biểu tượng mạnh nhất chính là tiền tệ vì nó được sử dụng để nâng cao tính riêng biệt đặc trưng quốc gia theo hai cách. Đầu tiên, vì tiền tệ được phát hành bởi chính phủ hoặc ngân hàng trung ương của quốc gia đó, nên tiền tệ đóng vai trò như một lời nhắc nhở hàng ngày về việc kết nối giữa công dân với nhà nước và sự hợp nhất trong quốc gia này. Thứ hai, nhờ việc sử dụng phổ biến hàng ngày, tiền tệ nhấn mạnh thực tế rằng tất cả mọi người là một phần như nhau của thực thể xã hội – tương tự vai trò của ngôn ngữ chính thức của quốc gia, mà điều này cũng được nhiều chính phủ tích cực thúc đẩy để nâng cao tinh thần dân tộc. Cả hai hiệu ứng này đều bị mất khi đồng tiền ngoại tệ được sử dụng thay thế. Tương tự như vậy, ở mức độ chính sách của nhà nước, việc nắm giữ đồng nội tệ thực sự có hữu ích cho các chính phủ như là một loại chính sách bảo hiểm chống lại rủi ro. Điều này đưa chúng ta trở lại với thuế đúc tiền. Quan trọng hơn, việc phát hành tiền có thể được sử dụng như là một nguồn thu khẩn cấp - một cách thức để tìm kiếm các nguồn lực cần thiết một cách nhanh chóng khi phải đối mặt với những tình huống bất ngờ, bao gồm cả chiến tranh. Nguồn lực này có thể được huy động ngay lập tức mà không bị buộc phải chờ đợi cho tờ khai thuế được nộp hoặc các khoản vay được đàm phán xong. Đặc ân này sẽ bị mất đi khi tiền của nước khác được sử dụng thay thế. Cuối cùng, ở mức độ chính sách ngoại giao, nắm giữ nội tệ thực sự là hữu ích cho các chính phủ cảnh giác với sự phụ thuộc hoặc các mối đe dọa bên ngoài. Tự chủ tiền tệ quốc gia cho phép những nhà hoạch định chính sách tránh được sự phụ thuộc vào một số nguồn khác khi thiếu hụt tất cả các nguồn lực kinh tế. Trong thực tế, một ranh giới kinh tế rõ ràng được vạch ra giữa nhà nước và phần còn lại của thế giới, góp phần nâng cao quyền lực chính trị của chính phủ. Điều này cũng bị mất khi một đồng tiền nước ngoài được thông qua. Ngoài ra, liên quan đến tác động của đô la hóa tài chính, còn có một nghiên cứu của Ghassan Omet-Muthana Abu Hadhoud-Morad Abdel-Halim (2015) xem xét tác động của các khoản tiền gửi ngoại tệ đối với hiệu suất của các ngân hàng Jordan về lợi nhuận, hiệu quả (tỷ lệ lãi biên), và hành vi tín dụng. Các kết quả thực nghiệm chỉ ra rằng việc nắm giữ đồng ngoại 11 tệ có một tác động đáng kể đến lợi nhuận ngân hàng và tỷ lệ lãi biên. Tuy nhiên, tác động này là không đáng kể đối với tín dụng của ngân hàng. Những kết quả này ngụ ý rằng các ngân hàng Jordan với tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ cao sẽ mang đến những rủi ro tăng thêm cho các ngân hàng Jordan. Một điều cần lưu ý, đô la hóa tài chính cũng có tác động đến các nước có đồng tiền mạnh được các nước khác sử dụng, cụ thể là nước Mỹ. Những tác động tích cực của đô la hóa tài chính đối với các nước bị đô la hóa, chính là những bất lợi mà Mỹ phải đối mặt và ngược lại, tác động tích cực mà đô la hóa mang lại cho Mỹ được xuất phát từ những bất lợi mà các nước bị đô la hóa hứng chịu. Như vậy, đô la hóa tài chính là một trong những đề tài đã được nghiên cứu từ rất sớm vì những tác động của nó đến các nền kinh tế liên quan. Để đánh giá được mức độ tác động của đô la hóa tài chính, đòi hỏi cần phải có sự phân tích chi tiết về tính chất của đô la hóa cũng sự đo lường giữa lợi ích và chi phí mà đô la hóa mang lại. Phần tiếp theo sẽ trình bày các quan điểm về các nhân tố tác động đến mức độ đô la hóa tài chính để làm rõ hơn về nguyên nhân và hệ quả của nó. 2.2. Các quan điểm tiếp cận Đô la hóa tài chính Có bốn quan điểm tiếp cận đô la hóa tài chính thường được các nhà nghiên cứu sử dụng khi tìm hiểu về đô la hóa tài chính, đó là: Quan điểm thay thế tiền tệ; Quan điểm thể chế; Quan điểm thất bại thị trường và Quan điểm danh mục đầu tư. 2.2.1. Quan điểm thay thế tiền tệ Quan điểm thay thế tiền đệ được các tác giả Calvo và Rodrigues (1977), Liviatan (1981), Miles (1978), Branson và Henderson (1985), Thomas (1985), Savastano (1992) và Guidotti và Rodríguez (1992) khởi xướng đầu tiên để giải thích về tình trạng đô la hóa. Những mô hình này giả định về sự hiện diện của hai loại tài sản (nội tệ và ngoại tệ) và sử dụng các mức lạm phát cao như là nguyên nhân của tình trạng đô la hóa và sự thay thế tiền tệ. Sự mất giá đồng nội tệ dẫn đến việc cư dân tìm kiếm các giải pháp để phòng ngừa sự sụt giảm giá trị mà họ đang nắm giữ, cụ thể họ sẽ thay thế việc nắm giữ đồng nội tệ bằng một ngoại tệ mạnh (ví dụ, đồng đô la Mỹ). Quan điểm thay thế tiền tệ có thể được xem là quan điểm 12 tiền đề cho nghiên cứu đô la hóa và đã có rất nhiều nghiên cứu ủng hộ về mối quan hệ giữa lạm phát và đô la hóa tài chính. Theo các kết quả nghiên cứu trước đây, mức độ lạm phát tương quan thuận với mức độ đô la hóa, như trong các nghiên cứu của Levy-Yeyati (2006), De Nicolo và các cộng sự. (2005), Rennhack và Nozaki (2006), Bacha et al. (2007, 2009) và Kokenyne et al. (2010). Ngoài ra, theo Fabrico A.C Vieira, Marcio Holland và Marco F. Resende (2012), chi tiêu chính phủ và thu chính phủ có thể được bảo đảm thông qua việc tăng thuế, phát hành tiền hoặc vay nợ thông qua trái phiếu công. Việc phát hành tiền tệ (ví dụ, tiền tệ hóa khoản nợ) và thuế đúc tiền có thể gây ra lạm phát đạt mức không kiểm soát được, như đã được chỉ ra bởi Cagan (1956), Friedman (1963) và Sargent (1982). Thực tế những điều này khá phổ biến trong các nền kinh tế trên thế giới, đặc biệt là những nước phải chịu đựng chiến tranh hay sụt giảm giá xuất khẩu và thuế. Những trường hợp này tạo ra một nhu cầu để chính phủ tài trợ cho thâm hụt ngân sách công thông qua việc phát hành tiền, điều này mang đến một sự tin cậy thấp của các nhà đầu tư vào trái phiếu của chính phủ (Romer, 2006). Bên cạnh đó, nhiều quốc gia Mỹ Latin phải sử dụng đến đến việc phát hành tiền tệ để trang trải chi tiêu trong những thị trường có nhu cầu trái phiếu trong nước thấp, mà điều này hạn chế việc chi tiêu được tài trợ thông qua các phát hành nợ và mở rộng nợ trong nước. Như vậy, theo quan điểm thay thế tiền tệ, lạm phát chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng đô la hóa ở các quốc gia. 2.2.2. Quan điểm thể chế Quan điểm thể chế là một trong những quan điểm nhận được nhiều sự ủng hộ nhất của các nhà kinh tế về sự ảnh hưởng của nó đối với mức độ đô la hóa của một quốc gia. Quan điểm thể chế chủ yếu lập luận rằng nếu một quốc gia có thể chế yếu kém sẽ khiến người dân mất niềm tin vào việc thực thi các cam kết của chính phủ cũng như tính hiệu quả của các chính sách của chính phủ, do đó người dân sẽ có xu hướng nắm giữ các tài sản được định danh bằng ngoại tệ. Nghiên cứu của Acemoglu và cộng sự (2001) cho thấy các thể chế khác nhau giữa các quốc gia sẽ dẫn đến các mức độ quyền sở hữu khác nhau mà những quyền sỡ hữu này đến lượt mình, lại ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và GDP bình quân đầu người của các quốc gia này. Khi nghiên cứu về đô la hóa, theo ghi nhận của Savastano (1992) và 13 Levy-Yeyati (2006), chất lượng của thể chế có thể ảnh hưởng đến các yếu tố dẫn đến tình trạng đô la hóa. Cụ thể, thể chế yếu kém làm giảm niềm tin của người dân vào cam kết của chính phủ về việc đảm bảo cho các khoản nợ bằng Đô la Mỹ khi có sự rớt giá đột ngột, và điều này có thể kéo theo sự sai lệch giá có liên quan đến sự bảo đảm ngầm của chính phủ (Levy-Yeyati, 2006). Hơn nữa, thể chế yếu kém có thể làm suy yếu sự tín nhiệm vào các chính sách trong nước, khi mà người dân lo sợ rằng chính phủ của họ sẽ làm mất dần giá trị của các tài sản tài chính bằng cách tạo ra lạm phát bất ngờ trong tương lai. Cuối cùng, thể chế yếu kém cũng có thể tăng nghi ngờ về việc thực thi hợp đồng. Những người ủng hộ chính của quan điểm này là De Nicolo và cộng sự (2003), De La Torre và cộng sự. (2003), Rajan (2004), Broda và Levy-Yeyati (2003) và Honig (2009). Các nghiên cứu về quan điểm thể chế hầu như đều xoay quanh vấn đề từng thước đo của thể chế quốc gia tác động như thế nào đến mức độ đô la hóa. North và Weingast (1989) đã chỉ ra làm thế nào mà việc giám sát các quyết định điều hành của chính phủ làm tăng mức độ tin cậy đối với quyền sở hữu tài sản (quyền của chủ sở hữu đối với việc kiểm soát, kiếm lời và chuyển đổi tài sản của họ), từ đó hạn chế được mức độ đô la hóa trong nền kinh tế. Các biến được sử dụng trong các nghiên cứu của Levy-Yeyati (2006), Rennhack và Nozaki (2006) và Levy-Yeyati và Sturzenegger (2005) bao gồm một chỉ số đo lường việc hạn chế nắm giữ tiền gửi ngoại tệ của dân cư (hạn chế đô la hoá), thu nhập bình quân đầu người, một chỉ số về các quy định của pháp luật, và một biến giả tỷ giá hối đoái như là một thước đo về chất lượng thể chế quốc gia. Kết quả của họ chỉ ra mối quan hệ ngược chiều giữa mức độ đô la hóa và sự hạn chế đô la hoá, thu nhập bình quân đầu người và quy định của pháp luật. Biến quy định của pháp luật được lấy từ từ chỉ số Chính phủ toàn cầu của Ngân hàng Thế giới (WGI), cũng đã được sử dụng bởi Arida và cộng sự (2005) và Bacha và cộng sự (2007, 2009). Biến này là một biến đại diện cho sự không chắc chắn về quyền tài phán - một trong những khái niệm được đưa ra bởi Arida và cộng sự. (2005). Biến này cố gắng để nắm bắt sự không chắc chắn của chính phủ về việc các nhà đầu tư tài chính phải đối mặt với đất nước có thể chế còn yếu kém. Các kết quả của Bacha và cộng sự (2007, 2009) cho thấy sự gia tăng bất ổn tài phán dẫn đến sự gia tăng tình trạng đô la hóa tài chính. Các tác giả cũng sử dụng các biến khác từ WGI, chẳng hạn như tiếng nói và trách nhiệm giải trình,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan