Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP CỦA NÔNG HỘ Ở AN GIANG...

Tài liệu CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP CỦA NÔNG HỘ Ở AN GIANG

.PDF
7
343
54

Mô tả:

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP CỦA NÔNG HỘ Ở AN GIANG
Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 63 - 69 Trường Đại học An Giang CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP CỦA NÔNG HỘ Ở AN GIANG Nguyễn Lan Duyên1 1 ThS. Khoa Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học An Giang Thông tin chung: Ngày nhận bài: 11/03/14 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 09/05/14 Ngày chấp nhận đăng: 30/07/14 Title: The factors affecting the income of the households in Angiang Từ khóa: Farm income, countryside, rural households, agriculture Keywords: Thu nhập, nông thôn, nông hộ, nông nghiệp ABSTRACT The paper uses the Least Square method (OLS) to determine a regression model to identify the factors affecting the income of the households in Angiang. Primary data were collected from surveying 598 households randomly. Results showed that education level, land area, residence time in the local area, distance from home to the center, loan amount, interest rate, and number of workers influence the income of the households in Angiang. The paper proposes solutions to improve the income of the households. TÓM TẮT Bài viết sử dụng phương pháp bình phương bé nhất (OLS) để ước lượng mô hình hồi quy nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở An Giang trên cơ sở hệ thống dữ liệu sơ cấp thu thập từ 598 nông hộ được chọn ngẫu nhiên. Kết quả ước lượng cho thấy các yếu tố như trình độ học vấn, diện tích đất, thời gian cư trú tại địa phương, khoảng cách từ nơi ở đến trung tâm, lượng vốn vay, lãi suất và số lao động có ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở An Giang. Từ đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao thu nhập của nông hộ. nhập được cải thiện nhưng vẫn còn thấp so với bình quân chung của cả nước, khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị có chiều hướng gia tăng, đời sống vật chất và tinh thần của khá nhiều nông hộ còn khó khăn. 1. GIỚI THIỆU Chính sách tam nông đóng vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế ở nước ta. Trong những năm qua, khu vực nông thôn đã có bước tiến vượt bậc, giá trị sản lượng liên tục tăng, đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn được cải thiện đáng kể. Song, cũng như ở các nước đã và đang công nghiệp hóa, quá trình này mang lại những thay đổi không nhỏ trên phương diện kinh tế và đời sống xã hội, trong đó nông nghiệp, nông dân và nông thôn luôn bị thiệt thòi. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, với quan điểm phát triển nông nghiệp và nông thôn phải xuất phát từ lợi ích của người nông dân, tỉnh An Giang đã đề ra chiến lược phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn để qua đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn, phấn đấu thu nhập bình quân đầu người tăng 12,5%/năm và đến năm 2020 đạt 42,2 triệu đồng/người/năm (Nghị quyết tỉnh ủy An Giang, 2013). An Giang là tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với đất nông nghiệp chiếm đến 75% diện tích, có 73% dân số sống ở nông thôn và 71% lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp (Niên giám thống kê, 2013). Sản xuất nông nghiệp là nguồn thu nhập chính của đại bộ phận người dân nông thôn trong Tỉnh. Cũng như nhiều địa phương khác, đời sống của người dân nông thôn An Giang tuy đã được nâng lên, thu Để thực hiện thành công chiến lược trên, việc nhận dạng các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ trên địa bàn Tỉnh để có giải pháp phù hợp là hết sức cần thiết. Vì vậy, bài viết được hình 63 Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 63 - 69 Trường Đại học An Giang thành với mục tiêu này để trên cơ sở đó đề xuất giải pháp nâng cao thu nhập cho các nông hộ ở tỉnh An Giang. và thu hoạch đại trà (thời vụ) nên nông hộ thường bán sản phẩm với giá rẻ cho thương lái ngay sau khi thu hoạch (cung vượt cầu). Điều này cho thấy, các nông hộ sống gần đô thị (thị tứ, thị trấn, thị xã hay thành phố) sẽ có điều kiện bán sản phẩm trực tiếp đến tay người tiêu dùng với giá cao hơn, chi phí chuyên chở thấp hơn và sản phẩm ít hư hỏng hơn nên thu nhập sẽ cao hơn (Marsh & cs., 2007; Klasen & cs., 2013). 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU Theo các nghiên cứu (Abdulai & CroleRees, 2001; Demurger & cs., 2010; Janvry & Sadoulet, 2001; Klasen & cs., 2013; Marsh & cs., 2007; Yang, 2004; Yu & Zhu, 2013), thu nhập của nông hộ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, bao gồm vốn, đất đai, trình độ học vấn, kinh nghiệm sản xuất, số lao động, khả năng đa dạng hóa thu nhập, cơ hội tiếp cận thị trường. Trong nông nghiệp, đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và khó thay thế. Do phần lớn thu nhập của nông hộ phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, mà sản xuất nông nghiệp ở nước ta chủ yếu là thủ công và dựa vào đất nên quy mô đất đai sẽ quyết định thu nhập. Việc không có hoặc có ít đất sản xuất làm hạn chế khả năng cải thiện thu nhập, bởi diện tích nhỏ hẹp thì sẽ khó áp dụng kỹ thuật canh tác hiện đại, do đó sản phẩm có chất lượng thấp, không đồng đều nên giá trị thấp nhưng giá thành lại cao (Manjunatha & cs., 2013). Thật vậy, vốn là yếu tố đầu vào không thể thiếu bởi nông hộ cần vốn để mua vật tư, giống, máy móc, thuê lao động,… nhằm đảm bảo tính thời vụ và giảm thiểu rủi ro, qua đó làm tăng thu nhập. Ngoài ra, vốn còn giúp nông hộ đầu tư phát triển hệ thống tưới tiêu cũng như áp dụng kỹ thuật mới đa dạng hóa loại hình sản xuất để tránh phải bán sản phẩm với giá thấp (Mink & cs., 2004). Lao động cũng là yếu tố đầu vào quan trọng của sản xuất nông nghiệp, không chỉ số lượng mà còn cả chất lượng. Trong điều kiện sản xuất ít được cơ giới hóa, số lượng lao động sẽ là yếu tố cơ bản giúp làm tăng thu nhập cho nông hộ (Abdulai & CroleRees, 2001; Yang, 2004). Tuy nhiên, do tính thời vụ và trình độ của người lao động còn hạn chế, khó tham gia các hoạt động phi nông nghiệp nên tình trạng lao động nhàn rỗi ở nông thôn còn khá phổ biến. Do đó, nông hộ có thể có nhiều lao động nhưng thu nhập không cao bởi một số lao động không trực tiếp làm ra thu nhập. Hiện nay, thu nhập của nông hộ nước ta còn thấp nên không đủ tích lũy để tái đầu tư, các nguồn vốn tài trợ từ ngân sách rất hạn chế bởi phải san sẻ cho các khu vực ưu tiên, trong khi nguồn vốn bán chính thức và phi chính thức lại nhỏ lẻ nên ít được sử dụng cho sản xuất. Do đó, tín dụng chính thức trở nên hết sức quan trọng đối với các nông hộ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nông hộ gặp không ít khó khăn khi vay tín dụng chính thức do các tổ chức tín dụng thường hạn chế cho vay ở nông thôn bởi phải đối mặt với chi phí giao dịch và rủi ro cao trong khi người vay lại thiếu tài sản thế chấp và thường gặp bất trắc khó lường ảnh hưởng xấu đến khả năng trả nợ như mất mùa, dịch bệnh, giá nông sản bấp bênh,… (Lê Khương Ninh, 2011). Học vấn đóng vai trò then chốt đối với sự phát triển của một cá nhân, một tổ chức cũng như một quốc gia (Foster & Rosenzweig, 1996; Pitt & Sumodiningrat, 1991; Yang, 2004). Học vấn quyết định lợi thế của mỗi người trong việc tạo ra thu nhập bởi học vấn cao sẽ dễ tiếp thu, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất và sử dụng hiệu quả các nguồn lực khác. Bên cạnh đó, học vấn cũng giúp tăng cường khả năng nắm bắt và xử lý thông tin thị trường để tạo ra cơ hội tham gia các hoạt động phi nông nghiệp, qua đó làm tăng thu nhập. Hệ quả của việc các tổ chức tín dụng chính thức hạn chế cho vay ở nông thôn là các nông hộ bị lệ thuộc vào tín dụng phi chính thức nên phải chịu lãi suất rất cao. Đặc biệt, nhiều khoản cho vay bằng tiền được thực hiện trước khi thu hoạch (thời điểm giá nông sản cao) phải được hoàn trả bằng hiện vật sau khi thu hoạch (thời điểm giá nông sản thấp), khiến cho lãi suất vay càng cao. Lãi suất cao làm tăng chi phí sản xuất, do đó làm giảm thu nhập của nông hộ (Klasen & cs., 2013). Bên cạnh học vấn, thời gian sống ở địa phương cũng có ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ. Nông hộ sống lâu năm ở địa phương thường được người thân cũng như các tổ chức xã hội giúp đỡ (vốn và kinh nghiệm sản xuất) khi cần thiết nhờ các mối quan hệ thân tộc và cộng đồng. Bên cạnh Do đặc tính của nông sản mau hỏng, khó bảo quản 64 Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 63 - 69 Trường Đại học An Giang đó, các hộ này cũng có điều kiện sinh sống, sản xuất và tích lũy tốt hơn bởi “an cư thì lạc nghiệp” (Phan Đình Nghĩa, 2010). THUNHAP   0  1 HOCVAN   2 DIENTICHDAT  3TGCUTRU  Trên cơ sở các luận điểm vừa trình bày, bài viết xây dựng mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở An Giang như sau: Trong mô hình (1), THUNHAP là thu nhập trung bình của nông hộ (triệu đồng/năm). Ý nghĩa của các biến và kỳ vọng về dấu của các hệ số  i trong mô hình (1) được trình bày trong Bảng 1.   4 LAODONG  5VITRIXH   6 KNVAY    7 KCDOTHI  8TINDUNG  9 LAISUAT (1) Bảng 1. Ý nghĩa của các biến và kỳ vọng về dấu của các hệ số Tên biến Đơn vị đo lường Diễn giải HOCVAN Trình độ học vấn của chủ hộ DIENTICHDAT Diện tích đất nông nghiệp TGCUTRU LAODONG i Có trị số tương ứng với cấp học của chủ hộ Kỳ vọng về dấu của các hệ số i + 1.000 m2/người + Thời gian cư trú ở địa phương Năm + Số lao động của hộ người ? VITRIXH Vị trí xã hội của hộ KNVAY Khả năng vay KCDOTHI Khoảng cách từ nơi ở của hộ đến đô thị TINDUNG Số tiền vay tín dụng chính thức LAISUAT Lãi suất vay Có trị số là 1 nếu các thành viên của hộ có tham gia cơ quan chính quyền hay đoàn thể các cấp và là 0 nếu ngược lại Có giá trị 1 nếu được vay ở các tổ chức tín dụng và có giá trị 0 là ngược lại + + Km – triệu đồng/hộ/năm + %/năm – (10,70%) và 50 hộ ở TP. Long Xuyên (10,04%), 120 hộ ở huyện Thoại Sơn (20,06%). Cơ sở để phân tầng là theo địa hình thổ nhưỡng, theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn An Giang, toàn Tỉnh được chia thành bốn khu vực và mỗi khu vực có đặc tính riêng. Thứ nhất là vùng đồi núi (Tri Tôn, Tịnh Biên); thứ hai là thành thị (Châu Đốc, Châu Phú, Châu Thành, Long Xuyên); thứ ba là vùng cù lao (Chợ Mới, Phú Tân, Tân Châu, An Phú); thứ tư là đồng bằng (Thoại Sơn). Do đó, trong công tác phân tầng tác giả chọn mỗi vùng một hoặc hai địa điểm để khảo sát theo điều kiện thuận lợi của mình. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Số liệu thứ cấp về nông hộ được thu thập từ Ủy ban nhân dân, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Cục Thống kê tỉnh An Giang, các nghiên cứu công bố trên các tạp chí trong và ngoài nước. Các thông tin này dùng để mô tả về nông hộ nhằm nêu bật tính tất yếu về nông nghiệp, nông thôn và nông dân ở An Giang. Số liệu sơ cấp được thu thập theo phương pháp ngẫu nhiên phân tầng ở tỉnh An Giang. Mẫu khảo sát bao gồm 598 nông hộ, phân phối ở các địa phương trong Tỉnh như sau: 150 hộ ở huyện Tri Tôn (chiếm 25,08% số hộ được khảo sát), 130 hộ ở huyện Chợ Mới (21,74%), 74 hộ ở huyện Phú Tân (12,37%), 64 hộ ở thành phố Châu Đốc Trên cơ sở số liệu thu thập được, bài viết sử dụng phương pháp thống kê miêu tả để mô tả thực trạng của các nông hộ, sau đó sử dụng phương pháp 65 Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 63 - 69 Trường Đại học An Giang bình phương bé nhất (OLS) để ước lượng Mô hình (1) nhằm xác định ảnh hưởng của các yếu tố đến thu nhập của các nông hộ ở An Giang. của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và sự chuyển dịch lao động từ nông thôn ra thành thị. Nghề chính của nông hộ ở An Giang là trồng trọt và chăn nuôi, bên cạnh các hoạt động phi nông nghiệp dưới các hình thức như tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, buôn bán nhỏ, công nhân ở các khu công nghiệp địa phương, làm thuê hay viên chức (Niên giám thống kê tỉnh An Giang, 2013). 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1 Tổng quan về nông hộ Ở An Giang, nông hộ chiếm 73,56% tổng số hộ và có xu hướng giảm theo thời gian do tác động Bảng 2. Các chỉ tiêu cơ bản về nông hộ năm 2013 Tiêu chí Số thành viên hộ Thời gian sống tại địa phương Diện tích đất Tín dụng Khoảng cách Thu nhập bình quân ĐVT Trung bình Người 4,09 11,00 1,00 1,57 Năm 37,85 93,00 3,00 15,02 13.391 170.000 2,50 13.185 29,43 500,00 0,00 56,23 11,55 35,00 1,00 5,72 20,17 153,57 11,50 16,47 2 m Triệu đồng Km Trđ/người Lớn nhất Nhỏ nhất Độ lệch Số liệu khảo sát ở Bảng 2 cho thấy, số người trung bình trong hộ là 4, đây là số lượng tương đối chuẩn theo qui định của nhà nước (mỗi gia đình có 2 con) nhưng cũng còn một số hộ khá đông con và số hộ nhiều nhất là 11 người. Thời gian sống trung bình tại địa phương của nông hộ là 37 năm, điều này cho thấy người nông dân sống gắn liền với mảnh vườn, miếng ruộng nơi họ được sinh ra và do sống lâu năm ở địa phương nên cơ hội làm ăn, đầu tư để tạo ra thu nhập cho họ khá tốt. Đặc thù trong sản xuất nông nghiệp với phương thức sản xuất chủ yếu là đất nên khi tích lũy được thu nhập thì người dân sẽ đầu tư vào đất để canh tác nhằm tăng thêm thu nhập. Theo số liệu có được từ cuộc điều tra thì trung bình nông hộ có 13.191 m2 đất nông nghiệp và người có nhiều nhất là 170.000 m2. thu nhập bình quân đầu người của Tỉnh là 32,077 triệu đồng/người/năm. Tuy nhiên, thu nhập bình quân đầu người của nông hộ chỉ khoảng 20,17 triệu đồng/người/năm (bằng 62,88% thu nhập bình quân chung). Đối với nông hộ ở An Giang, thu nhập từ nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong tổng thu nhập, chứng tỏ khả năng đa dạng hóa nguồn thu nhập là chưa cao. Khoảng cách trung bình từ nhà của nông hộ đến trung tâm thị tứ (nơi đặt trụ sở của các tổ chức tín dụng) là 12 km, khoảng cách này là không đáng kể nếu ở thành thị nhưng đối với vùng nông thôn thì không phải thế. Cũng chính vậy, các hộ nông dân ít được tham gia vay vốn ở các tổ chức tín dụng. Cụ thể, số tiền mà nông hộ vay được ở các tổ chức tín dụng trung bình 29,43 triệu đồng/năm, từ đó làm cho thu nhập của nông hộ tương đối thấp so với các hộ làm việc trong các lĩnh vực khác. Theo kết quả khảo sát ở Bảng 3, hầu hết các nông hộ đều có tham gia vay vốn từ các nguồn tín dụng chính thức, bán chính thức lẫn phi chính thức. Đáng lưu ý là có đến 391 hộ vay tín dụng chính thức (chiếm 65,38% số hộ được khảo sát) dưới hai hình thức chủ yếu là vay và mua chịu vật tư do khi vào vụ hay có nhu cầu cấp bách mà không tiếp cận được tín dụng chính thức. Mặt khác, khi đến hạn trả nợ vay chính thức nhưng chưa kịp thu hoạch sản phẩm, nông hộ phải vay tín dụng phi chính thức để trả, sau đó mới làm thủ tục xin vay lại. Mặc dù những năm gần đây, Chính phủ đã chú trọng phát triển hệ thống tín dụng nông thôn, Bảng . Ngu n va của nông hộ Ngu n vay Theo số liệu từ cục thống kê An Giang, năm 2013 66 Thông tin vay Lãi suất bình quân Số hộ (hộ) Tỷ trọng (%) (%/năm) Chính thức Bán chính thức 391 27 65,38 4,52 17,8 8,6 Phi chính thức 295 49,33 41,3 Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 63 - 69 Trường Đại học An Giang đặc biệt là số lượng tổ chức tín dụng chính thức ngày càng nhiều, hình thức xét duyệt cho vay cũng dễ hơn nhưng nông hộ vẫn vay tín dụng phi chính thức bởi thủ tục đơn giản, nhanh chóng, không cần thế chấp, số tiền vay và kỳ hạn linh hoạt. Tuy nhiên, lãi suất phải trả khi vay tín dụng phi chính thức khá cao so với tín dụng chính thức hay bán chính thức. ở An Giang. Kết quả ước lượng được trình bày trong Bảng 5 Bảng 5. Kết quả ước lượng Biến phụ thuộc: THUNHAP – thu nhập của hộ (triệu đ ng/năm) Biến số Hằng số C Bảng 4. Rủi ro thường gặp của nông hộ ở An Giang Tiêu chí Giá sản phẩm thấp và không ổn định Mất mùa, dịch bệnh Thành viên trong gia đình ốm đau Thành viên trong gia đình bị mất việc làm Bị ảnh hưởng bởi thiên tai (lũ lụt, hạn hán, . . .) Tổng cộng Số quan sát 29 1 75 HOCVAN Tỷ trọng (%) DIENTICHDAT 48,66 TGCUTRU 12,54 LAODONG 87 14,55 VITRIXH 11 9 19,89 26 4,35 59 8 100,0 0 KNVAY KCDOTHI TINDUNG LAISUAT Số quan sát (N) Bảng 4 cho thấy các nông hộ gặp khá nhiều rủi ro trong sản xuất và đời sống, trong đó rủi ro lớn nhất là giá sản phẩm thấp và không ổn định 48,66%. Trong đó, trên 80% nông hộ có thói quen bán sản phẩm cho thương lái và chịu sự chi phối của thương lái về giá cả, số lượng và chất lượng sản phẩm. Chỉ có chưa đến 10% nông hộ tiêu thụ sản phẩm thông qua hợp tác xã và khoảng 8% nông hộ bán sản phẩm trực tiếp ở các chợ địa phương, chủ yếu là các hộ sống gần thị tứ, thị trấn, thị xã hay thành phố. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến thu nhập của nông hộ bởi nông sản là nguồn thu chính của hộ. Nông hộ càng bị thiệt thòi hơn khi thương lái vừa là người mua, vừa là người cung cấp thông tin giá cả nên nắm quyền ấn định giá. Tiếp theo là rủi ro do số thành viên trong gia đình bị mất việc làm chiếm 19,89% đa phần do các ngành nghề ở nông thôn làm theo thời vụ nên khi hết vụ mùa thì lao động nhàn rỗi. Thực tế này cho thấy, việc đa dạng hóa nguồn thu nhập sang lĩnh vực phi nông nghiệp để giảm thiểu rủi ro và đảm bảo thu nhập là hết sức cần thiết đối với nông hộ ở An Giang nói riêng và cả nước nói chung. Kế đến là rủi ro do mất mùa và dịch bệnh, ảnh hưởng đến 12,54% số nông hộ được khảo sát. R2 Hệ số β 13,185*** Giá trị P 0,000 2,478*** 0,000 0,001*** 0,000 3,840*** 0,000 -2,075*** 0,000 -0,411 0,704 -0,832 0,515 –0,177* 0,053 0,107*** 0,000 –0,128** 0,020 598 0,4604 R2 điều chỉnh 0,4521 Giá trị kiểm định mô hình 0,0000 Ghi chú: (**): có ý nghĩa ở mức 5%, (***): có ý nghĩa ở mức 1%, (*): có mức ý nghĩa 10%. Kết quả ước lượng cho thấy, mô hình có ý nghĩa rất cao (1%) và chỉ ra nhiều yếu tố có ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở An Giang. Đồng thời, mô hình cũng đã giải thích được 45,21% ý nghĩa sự biến động của biến độc lập lên biến phụ thuộc. Đầu tiên, biến HOCVAN có hệ số dương ở mức ý nghĩa 1%, cho thấy ảnh hưởng tích cực của trình độ học vấn của chủ hộ đến thu nhập của nông hộ. Tương tự, hệ số của biến DIENTICHDAT có giá trị dương ở mức ý nghĩa 1%, khẳng định tầm quan trọng của đất đai đối với thu nhập của nông hộ ở An Giang do tính thuần nông của các nông hộ ở đây. Biến LAODONG lại có hệ số âm ở mức ý nghĩa 1%. Đó là do, như vừa phân tích, nhiều lao động trong độ tuổi đi học nên không trực tiếp tạo ra thu nhập cho nông hộ. Ngoài ra, ở An Giang nói riêng và nước ta nói chung, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào thời vụ, đất canh tác ngày càng thu hẹp nên thời gian nhàn rỗi nhiều (ở nông thôn An Giang, có đến 28,9% thời gian lao động chưa 4.2 Kết quả nghiên cứu và thảo luận Bài viết sử dụng phương pháp bình phương bé nhất (OLS) để ước lượng Mô hình (1) nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập nông hộ 67 Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 63 - 69 Trường Đại học An Giang được sử dụng) (Cục thống kê An Giang), do đó lao động nhiều lại làm cho thu nhập bình quân đầu người của nông hộ càng thấp. nghiệp nhỏ và vừa ở các thị tứ, thị trấn hay các cụm tuyến dân cư (vượt lũ). Cần tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức của mọi người trong việc mỗi người cố gắng học lấy một nghề. Bên cạnh đó, cần đầu tư phát triển mạng lưới giao thông nông thôn, kết nối trung tâm hành chính xã, thị trấn, thị xã với nông hộ nhằm phục vụ cho việc vận chuyển sản phẩm dễ dàng và nhanh chóng đưa sản phẩm trực tiếp đến tay người tiêu dùng. Triển khai các biện pháp để hỗ trợ, tạo mối liên kết giữa nông hộ với doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức khoa học, hiệp hội ngành nghề,… trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tạo điều kiện để tổ hợp tác, hợp tác xã đổi mới nội dung hoạt động, mở rộng quy mô, ngành nghề sản xuất kinh doanh. Xây dựng các khu chợ nông thôn và chợ đầu mối ở các vùng và tiểu vùng sản xuất nông sản tập trung. Đồng thời, nhà nước cần hỗ trợ các tổ chức tín dụng có sự tham gia của nông dân (Quỹ tín dụng nhân dân, Hợp tác xã tín dụng, nhóm tiết kiệm của nông dân và các hình thức hỗ trợ vốn do các tổ chức đoàn thể lập ra,...) để hỗ trợ nông dân. Biến TGCUTRU có hệ số dương ở mức ý nghĩa 1%, ngụ ý rằng nếu thời gian sinh sống của hộ càng lâu ở địa phương thì thu nhập càng cao do có thể bán sản phẩm trực tiếp với giá cao hơn và dễ tìm được việc làm phi nông nghiệp. Biến KCDOTHI có hệ số âm ở mức ý nghĩa 10%, ngụ ý rằng nếu khoảng cách từ nơi ở của hộ đến đô thị càng gần thì thu nhập càng cao do có thể bán sản phẩm trực tiếp với giá cao hơn và dễ tìm được việc làm phi nông nghiệp. Biến TINDUNG có hệ số dương ở mức ý nghĩa 1%, cho thấy lượng vốn vay là yếu tố quan trọng đối với việc nâng cao thu nhập của nông hộ. Tuy nhiên, lãi suất vay cao sẽ làm tăng chi phí, giảm thu nhập của hộ nên biến LAISUAT có hệ số âm ở mức ý nghĩa 5%. 5. KẾT LUẬN Kết quả ước lượng cho thấy các yếu tố như trình độ học vấn, diện tích đất, thời gian sống tại địa phương, khoảng cách từ nơi ở đến đô thị, lượng vốn vay, lãi suất và số lao động có ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở An Giang. Kết quả cũng cho thấy nhiều lao động trong độ tuổi vẫn còn sống phụ thuộc, làm giảm thu nhập bình quân đầu người của hộ. Bên cạnh đó, nông hộ sống càng gần đô thị thì sẽ có cơ hội cải thiện thu nhập bởi có thể bán được sản phẩm trực tiếp với giá cao hơn trong khi chi phí vận chuyển, bảo quản thấp hơn, đồng thời có thể tham gia các hoạt động phi nông nghiệp để làm tăng thu nhập. Từ kết quả nghiên cứu và thực tế ở An Giang, nghiên cứu có một số khuyến nghị nhằm nâng cao thu nhập của nông hộ như sau: Ngân hàng Nhà nước cần triển khai thực hiện tốt Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn và các hướng dẫn thực hiện của ngân hàng Nhà nước Việt Nam về các hình thức cho vay tín chấp đối với nông nghiệp, nông thôn. Trong đó, cần quan tâm đến chính sách cho vay với kỳ hạn linh động hơn và thủ tục đơn giản hơn. Chính phủ cần xem xét việc chuyển tiền hỗ trợ mua lúa tạm trữ từ doanh nghiệp sang nông hộ để nông hộ có thêm vốn sản xuất, đầu tư phương tiện bảo quản sản phẩm và không bị ép giá bởi các trung gian (thương lái) hay đôi khi chính các doanh nghiệp. Đoàn thể cần phát huy vai trò của mình trong việc thành lập các quỹ hỗ trợ sản xuất, tổ (nhóm) vay vốn để hỗ trợ các thành viên trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nhà nước cần phát triển hệ thống trường lớp ở nông thôn với nhiều hình thức (thường xuyên, không thường xuyên, ngắn hạn,…) và có chính sách hỗ trợ, khuyến khích bà con nông dân (đặc biệt là các chủ hộ trẻ tuổi) đến học để nâng cao trình độ. Cần tạo việc làm cho họ thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, chú trọng những sản phẩm có giá trị cao và có tiềm năng xuất khẩu. Tạo điều kiện khôi phục và phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống ở nông thôn, phát triển các doanh Nông hộ cần tính toán đến việc tham gia mô hình Cánh đồng mẫu lớn để tăng cường khả năng tiêu thụ sản phẩm và tiếp cận tín dụng, qua đó giúp làm tăng thu nhập. TÀI LIỆU THAM KHẢO Abdulai, A. & CroleRees, A. (2001). Determinants of Income Diversification amongst Rural Households in Southern Mali. Food Policy 26, 437–452. 68 Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 63 - 69 Trường Đại học An Giang Demurger, S., Fournier, M. & Yang, W. (2010). Rural Households’ Decisions towards Income Diversification: Evidence from a Township in Northern China. China Economic Review 457, 1– 13. Ellis, F. (1998). Household Strategies and Rural Livelihood Diversification in Developing Countries. Journal of Agricultural Economics 51(2), 289–301. Ellis, F. (2000). Rural Livelihoods and Diversity in Developing Countries. Oxford University Press, Oxford, UK. Foster, A. & Rosenzweig, M. (1996). Technical Change and Human Capital Returns and Investments: Evidence from the Green Revolution. American Economic Review 86 (4), 931–953. Huỳnh Trường Huy & Lê Tấn Nghiêm. (2008). Thu nhập và đa dạng hóa thu nhập của nông hộ ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tài liệu Chương trình NPT/VNM/013 Cơ sở cho phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và nông hộ ở Đồng bằng sông Cửu Long. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục, tr. 169–184. Janvry, A.D. & Sadoulet, E. (2001). Income Strategies Among Rural Households in Mexico: The Role of Off-farm Activities. World Development 29(3), 467-480. Klasen, S., Priebe, J. & Rudolf, R. (2013). Cash Crop Choice and Income Dynamics in Rural Areas: Evidence for Post-crisis Indonesia. Agricultural Economics 44, 349–364. Lê Khương Ninh. (2011). Giải pháp hạn chế tín dụng phi chính thức ở nông thôn. Tạp chí Ngân hàng, 5, 52–57. Manjunatha, A. V., Anik, A. R., Speelman, S., & Nuppenau, E. A., (2013). Impact of Land Fragmentation, Farm Size, Land Ownership and Crop Diversity on Profit and Efficiency of Irrigated Farms in India. Land Use Policy 31, 397–405. Mink, S., Cao Thăng Bình., & Nguyễn Thế Dũng. (2004). Đa dạng hóa nông nghiệp ở Việt Nam. Tài liệu Hội thảo Quốc gia về đa dạng hóa nông nghiệp ở Việt Nam. Phan Đình Nghĩa. (2010). Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển tài chính trường hợp hộ gia đình Việt Nam. Tạp chí Công nghệ Ngân hàng 55, 16–20. Pitt, M., & Sumodiningrat, G. (1991). Risk, Schooling and the Choice of Seed Technology in Developing Countries: a Meta-profit Function Approach. International Economic Review 32, 457–473. Yang, D. (2004). Education and Allocative Efficiency: Household Income Growth during Rural Reforms in China. Journal of Development Economics 74, 137–162. Yu, J., & Zhu, G. (2013). How Uncertain Is Household Income in China. Economics Letters 120, 74–78. 69
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng