TIỂU LUẬN:
Các giải pháp hỗ trợ xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam
sang thị trường Mỹ
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá đang như một “guồng xoáy” cuốn các nền
kinh tế của các quốc gia vào một trật tự kinh tế trong đó việc tìm ra các lợi thế và giải
bài toán so sánh để xác lập vị thế trên trường quốc tế luôn là vấn đề đặt ra đối với từng
quốc gia. Bắt đầu từ thời kỳ đổi mới, Việt Nam đang từng bước thực hiện quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế hướng mạnh
vào xuất khẩu.
Như nhiều quốc gia khác, vào những giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp
hoá, ngành dệt may Việt Nam từng bước khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân. Bên cạnh việc cung cấp hàng hóa đáp ứng các nhu cầu cho thị trường trong
nước, ngành dệt may còn tạo điều kiện mở rộng thương mại quốc tế. Đồng thời, vừa là
nguồn thu hút lao động, giải quyết công ăn việc làm, vừa tạo nguồn hàng xuất khẩu có
giá trị cao, ngành dệt may sẽ là nguồn thu hút ngoại tệ góp phần tạo đà cho nền kinh tế
cất cánh.
Với tiềm năng của một quốc gia có lợi thế về xuất khẩu hàng dệt may, vấn đề
thâm nhập và phát triển các thị trường mới, có dung lượng tiêu thụ lớn hiện đang đặt ra
cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam những khó khăn và thách thức. Điểm lại một
số các thị trường lớn như Nhật Bản, EU, Đông Âu, có thể thấy hàng dệt may Việt Nam
đã có mặt và đang củng cố dần từng bước vị trí của mình. Tuy nhiên, hàng dệt may Việt
Nam đang gặp những khó khăn không nhỏ trong việc đẩy mạnh lượng hàng xuất khẩu
và để tìm được lối ra cho bài toán thị trường tiêu thụ thì hướng cần thiết nhất là khai
thác để thâm nhập các thị trường mới, trong đó Mỹ là một thị trường đầy hứa hẹn và có
tiềm năng nhất.
Tiềm năng hợp tác kinh tế – thương mại giữa Việt Nam và Mỹ là to lớn. Cùng
với việc ký kết Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, quan hệ thương mại giữa hai nước đã
bước sang trang mới. Vì vậy, việc xem xét khả năng thâm nhập của hàng dệt may vào
thị trường Mỹ – một thị trường có dung lượng tiêu thụ vào loại lớn nhất thế giới đã trở
nên rất cấp bách. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi sẽ có không ít khó khăn và thách
thức, đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam mà còn cần
có sự hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước để có thể tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu hàng
dệt may Việt Nam vào thị trường nhiều tiềm năng nhưng cũng lắm chông gai này.
Chính vì lý do đó, em đã lựa chọn đề tài: “Các giải pháp hỗ trợ xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ” làm đề tài nghiên cứu khoa học của
mình.
2. Mục đích nghiên cứu
-
Nghiên cứu những cơ sở chung của thị trường Mỹ và những vấn đề đặt ra cho hỗ
trợ xuất khẩu dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ.
-
Đánh giá thực trạng của các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
nói chung và xuất khẩu vào thị trường Mỹ nói riêng.
-
Đề xuất các giải pháp nhằm hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam vào thị trường Mỹ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-
Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may vào thị
trường Mỹ.
-
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài đứng trên giác độ ngành dệt may xuất khẩu để
nghiên cứu trong mối quan hệ với các chế định, chính sách vĩ mô của Nhà nước. Thời
gian nghiên cứu từ năm 1995 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, so
sánh, tổng hợp. Bằng cách phân tích lý giải tình hình và những thay đổi trong ngành dệt
may cùng những đánh giá và kết luận ban đầu về thị trường xuất khẩu tiềm năng, đề tài
luận giải những nội dung cần đề cập.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu
làm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về hỗ trợ nhập khẩu hàng dệt may
Chương II: Thực trạng của các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ hiện
nay
Chương III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ
những năm tới
Qua đề tài này, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo PGS.TS
Nguyễn Duy Bột – người đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học
này.
Chương I. Những vấn đề chung về hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may
1.1-Vị trí của hàng dệt may trong nền kinh tế quốc dân của nước ta
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, thực tế ghi nhận là dệt may
thường đóng một vai rất quan trọng tại hầu hết các nước đang phát triển với nguồn lực
có hạn và trình độ kỹ thuật còn hạn chế. Công nghiệp dệt may cũng là bước khởi đầu
cho các nước này để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá toàn bộ nền kinh tế. Công
nghệ của ngành dệt may thường được chuyển giao và áp dụng lại từ các nước phát triển
đi sau. Chính vì vậy, công nghệ này có thể tiếp cận rộng rãi và thu hút nhiều lao động.
Việt Nam cũng nằm trong xu thế dịch chuyển của công nghệ dệt may đã và đang diễn
ra.
Dệt may được coi là một trong những ngành có lợi thế nhất của Việt Nam, ngành
công nghiệp dệt may ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân,
vì nó không chỉ phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người mà còn là ngành giải quyết
nhiều việc làm cho lao động xã hội, có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy
kinh tế phát triển và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách nhà nước.
Thật vậy, trong 10 năm trở lại đây, ngành dệt may đã chứng tỏ là một ngành
công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế, có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vưc
xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân 24,8%/năm, vượt lên đứng vị trí thứ hai
trong cả nước về kim ngạch xuất khẩu, sau ngành dầu khí. Với sự phát triển mạnh mẽ
như vậy, ngành dệt may đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của
nước ta.
Ngành dệt may tham gia tạo vốn tích luỹ cho quá trình công nghiệp hoá: Đây
là ngành không đòi hỏi nhiều vốn, đồng thời có thể thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đó,
xuất khẩu hàng dệt may đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn để mua máy móc thiết bị hiện
đại, góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hoá trong sản xuất, làm cơ sở cho nền kinh tế
cất cánh.
Tăng cường mối quan hệ giữa nước ta và các nước khác: Là ngành xuất khẩu
mũi nhọn tại hơn 50 nước trên thế giới, ngành dệt may không chỉ giữ vai trò quan trọng
trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá đất nước mà với chiến lược kinh tế mở cửa,
hội nhập khu vực và quốc tế, ngành dệt may cũng đi đầu, mở đường cho mối liên kết
ngày càng sâu sắc giữa kinh tế nước ta và các nước khác trên thế giới. Hiện nay, các tổ
chức thương mại quốc tế đều có ưu đãi cho ngành dệt may, đặc biệt là ngành dệt may ở
các nước đang phát triển, hàng rào mậu dịch đối với sản phẩm thuộc ngành này được dỡ
bỏ hay nới lỏng rất nhiều.
Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động: Dệt may là ngành thu hút
nhiều lao động, tạo công ăn việc làm, góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp của nền
kinh tế. ở Việt Nam, toàn ngành công nghiệp dệt may đã thu hút trên 1 triệu lao động xã
hội, đặc biệt là lao động nữ. Ngành dệt may không chỉ phát triển thêm công ăn việc làm
trong ngành mà cả trong các ngành liên quan và phụ trợ khác như bao bì, bảo quản, cơ
khí, vận tải, kho, cảng..., nhờ đó thu nhập người lao động đã được cải thiện, tăng sức
mua, mở rộng thị trường trong nước. Cụ thể, năm 2000, ngành dệt may đã thu hút
1.374.000 lao động, con số này năm 2001 là 2.950.000 người, năm 2002 là 35.000.000
người.
Công nghiệp dệt may phát triển kéo theo và thúc đẩy sự phát triển của ngành
công nghiệp khác: Sự phát triển của ngành dệt may sẽ tạo điều kiện cho rất nhiều
ngành khác phát triển, trong đó có các ngành cung cấp nguyên vật liệu và ngành sử
dụng sản phẩm của ngành dệt may. Hiện nay, công nghiệp dệt may đang góp phần phát
triển nông nghiệp và nông thôn qua phát triển sản xuất bông, đay, tơ, tằm, từng bước
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp.
Đóng góp vào việc cải thiện cán cân thương mại: Với nỗ lực khắc phục điểm
yếu kém để vươn lên, ngành công nghiệp dệt may không chỉ giữ vai trò trọng yếu trong
xuất khẩu mà còn đóng góp đáng kể vào việc cải thiện cán cân thương mại của nước ta
và tăng nhanh đầu tư nước ngoài. Tầm quan trọng này còn được thể hiện càng rõ nét ở
tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của hàng dệt may Việt Nam.
Bảng 1: Giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
(Đơn vị: Triệu USD)
Năm
Kim ngạch xuất khẩu hàng
Tổng kim ngạch xuất khẩu
Tỉ trọng/tổng số
dệt may
1992
211
2.581
8.1%
1993
350
2.985
11.7%
1994
550
4.054
13.6%
1995
750
5.200
14.4%
1996
1.150
7.255
15.2%
1997
1.349
8.759
15.4%
1998
1.351
9.361
14.4%
1999
1.682
11.532
14.6%
2000
1.892
14.455
13.08%
2001
2.000
15.100
13.25%
2002
2.750
16.926
16.3%
(Nguồn: Bộ Thương mại và Tổng công ty Dệt May Việt Nam)
Tóm lại, với đường lối mở cửa và hội nhập quốc tế cùng với sư chuyển dịch
dòng vốn trên đầu tư và chuyển giao công nghệ đang diễn ra khá sôi động, ngành dệt
may nói chung và xuất khẩu hàng dệt may nói riêng đã, đang và sẽ có nhiều đóng góp
hiệu quả cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước, xứng đáng là một trong
những ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam.
1.2-Nội dung hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may
1.2.1-Thực chất của hỗ trợ xuất khẩu
Xuất khẩu là một cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh đem lại lợi
nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu
ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Chính vì vai trò quan
trọng như vậy nên làm thế nào để thúc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu luôn được đặt ra
đối với cả phía Nhà nước và doanh nghiệp.
Để đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi sự nỗ lực, phối hợp của cả hai phía: Nhà nước và
doanh nghiệp. Về phía các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, các biện pháp họ đề ra
mang tầm vi mô. Các biện pháp này là để nhằm phục vụ cho chính doanh nghiệp của
họ, có thể là tập trung vào quá trình sản xuất, cũng có thể là tập trung vào hoạt động tiêu
thụ sản phẩm... Nói một cách ngắn gọn, chính họ đang tự giúp họ để có thể đứng vững
trên thương trường quốc tế. Còn về phía Nhà nước, các biện pháp được thực hiện là để
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu của mình, các biện pháp này gọi là các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu.
Như vậy, thực chất của hỗ trợ xuất khẩu là một hệ thống các biện pháp mà Nhà
nước thực hiện nhằm tạo ra một môi trường vĩ mô thuận lợi cho các doanh nghiệp đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu của mình. Những biện pháp hỗ trợ xuất khẩu không chỉ liên
quan tới một hay một số doanh nghiệp nhất định nào đó, mà nó liên quan tới tất cả các
doanh nghiệp trong phạm vi biện pháp đó điều chỉnh. Nó giải quyết những vấn đề mà
không một doanh nghiệp nào có thể tự mình giải quyết được. Nếu thiếu đi những biện
pháp hỗ trợ xuất khẩu đó của Nhà nước, các doanh nghiệp sẽ gặp phải nhiều khó khăn
khi tham gia hoạt động thương mại quốc tế với các nước khác.
Đối với những quốc gia xây dựng chiến lược hướng về xuất khẩu kết hợp với
thay thế nhập khẩu như chúng ta hiện nay, những doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu
hàng hoá sẽ được tạo điều kiện phát triển bằng nhiều chính sách hỗ trợ khác nhau như:
chính sách xuất khẩu, chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách tài chính – tín dụng,
chính sách thuế... Điều này sẽ tạo điều kiện giúp cho doanh nghiệp có thể tăng kim
ngạch xuất khẩu.
1.2.2-Những công cụ hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may
Trong quá trình đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng thị trường nhằm đạt được mục
tiêu đề ra, ngành dệt may gặp phải không ít khó khăn mà chỉ bản thân ngành không thể
giải quyết nổi, đó là vấn đề vốn đầu tư, thông tin xuất nhập khẩu và thị trường, các mối
quan hệ thương mại quốc tế. Do vậy, ngành dệt may rất cần các biện pháp hỗ trợ của
Chính phủ.
1.2.2.1-Nhóm công cụ hỗ trợ sản xuất
a/ Chính sách đầu tư phát triển
Không chỉ trong ngành dệt may mà trong hoạt động của tất cả các ngành khác
luôn luôn cần đến đầu tư. Có đầu tư thì có đổi mới, không đầu tư thì không bao giờ có
đổi mới. Chính vì vậy, chính sách đầu tư phát triển luôn là một trong những chính sách
quan trọng nhất, thúc đẩy sự tăng trưởng mạnh của nền kinh tế nói chung và của ngành
dệt may nói riêng.
Để phát triển nhanh và có hiệu quả, ngành dệt may cần lượng vốn đầu tư vào các
mục tiêu sau đây:
-
Đổi mới công nghệ, trước hết là công nghệ dệt và đồng bộ hoá dây chuyền sản
xuất toàn ngành, khắc phục các khâu yếu nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các trang thiết
bị.
-
Mở rộng quy mô sản xuất trên cơ sở các doanh nghiệp hiện có và xây dựng thêm
doanh nghiệp mới.
-
Phát triển các loại sản xuất phục vụ và phụ trợ cho doanh nghiệp dệt may: tạo vùng
nguyên liệu, sản xuất các vật liệu phụ cho công nghiệp dệt (hoá chất, thuốc nhuộm, sản
xuất các loại phụ liệu cho công nghiệp may mặc).
Bên cạnh những khoản đầu tư trực tiếp thì còn cần những khoản đầu tư vào các
mục tiêu có tính chất gián tiếp khác như phát triển cơ khí dệt may, phát triển và hiện đại
hoá hạ tầng kỹ thuật cho công nghiệp dệt may...
Để huy động được nguồn vốn có khả năng đáp ứng được nhu cầu của ngành dệt
may, chính sách đầu tư phát triển của Nhà nước tập trung vào 3 nguồn vốn chủ yếu sau:
-
Nguồn vốn trong nước: đây là nguồn vốn rất quan trọng, giúp chúng ta luôn chủ
động được trong các kế hoạch phát triển của mình. Bên cạnh đó, nó làm giảm bớt sự bất
ổn định và phụ thuộc vào các nguồn vốn từ các khoản đầu tư của nước ngoài.
-
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài: Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của mối quan hệ đối
ngoại của nước ta với các nuớc khác trên thế giới, các doanh nghiệp và tổ chức nước
ngoài đang đầu tư ngày càng nhiều vào các ngành kinh tế của Việt Nam. Nguồn vốn
trong nước là quan trọng nhưng không thể là đủ được đối với những chương trình phát
triển lớn, do vậy thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một chính sách đặc biệt quan
trọng trong việc phát triển ngành công nghiệp dệt may.
-
Nguồn vốn của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế: Hiện nay nguồn vốn
này không còn nhiều như trước kia, nhưng nếu có các biệp pháp thu hút tốt, chúng ta có
thể nhận được sự giúp đỡ từ các tổ chức này.
b/ Chính sách nguyên phụ liệu
Trong sản xuất dệt may, nguyên liệu đóng vai trò quan trọng và có ảnh hưởng
quyết định đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất. Ngành dệt may Việt Nam sử
dụng các nguyên liệu chính là: bông xơ, xơ sợi tổng hợp, len, đay, tơ tằm xơliber khác,
các loại hoá chất cơ bản khác và thuốc nhuộm..., trong đó quan trọng nhất là bông xơ và
xơ sợi tổng hợp. Chính vì vai trò quan trọng như vậy nên Nhà nước cần phải có chính
sách phát triển nguyên liệu và phụ liệu cho ngành dệt may một cách đúng đắn, hợp lý,
đảm bảo cho ngành dệt may Việt Nam phát triển mạnh.
Chính sách về nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành dệt may của Nhà nước chủ
yếu tập trung vào những vấn đề:
-
Phát triển các vùng trồng bông, trồng dâu nuôi tằm và công tác thu hoạch để chế
biến.
-
Hỗ trợ nhập khẩu các loại hoá chất, thuốc nhuộm, thuốc trợ nhuộm.
-
Phát triển các công ty sản xuất nguyên phụ liệu trong nước.
c/ Chính sách về khoa học công nghệ
Ngành dệt may, cũng như các ngành kinh tế khác, đều phát triển trên sơ sở khoa
học công nghệ. Việc đầu tư đổi mới công nghệ cũng như đổi mới trang thiết bị sẽ giúp
tạo ra được các sản phẩm phù hợp với thị trường và đáp ứng được các đòi hỏi về số
lượng, chất lượng, mẫu mã của khách hàng. Trong giai đoạn hiện nay, khoa học công
nghệ nói chung và phát triển công nghệ trong ngành dệt may nói riêng của nước ta chưa
thực sự phát triển, điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm dệt may
của nước ta. Do vậy, trong số các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đối với ngành công
nghiệp dệt may thì luôn phải có chính sách về công nghệ.
Chính sách phát triển khoa học công nghệ trong ngành dệt may chủ yếu tập trung
vào những vấn đề sau:
-
Hỗ trợ xây dựng và phát triển các Viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm, trường
đào tạo... về dệt may.
-
Xây dựng các chiến lược nghiên cứu và triển khai các dự án công nghệ dệt may.
-
Khuyến khích việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ mới trong dệt may.
d/ Chính sách về lao động và phát triển
Dệt may là ngành công nghiệp sản xuất cần nhiều nhân công, đặc biệt là trong kỹ
nghệ may. Để tăng giá trị đóng góp cho sản phẩm, các chủ doanh nghiệp cần gia tăng
giá trị công nghiệp bằng cách phát triển các khâu ban đầu như tạo mẫu hay cắt vải và
khâu chót như Marketing hay có những liên kết mật thiết với kỹ nghệ dệt để cung cấp
nguyên phụ liệu cho kỹ nghệ may. Cả hai khâu quan trọng (đầu và cuối) tạo ra phần lớn
giá trị gia tăng cho sản phẩm, phụ thuộc vào yếu tố con người nhiều hơn yếu tố vật chất.
Chính vì vậy, làm thế nào để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành dệt may
luôn là vấn đề được Nhà nước đặc biệt quan tâm.
Chính sách về lao động và phát triển của Nhà nước đối với ngành dệt may tập
trung vào những vấn đề sau:
-
Các chính sách thu hút, khuyến khích học sinh theo học ngành công nghiệp dệt
may
-
Đầu tư cơ sở hạ tầng cho các cơ sở đào tạo dệt may
-
Định hướng cho các chương trình đào tạo công nhân, kỹ sư... về dệt may
-
Chính sách hỗ trợ người lao động để đảm bảo cuộc sống và công việc của họ, thúc
đẩy họ cống hiến cho sự phát triển của ngành
e/ Chính sách về tổ chức quản lý
Bất kỳ một hoạt động kinh tế nào cũng đều cần có sự quản lý của Nhà nước, đặc
biệt là hoạt động xuất nhập khẩu bởi vì xuất nhập khẩu là lĩnh vực rất phức tạp, nó
không chỉ liên quan đến một nước mà liên quan đến những nước khác có quan hệ
thương mại với nhau. Vì vậy, tổ chức quản lý xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu
dệt may nói riêng rất được Nhà nước ta coi trọng.
Trong chính sách về tổ chức quản lý hoạt động xuất khẩu dệt may, Nhà nước ta
tập trung vào việc tạo ra một môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp dệt may cũng
như các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia hoạt động kinh doanh. Đồng thời, Nhà
nước còn quan tâm đến việc xây dựng các chương trình, thành lập các tổ chức để có thể
quản lý tốt hoạt động xuất khẩu của ngành dệt may. Bên cạnh đó là chủ trương tổ chức,
sắp xếp các doanh nghiệp dệt may trên cả nước theo hướng làm sao để có thể phát huy
một cách tốt nhất tiềm năng của mình, thúc đẩy ngành dệt may nước nhà phát triển bền
vững.
1.2.2.2-Nhóm công cụ hỗ trợ hoạt động tiêu thụ sản phẩm
a/ Chính sách thuế quan
Thuế quan, gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu là một công cụ quản lý vĩ mô
rất quan trọng của Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Một chính sách thuế
quan tốt sẽ bảo hộ được sản xuất trong nước và thúc đẩy xuất khẩu ra thị trường thế
giới. Đồng thời, chính sách thuế quan được áp dụng thống nhất sẽ từng bước bảo đảm
sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần phục vụ có hiệu quả chủ
trương giải phóng mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh
tế hợp lý giữa các ngành nghề, giữa các địa phương, các vùng, giữa thị trường trong và
ngoài nước, từ đó thúc đẩy xuất khẩu.
Chính sách thuế quan hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu
hàng dệt may nói riêng tập trung vào việc miễn thuế, giảm thuế và hoàn lại thuế. Để có
thể khuyến khích xuất khẩu, Nhà nước cần phải quy định thật chi tiết, dựa trên những
căn cứ rõ ràng, mặt hàng nào được miễn, giảm hoặc hoàn lại thuế. Chính sách thuế quan
đối với ngành dệt may không chỉ quy định về thuế xuất nhập khẩu đối với mặt hàng dệt
may, mà còn đưa ra các quy định về thuế quan đối với các hàng hoá liên quan đến việc
sản xuất hàng dệt may như: máy móc thiết bị, nguyên phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm...
b/ Chính sách thị trường
Hoạt động Marketing đặc biệt quan trọng đối với sản phẩm dệt may do đặc điểm
của nhóm hàng này là yêu cầu cao về sự phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội, văn hoá, xu
hướng thời trang. Đã có nhiều doanh nghiệp quan tâm tới vấn đề này nhưng các hoạt
động tìm hiểu thị trường thường vượt quá khả năng tài chính của các doanh nghiệp. Vì
vậy, chính sách thị trường của Nhà nước để cung cấp thông tin thị trường cho các doanh
nghiệp dệt may là hết sức cần thiết.
Chính sách thị trường tập trung vào việc hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may trong
cả nước tiếp cận được với thị trường thế giới, có được những thông tin về thị trường,
điều kiện pháp lý, văn hoá... khi xâm nhập vào các thị trường này. Đồng thời, chính
sách thị trường phải làm sao để có thể tư vấn tốt nhất cho doanh nghiệp để thâm nhập
thành công thị trường nước ngoài.
c/ Chính sách tỷ giá hối đoái
Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động thương mại quốc tế là đồng tiền thanh toán
là ngoại tệ đối với ít nhất một trong hai bên nên bất kỳ sự thay đổi tỷ giá trao đổi ngoại
tệ nào cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của mỗi quốc gia. Sự thay đổi
tỷ giá hối đoái làm cho hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu đắt hơn hay rẻ hơn đối với
nước kia làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Ngoài ra, với mức tỷ
giá hối đoái ưu đãi còn có khả năng thu hút vốn đầu tư đổ vào trong nước. Vì vậy, một
quốc gia có thể dùng chính sách tỷ giá hối đoái để quản lý hoạt động xuất nhập khẩu và
thu hút vốn đầu tư.
Tùy vào tình hình kinh tế của mỗi quốc gia mà các nước thực hiện các chế độ tỷ
giá khác nhau để đạt được mục tiêu kinh tế, chính trị. Cụ thể có các chế độ tỷ giá sau:
-
Tỷ giá hối đoái cố định: Là mức tỷ giá được Chính phủ thông qua Ngân hàng
Trung ương đồng ý mua vào hay bán ra lượng đồng tiền nào đó theo yêu cầu của các đối
tượng khác nhau để trao đổi lại một mức tỷ giá hối đoái không đổi.
-
Tỷ giá hối đoái thả nổi: Là tỷ giá hối đoái được thả nổi tự do không có sự can thiệp
nào của Chính phủ của thị trường ngoại hối. Chính phủ không tăng thêm hay giảm bớt
lượng dự trữ ngoại hối. Và mối quan hệ giữa cung và cầu ngoại hối hoàn toàn quyết
định mức cân bằng tỷ giá hối đoái.
-
Chế độ đa tỷ giá: Với việc áp dụng chế độ này thì có nhiều tỷ giá hối đoái cùng lúc
được áp dụng trong nền kinh tế. Đối với một số mặt hàng thì áp dụng tỷ giá hối đoái cao
và ngược lại. Chế độ này có tác dụng như một loại thuế nhập khẩu đặc biệt, làm tiền
thưởng xuất khẩu, làm công cụ cho chính sách bảo hộ mậu dịch và trong trường hợp
nào đó làm tăng thu nhập ngân sách Nhà nước qua thu thuế bán ngoại hối.
Để có thể hỗ trợ cho ngành dệt may tăng cường hoạt động xuất khẩu, Nhà nước
đã luôn nghiên cứu để xây dựng một chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với những đặc
trưng của ngành công nghiệp này. Sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái nào cho hợp lý là tuỳ
thuộc vào những thời điểm nhất định.
d/ Chính sách tín dụng và trợ cấp xuất khẩu
Là những ưu đãi tài chính mà Nhà nước dành cho người xuất khẩu khi họ bán
được hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Mục đích của sự trợ cấp xuất khẩu là giúp nhà
xuất khẩu tăng thu nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và do đó
đẩy mạnh được xuất khẩu. Có hai loại trợ cấp xuất khẩu: gián tiếp và trực tiếp.
-
Trợ cấp trực tiếp như: áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu, miễn
hoặc giảm thuế đối với các nhà xuất khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu... Cho các nhà
xuất khẩu được hưởng các giá ưu đãi các đầu vào sản xuất hàng xuất khẩu như điện,
nước, vận tải, thông tin liên lạc, trợ giá xuất khẩu.
-
Trợ cấp gián tiếp như: dùng ngân sách Nhà nước để giới thiệu, triển lãm, quảng cáo,
tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch xuất khẩu. Hoặc Nhà nước giúp đỡ kỹ thuật và
đào tạo chuyên gia.
Mức độ trợ cấp phụ thuộc vào:
-
Chính sách của Nhà nước đối với từng mặt hàng
-
Mức độ cạnh tranh trên thị trường
Xu hướng chung hiện nay trợ cấp xuất khẩu vẫn còn được sử dụng rộng rãi. Trợ
cấp xuất khẩu trực tiếp có xu hướng bị thu hẹp do sự đấu tranh giữa các Chính phủ có
quan hệ buôn bán với nhau. Ngược lại, trợ cấp gián tiếp ngày càng tăng lên và thường
được che dấu.
1.3-Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may
Nhìn chung thì có hai nhóm nhân tố ảnh hưởng đến các chính sách hỗ trợ xuất
khẩu hàng dệt may, đó là nhóm nhân tố thuộc bản thân ngành dệt may và nhóm nhân tố
từ phía Nhà nước.
1.3.1-Các yếu tố thuộc ngành dệt may
a/ Năng lực của ngành dệt may
Nói đến các chính sách hỗ trợ là nói đến những việc mà tự bản thân mình, không
một doanh nghiệp nào có thể làm nổi hoặc những việc mà chỉ có cơ quan của Nhà nước
mới có thể giải quyết được. Chính vì vậy, nếu ngành có đủ năng lực thì Nhà nước không
cần phải hỗ trợ nhiều và ngược lại.
Như vậy, năng lực của ngành dệt may quyết định rất lớn đến các chính sách hỗ
trợ xuất khẩu hàng dệt may. Nếu năng lực của ngành quá yếu thì Nhà nước cần phải làm
rất nhiều việc để có thể thúc đẩy ngành này phát triển. Ngược lại, nếu năng lực đủ mạnh
thì công việc của Nhà nước sẽ giảm đi rất nhiều.
b/ Tiềm năng phát triển của ngành
Nhà nước không thể đưa ra các chính sách để hỗ trợ xuất khẩu cho một ngành mà
bản thân nó không có khả năng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Vì vậy, các chính
sách hỗ trợ xuất khẩu còn phụ thuộc vào tiềm năng phát triển của ngành.
Chúng ta đều biết rằng, dệt may là một trong 5 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
nước ta, điều này tác động mạnh đến các chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Nghĩa là Nhà
nước sẽ quan tâm hỗ trợ nhiều hơn đến hoạt động xuất khẩu của ngành này.
c/ Mục tiêu, chiến lược xuất khẩu của ngành
Nếu ngành dệt may đề ra mục tiêu, chiến lược xuất khẩu cho giai đoạn sắp
tới càng cao thì trách nhiệm của Nhà nước nhìn chung sẽ lớn hơn để hỗ trợ cho
ngành đạt được những mục tiêu đó, đặc biệt là khi năng lực của ngành còn thấp.
1.3.2-Các yếu tố từ phía Nhà nước
a/ Chính sách của Nhà nước đối với ngành dệt may
Chính sách của Nhà nước đối với ngành dệt may thể hiện ở chỗ Nhà nước có
khuyến khích ngành dệt may phát triển hay không. Nếu ngành dệt may được Nhà nước
khuyến khích phát triển thì chắc chắn, Nhà nước sẽ có nhiều các chính sách để hỗ trợ
cho ngành này phát triển và ngược lại.
b/ Ngân sách của Nhà nước
Ngân sách của Nhà nước không phải là vô hạn, đặc biệt là ở một nước mà nền
kinh tế chưa thực sự phát triển như nước ta. Do vậy, Nhà nước không thể làm được tất
cả những gì mà đáng ra cần phải làm để hỗ trợ cho ngành. Điều này có nghĩa là tuỳ vào
ngân sách trong từng giai đoạn mà Nhà nước sẽ có những chính sách hỗ trợ phù hợp cho
ngành dệt may xuất khẩu.
Chương II. Thực trạng của các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may sang
Mỹ hiện nay
2.1-Tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ trong thời gian qua
2.1.1-Đặc điểm của thị trường Mỹ có ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng dệt may của
Việt Nam
2.1.1.1-Đặc điểm của thị trường hàng dệt may Mỹ
Dung lượng thị trường
Đối với ngành dệt may, những tiêu chuẩn của một thị trường lý tưởng là dân số
đông, thu nhập quốc dân cao, xu hướng thời trang phát triển mạnh. Có thể nói, thị
trường Hoa Kỳ hội tụ khá đầy đủ các lợi thế này. Với dân số khoảng 279 triệu người, tỷ
lệ dân sống ở thành thị cao (trên 75%), thu nhập quốc dân tính trên đầu người trên
30.000 USD/người/năm, Hoa Kỳ trở thành một trong những quốc gia nhập khẩu hàng
dệt may lớn nhất thế giới. Nền kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng ổn định trong thập niên 90
càng làm tăng niềm tin của người tiêu dùng, đồng thời duy trì tiêu dùng ở mức độ cao.
Mức tiêu thụ hàng dệt may ở Hoa Kỳ trong giai đoạn vừa qua luôn luôn tăng,
năm sau luôn cao hơn năm trước từ 10 – 15%. Người Hoa Kỳ dành khá nhiều thời gian
cho việc mua sắm quần áo. Trung bình 1 năm, mỗi người dân Hoa Kỳ sẽ đi mua quần
áo khoảng 22 lần. So sánh với Đông Âu – 14 lần, Châu á - 13 lần, Mêhicô - 10 lần và
Châu Mỹ la tinh – 8 lần mới thấy hết nhu cầu về may mặc ở Hoa Kỳ đang dẫn đầu thế
giới. Tổng chi phí dành cho việc mua sắm quần áo của người Hoa Kỳ trong một năm
khoảng 1,044 tỷ USD, đứng thứ tư trên thế giới, sau Đức, Hồng Kông, Anh. Đây được
coi là tín hiệu tốt đối với các nước xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ. Hơn nữa, Hoa Kỳ
còn là một quốc gia đa chủng tộc với nhiều màu da khác nhau, nhiều phong tục và lối
sống đa dạng. Điều này càng khiến thị trường Hoa Kỳ trở thành một trung tâm tiêu thụ
lớn nhất trên thế giới.
Đặc điểm tiêu dùng hàng dệt may trên thị trường Mỹ
Mức chi tiêu, đặc điểm nhân khẩu học, sự thay đổi thói quen làm việc, gia tăng
nhập khẩu là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến xu hướng tiêu dùng hàng may
mặc trên thị trường Mỹ.
-
Mức chi tiêu: Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng ổn định trong thập kỷ 90 đã duy
trì tiêu dùng ở mức cao. Tuy trong thời gian gần đây, nền kinh tế Mỹ có những dấu hiệu
suy giảm, nhưng mức chi tiêu nói chung và mức chi tiêu cho hàng may mặc nói riêng
của người dân Mỹ vẫn ở mức cao. Đây chính là tín hiệu tốt đối với các nước xuất khẩu
hàng dệt may.
-
Đặc điểm nhân khẩu học: Thanh thiếu niên Mỹ ngày nay – thế hệ con cái
của những người sinh ra trong thời kỳ bùng nổ dân số 1946 – 1964 đang nhanh chóng
trở thành những người tiêu dùng. Trong 10 năm tới, dự đoán số lượng thanh thiếu niên
sẽ tăng nhanh hơn tốc độ tăng dân số. Lứa tuổi thanh thiếu niên ngày nay có thu nhập
cao hơn và chi tiêu nhiều hơn trước đây, tỷ lệ dành cho mua sắm quần áo cũng rất lớn.
Lứa tuổi này rất chú trọng đến những loại quần áo hợp thời trang và “đồ hiệu”. Đồng
thời, họ cũng nhanh chóng thích ứng với hoạt động xúc tiến thương mại trên Internet,
tạo ra những cơ hội cho các công ty bán hàng qua Internet.
Lứa tuổi từ 45 trở lên chiếm 34% tổng dân số, dự đoán sẽ tăng lên 38% vào năm
2005 và 41% vào năm 2010. Những người thuộc lứa tuổi này có xu hướng dành tỷ lệ
chi tiêu lớn hơn cho mua nhà, chi phí học đại học của con cái và các khoản tiết kiệm. Sự
cắt giảm chi tiêu cho quần áo buộc họ phải tìm kiếm những sản phẩm vừa đáp ứng được
những giá trị mà họ mong muốn vừa phù hợp với khoản tiền dự định chi tiêu. Mặc dù
vậy, họ vẫn là nhóm người chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng mức tiêu thụ quần áo. Sự
gia tăng số lượng người ở lứa tuổi 65 trở lên cũng là một dấu hiệu tốt cho nhà sản xuất
hàng may mặc. Nhóm người này ít quan tâm đến thời trang và chú ý nhiều hơn đến sự
thoải mái và tiện dụng, phù hợp với lối sống và hoạt động của họ.
-
Thay đổi thói quen làm việc: Một xu hướng đang làm thay đổi nhu cầu về
hàng dệt may là người tiêu dùng ít đến cửa hàng hơn trước vì công việc bận rộn và họ
thích dành thời gian nghỉ ngơi, ở nhà với gia đình hoặc bạn bè. Xu hướng này sẽ tạo cơ
hội cho các nhà sản xuất mặt hàng trang trí nội thất như rèm, thảm... song đó lại là điều
bất lợi cho các nhà sản xuất quần áo. Đồng thời, nó cũng khiến cho việc mua quần áo
mới không còn quan trọng đối với một số người và làm tăng thị phần của các loại quần
áo và hàng trang trí bán qua thư và Internet.
Một yếu tố nữa phải kể đến là sự thay đổi các quy định trong công sở và thói
quen làm việc. Ngày càng có nhiều công ty chấp nhận cho nhân viên mặc quần áo tự do
thay vì đồng phục. Cùng với sự gia tăng số lượng người làm việc tại nhà cũng tạo ra sự
thay đổi trong ngành sản xuất quần áo. Xu hướng mặc quần áo theo phong cách tự do đã
làm tăng nhu cầu đối với quần áo thường, sơ mi ngắn tay mặc thường, áo thun. Xu
hướng này dự báo là sẽ còn tiếp tục phát triển trong những năm tới.
-
Gia tăng sản phẩm nhập khẩu: Giá cả và chất lượng là những yếu tố quyết
định khi mua quần áo và điều này dẫn đến sức ép về giá đối với ngành dệt may của Mỹ.
Giá bán buôn quần áo chỉ tăng 20% trong suốt giai đoạn 1996 – 2001, trong khi đó, giá
bán lẻ hạ 3%. Đặc biệt là giá bán lẻ quần áo dành cho nữ giảm rất mạnh. Kết quả làm
hàng dệt may nhập khẩu từ các nước có chi phí nhân công thấp tăng lên và làm dịch
chuyển sản xuất của các công ty Mỹ ra nước ngoài. Người tiêu dùng có xu hướng mua
sắm hàng dệt may nhập khẩu có giá thấp và độ tiện dụng cao.
Dự báo tiêu dùng hàng dệt may trên thị trường Mỹ
-
Thói quen tiêu dùng: Cũng như các sản phẩm khác, mặt hàng dệt may bao
gồm hai thuộc tính: giá trị sử dụng vào giá trị. Vì vậy, chất lượng và giá cả trở thành
những vấn đề quan trọng đối với người tiêu dùng khi họ quyết định mua hàng.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, sản phẩm chỉ có thể khẳng định
vị trí và năng lực cạnh tranh của mình bằng chính chất lượng. Người tiêu dùng sẽ bị
thuyết phục không chỉ bởi tên tuổi của các nhà sản xuất nổi tiếng, quan trọng hơn là giá
trị và hiệu quả kinh tế do sản phẩm đem lại. Những đặc tính cơ bản ảnh hưởng đến chất
lượng hàng dệt may bao gồm: sự vừa vặn về kích cỡ, độ bền, sự tiện lợi khi sử dụng,
kiểu dáng và nhãn mác.
- Xem thêm -