Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Biến đổi trong lễ hội sayangva của tộc người châu ro ở huyện châu đức tỉnh bà rị...

Tài liệu Biến đổi trong lễ hội sayangva của tộc người châu ro ở huyện châu đức tỉnh bà rịa vũng tàu trong bối cảnh hiện nay

.PDF
112
689
69

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH THỊ PHÚC BIẾN ĐỔI TRONG LỄ HỘI SAYANGVA CỦA TỘC NGƢỜI CHÂU RO Ở HUYỆN CHÂU ĐỨC TỈNH BÀ RỊA- VŨNG TÀU TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 60 31 06 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HOC PGS. TS. NGUYỄN THỊ PHƢƠNG CHÂM HÀ NỘI, 2017 LỜI CẢM ƠN Được sự hỗ trợ tận tình của bạn bè, cơ quan và sự nỗ lực của bản thân, qua thời gian học tập, tìm hiểu và nghiên cứu nghiêm túc tôi đã hoàn thành luận văn “Biến đổi trong lễ hội SaYangVa của tộc người Châu Ro ở huyện Châu Đức tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu trong bối cảnh hiện nay". Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó Giáo sư- Tiến sĩ Nguyễn Thị Phương Châm, cô đã trực tiếp hướng dẫn khoa học và định hướng cho tôi những vấn đề trọng tâm của đề tài từ lúc xây dựng đề cương cho đến khi hoàn thành luận văn này. Đồng thời, tôi cũng chân thành cảm ơn quý thầy, cô khoa Văn hóa học, Học Viện khoa học xã hội, cán bộ Viện Văn hóa, lãnh đạo Ban Tôn giáo, Dân tộc tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, lãnh đạo huyện Châu Đức, các cô chú, anh chị người Châu Ro trong tỉnh và bạn bè đã hỗ trợ, cung cấp thông tin trong quá trình tôi nghiên cứu và thực hiện đề tài. Trong quá trình thực hiện đề tài, với tinh thần nghiêm túc tôi đã cố gắng và chủ động trong việc tiếp cận địa bàn nghiên cứu, tìm hiểu thông tin từ nhiều nguồn và kế thừa các công trình nghiên cứu đi trước. Tuy nhiên, do điều kiện thời gian và khả năng của bản thân có những hạn chế nhất định, nên có thể chưa làm rõ hết tất cả các nội dung có liên quan. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy, cô và các bạn. Xin chân thành cảm ơn! Bà Rịa- Vũng Tàu, tháng 02 năm 2017 Tác giả Huỳnh Thị Phúc LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn cao học chuyên ngành Văn hóa học với đề tài “Biến đổi trong lễ hội SaYangVa của tộc ngƣời Châu Ro ở huyện Châu Đức tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong bối cảnh hiện nay” là kết quả nghiên cứu bằng chính công sức và nỗ lực của tôi, các thông tin được sử dụng trong luận văn này là trung thực, các ghi chú và thông tin được trích dẫn có ghi chú nguồn cụ thể và đáng tin cậy. Tác giả Huỳnh Thị Phúc MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU....... ........ ...7 1.1. Cơ sở lý luận… ......................................................................................... ...7 1.2. Địa bàn nghiên cứu ................................................................................... .12 CHƢƠNG 2. LỄ HỘI SAYANGVA TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI .26 2.1. Lễ hội SaYangVa truyền thống ................................................................ ..26 2.2. Những biến đổi trong lễ hội SaYangVa hiện nay… ................................ ..36 CHƢƠNG 3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ SỰ BIẾN ĐỔI TRONG LỄ HỘI SAYANGVA HIỆN NAY. .................................................................... .53 3.1. Các nhân tố tác động đến sự biến đổi trong lễ hội SaYangVa ................. .53 3.2. Giao lưu văn hóa ..................................................................................... ...64 3.3. Vai trò của lễ hội SaYangVa trong đời sống tộc người Châu Ro ............. .66 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO… ........................................................................ ..76 PHỤ LỤC ............................................................................................. …........80 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Từ/ cụm từ viết tắt Từ/ cụm từ viết đầy đủ 1 BR-VT Bà Rịa- Vũng Tàu 2 CP Chính phủ 3 CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 4 ĐH Đại học 5 CT, NĐ Chỉ thị, Nghị định 6 Nxb Nhà xuất bản 7 PGS Phó Giáo sư 8 QĐ Quyết định 9 TS Tiến sĩ 10 TTg Thủ Tướng 11 Tp HCM Thành phố Hồ Chí Minh 12 VHTT&DL Văn hóa thể thao và Du lịch BẢNG PHỤ LỤC Phụ lục 1: Bản đồ cư trú và văn hóa của tộc người Châu Ro, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Phụ lục 2: Một số hình ảnh về đời sống văn hóa và lễ hội SaYangVa của tộc người Châu Ro ở Châu Đức, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Phụ lục 3: Các số liệu có liên quan đến tộc người Châu Ro ở Châu Đức, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Phụ lục 4: Danh sách những người cung cấp thông tin. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, Châu Ro là một tộc người thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Môn Khơ-me, sống rải rác ở miền núi Nam Đông Dương và chủ yếu là các tỉnh miền Đông Nam bộ, trong đó tập trung ở tỉnh Đồng Nai, Bà RịaVũng Tàu…Cũng như đồng bào Châu Ro đang sinh sống ở những vùng đất khác, với tư cách là cư dân bản địa ở BR-VT, bên cạnh việc lưu giữ các nét văn hóa về ăn, mặc, ở và các phong tục tập quán của tộc người, với suy nghĩ vạn vật đều có linh hồn nên người Châu Ro nơi đây có niềm tin và tôn thờ các Thần linh (Yang) gắn với các hiện tượng thiên nhiên, sự vật gần gũi với cuộc sống của họ như Thần Lúa (YangVa), Thần Rừng (YangVri), Thần Nhà (YangNhi)... Nói đến tín ngưỡng dân gian của tộc người Châu Ro là nói đến lễ hội dân gian vì đó là những lễ hội mang đậm dấu ấn của tín ngưỡng đa thần gắn liền với cuộc sống và môi trường thiên nhiên của tộc người này. Trong đó, lễ hội SaYangVa là một trong hai lễ hội lớn có sự kết hợp giữa gia đình với cộng đồng xã hội, mang ý nghĩa giáo dục truyền thống, tạo dựng nên nét văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc, góp phần vào sự đa dạng của văn hoá Việt Nam. Nhưng từ giữa thế kỷ XX cho đến nay lễ hội SaYangVa của tộc người Châu Ro ở huyện Châu Đức, tỉnh BR- VT đã có những thay đổi nhất định vì nhiều yếu tố khác nhau như: đặc thù về địa lý, đặc điểm ngôn ngữ, CNH, HĐH, tốc độ đô thị hoá nông thôn, sự giao lưu mạnh mẽ với văn hoá của các tộc người thiểu số khác và người Kinh ở cùng địa phương, những chính sách phát triển kinh tế xã hội, những ảnh hưởng xuất phát từ mong muốn chủ quan của nhà quản lý trong việc ban hành, thực thi chính sách, lựa chọn phương pháp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá tộc người chưa phù hợp…tất cả điều đó ít nhiều đã làm cho truyền thống văn hoá độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc như lễ hội YangVa của người Châu Ro ngày càng bị biến đổi. Trước thực trạng và xu hướng biến đổi văn hoá trong các tộc người thiểu số, mà cụ thể là biến đổi trong thực hành lễ hội SaYangVa của người Châu Ro tại tỉnh BR- VT trong điều kiện hội nhập và phát triển hiện nay, tôi chọn đề tài “Biến đổi trong lễ hội SaYangVa của tộc ngƣời Châu Ro ở huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa- 1 Vũng Tàu trong bối cảnh hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp lớp cao học chuyên ngành Văn hoá học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về lễ hội là nghiên cứu loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian mang tính cộng đồng với những phong tục tập quán, hệ thống biểu tượng nhằm hiện thực hóa thế giới ý niệm về đời sống tâm linh bằng các nghi thức của cộng đồng hay tộc người đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước thực hiện từ rất sớm. Tuy có nhiều quan điểm khác nhau, từ những góc độ tiếp cận khác nhau về văn hóa dân gian, lễ hội dân gian và biến đổi trong lễ hội. Nhưng các công trình nghiên cứu từ trước đến nay đã có những đóng góp đáng kể, đặt nền móng và cung cấp thông tin cho những nghiên cứu sau này về các vấn đề có liên quan đến văn hóa, lễ hội. Các công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian của Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, Ngô Đức Thịnh, Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng, Chu Xuân Diên... đã đóng góp nhiều công sức trong nghiên cứu và đã đưa ra quan điểm về văn hóa dân gian như là một chỉnh thể nguyên hợp. Trong các công trình này, thuật ngữ lễ hội dân gian được dùng như là một thuật ngữ khoa học và được hiểu là một hiện tượng văn hóa dân gian mang tính chất tổng thể với các khía cạnh vật chất, tinh thần, tôn giáo tín ngưỡng và văn hóa nghệ thuật, linh thiêng và đời thường…tất cả đều có sự gắn kết với nhau. Theo các tác giả, lễ hội được hình thành trên cơ sở cốt lõi của nghi lễ, tín ngưỡng với lễ là phần chủ đạo còn hội là tái sinh, tích hợp trong thế giới thiêng liêng. Vì thế, để hiểu mối quan hệ hữu cơ giữa chúng với nhau cũng như giữa lễ hội với thực tại xã hội, có cách nhìn về sự biến đổi của lễ hội là tất yếu cùng với sự biến đổi của xã hội theo dòng thời gian và các nhân tố tác động khác nên phương pháp luận thường được dùng trong việc nghiên cứu lễ hội là phương pháp hệ thống tổng thể để. Đáng chú ý là công trình nghiên cứu về Tín ngưỡng dân gian và văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, Ngô Đức Thịnh đã khái quát một số vấn đề cơ bản về các hình thức tín ngưỡng dân gian, trong đó có phác họa một số nét về tín ngưỡng của các tộc người và phân tích một cách khá toàn diện về tín ngưỡng dân gian bao gồm cả lễ hội cổ truyền với những đặc trưng của nó cũng như những giá trị của lễ hội cổ truyền trong đời sống hiện nay cùng với những vấn đề khác có liên quan đến lễ hội. Hay Từ một cái nhìn tổng thể về lễ hội, khi nói đến phương pháp luận nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng đã chỉ ra rằng có thể tiếp cận lễ hội bằng 2 nhiều cách thức từ nghiệm sinh và miêu tả đến quan sát và miêu tả, nhưng nên chú ý đến bối cảnh sinh thái nhân văn xã hội và cố nhiên phải có sự kết hợp cái nhìn sinh thái với cái nhìn tiến hóa vì ông cho rằng lễ hội có biến dạng (từ “biến dạng” này có thể có hàm ý nói đến sự biến đổi chăng). Nhóm tác giả Lê Hồng Lý, Nguyễn Thị Phương Châm khi bàn về lễ hội và những biến đổi của lễ hội trong Giáo trình lễ hội dân gian và một số công trình khác, đều có sự quan tâm đến lễ hội dân gian, một hiện tượng văn hóa lâu đời trong lịch sử văn hóa dân tộc do nhân dân tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, tín ngưỡng của họ và đương nhiên. Cũng như những hiện tượng văn hóa khác, trải qua thời gian của lịch sử với những đổi thay của xã hội, lễ hội dân gian cũng không phải là bất biến mà có những thay đổi theo tác động của kinh tế, sinh thái tự nhiên, biến động dân cư, truyền thông. Riêng với việc nghiên cứu về văn hóa dân gian, lễ hội, tín ngưỡng của người Châu Ro tính từ sau năm 1986 đến nay do các tác giả trong nước thực hiện có sự phát triển với những công trình đã được công bố trên các tạp chí, các hội nghị khoa học, các nhà nghiên cứu đã bước đầu nghiên cứu về người Châu Ro trên các lĩnh vực như: tín ngưỡng dân gian, văn nghệ dân gian, nhà ở, trang phục, ngành nghề thủ công...nổi bật như: cuốn sách Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam thế kỷ XX do Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành vào năm 2000 đã giới thiệu về người Châu Ro với vai trò là dân tộc bản địa ở hai tỉnh Đồng Nai và BR-VT. Hay Người Châu Ro ở Đồng Nai của tác giả Huỳnh Văn Tới là tác phẩm nghiên cứu chuyên sâu về người Châu Ro trên địa bàn của tỉnh Đồng Nai. Tác phẩm Múa dân gian tộc người Mạ, Chơ ro, X’tiêng vùng Đông Nam bộ do Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội phát hành năm 2004 của tác giả Nguyễn Thành Đức đã nghiên cứu chuyên sâu về múa dân gian của người Châu Ro vùng Đông Nam bộ, trong đó có người Châu Ro ở BRVT. Các bài viết của tác giả Lâm Nhân và một số tác giả khác đã trình bày tổng quan về dân số, phân bố dân cư, những phương thức canh tác cổ truyền, cấu trúc xã hội, gia đình, tục lệ của người Châu Ro. Nhìn chung, bằng các phương pháp tiếp cận và các mục đích nghiên cứu khác nhau nhưng những công trình nghiên cứu về văn hoá của tộc người Châu Ro, đã khảo tả chi tiết, cung cấp nhiều thông tin bổ ích về người Châu Ro ở miền Đông Nam bộ. Trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả Huỳnh Văn Tới, Lâm Nhân, Phan Đình Dũng…đều cho rằng 3 người Châu Ro ở khu vực này có tín ngưỡng đa thần, với hệ thống thần linh vô cùng phong phú như: Thần Rừng, Thần Nhà...dù cách gọi tên có khác nhau vì âm tiết của từng nơi khác nhau, đặc biệt là Thần Lúa và tín ngưỡng thờ Thần Lúa với lễ hội mừng lúa mới được coi như là một nét đặc trưng của văn hóa Châu Ro. Còn ở BR-VT cũng có một vài bài viết về tộc người Châu Ro, văn hóa dân gian và lễ hội như: Nghiên cứu về âm nhạc dân gian của người Châu Ro ở tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu của tác giả Võ Lê, Đêm hội của đồng bào Châu Ro của tác giả Ngân Thương và một vài bài viết khác đăng trên báo và website của địa phương nhưng mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu khái quát văn hoá, lễ hội của tộc người mà chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về lễ hội SaYangVa và những biến đổi trong thực hành văn hóa dân gian của người Châu Ro tại tỉnh BR-VT trong giai đoạn hiện nay một cách hệ thống dưới góc nhìn khoa học. Sau khi tìm hiểu các nguồn tài liệu để thực hiện luận văn này, trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu của những người đi trước, chúng tôi nhận thấy những thành tựu từ các nghiên cứu, các bài viết về người Châu Ro, đặc biệt là tín ngưỡng thờ Thần Lúa- YangVa cùng với lễ hội SaYangVa là nguồn tài liệu vô cùng quý và là cơ sở để tác giả có thể tìm hiểu được kỹ lưỡng hơn về sự biến đổi của lễ hội SaYangVa hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Qua việc tìm hiểu lễ hội SaYangVa truyền thống và thực trạng biến đổi hiện nay của lễ hội này, luận văn hướng đến việc phân tích những nhân tố tác động đến sự biến đổi của lễ hội SaYangVa của người Châu Ro và những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi trong lễ hội này trong giai đoạn hiện nay. Luận văn đặt ra nhiệm vụ: cơ sở lý luận về lễ hội và biến đổi của lễ hội; Miêu tả lễ hội SaYangVa trong truyền thống và thực trạng biến đổi của lễ hội hiện nay; Phân tích những nhân tố tác động đến lễ hội; Bàn luận những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của lễ hội SaYangVa trong bối cảnh hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Từ việc chọn đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự biến đổi trong lễ hội SaYangVa của tộc người Châu Ro, tác giả xác định phạm vi nghiên cứu theo phân chia địa giới hành chính là huyện Châu Đức, tỉnh BR- VT- địa bàn có số nhân khẩu là người Châu Ro đang sinh sống đông nhất của tỉnh. Ngoài ra, tác giả cũng tiến 4 hành khảo sát thêm một số nơi có đồng bào Châu Ro cư trú như: xã Long Tân (huyện Đất Đỏ) và xã Hắc Dịch (huyện Tân Thành), đây là những nơi mà lễ hội SaYangVa còn tồn tại nhưng có những biến đổi rõ nét. Trong đó, chọn địa bàn nghiên cứu chính là các xã Bàu Chinh, thị trấn Ngãi Giao, xã Bình Trung, xã Đá Bạc thuộc huyện Châu Đức. Mốc thời gian nghiên cứu sự biến đổi trong lễ hội SaYangVa trong khoảng thời gian từ năm 1986 đến nay, trong đó có sự đối chiếu với lễ hội SaYangVa truyền thống. Sở dĩ, tác giả chọn khoảng thời gian từ năm 1986 đến nay là vì đây là khoảng thời gian mà tình hình kinh tế, chính trị, xã hội tại các địa phương trong cả nước nói chung, trong đó có tỉnh BR- VT nói riêng có sự ảnh hưởng tương đối lớn từ những tác động của chính sách đổi mới đất nước và cũng là giai đoạn mà đất nước ta thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Để có thể phản ánh một cách tổng quát, khách quan về các đặc điểm của môi trường xã hội, không gian văn hoá, đặc trưng văn hoá của người Châu Ro, lễ hội SaYangVa và những vấn đề có liên quan đến sự biến đổi trong lễ hội, luận văn này được thực hiện theo hướng tiếp cận nhân học, văn hóa học và chọn phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu thứ cấp, điền dã dân tộc học làm phương pháp chủ yếu. Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu thứ cấp được tác giả sử dụng ngay từ khi bắt đầu có ý tưởng thực hiện đề tài “Biến đổi trong lễ hội SaYangVa của người Châu Ro ở huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu”. Với những kiến thức và hiểu biết của những người đi trước qua các tài liệu chuyên ngành, các văn bản của các cơ quan, các bài viết của nhiều tác giả về những nội dung có liên quan đến địa bàn nghiên cứu, tộc người, lễ hội, biến đổi trong lễ hội, tín ngưỡng và văn hóa dân gian…đã giúp cho tác giả được tiếp cận một cách đa diện về các vấn đề có liên quan đến lễ hội, biến đổi trong lễ hội, cũng như giúp tác giả hiểu được vấn đề biến đổi lễ hội đã được nghiên cứu từ trước đến nay và từ đó, xác định các nội dung nghiên cứu trong luận văn của mình. Với phương pháp điền dã dân tộc học, thông qua các hoạt động quan sát tham gia, thực hiện phỏng vấn sâu khi tác giả trò chuyện với những người Châu Ro cao tuổi, những người tham gia vào các hoạt động văn hoá của cộng đồng Châu Ro, những người có vị trí quan trọng khi tham gia thực hành các nghi lễ trong lễ hội 5 SaYangVa tại các địa bàn nghiên cứu và các em thanh thiếu niên Châu Ro đang học ở trường Dân tộc nội trú; tham khảo ý kiến những người đã từng nghiên cứu về tộc người Châu Ro. Đây là phương pháp quan trọng giúp cho tác giả đã thu thập được những thông tin thực tế về cuộc sống, cách nghĩ, cách thực hành văn hóa, lễ hội của người Châu Ro. Từ đó, luận văn cố gắng trả lời câu hỏi: lễ hội SaYangVa của người Châu Ro đã biến đổi như thế nào, nhân tố nào đã tác động đến sự biến đổi đó và những vấn đề gì đặt ra từ sự biến đổi ấy. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện luận văn tác giả còn sử dụng các thao tác như: phân tích, tổng hợp và so sánh để có được hệ thống các phương pháp và thao tác khoa học tốt nhất phục vụ cho các vấn đề nghiên cứu trong luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn sẽ bổ sung nguồn tài liệu về văn hóa dân gian của tộc người Châu Ro, trong đó bao gồm lễ hội SaYangVa và tập trung nghiên cứu, phân tích các nguyên nhân biến đổi trong thực hành lễ hội SaYangVa của người Châu Ro tại huyện Châu Đức cũng như làm rõ những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của lễ hội YangVa trong bối cảnh hiện nay. Điều này không chỉ có ý nghĩa với người Châu Ro ở một địa bàn mà còn có ý nghĩa với cộng đồng người Châu Ro tại tỉnh BR-VT. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là nguồn tham khảo cho nhà quản lý tại địa phương trong việc xây dựng, triển khai và giải quyết các chính sách về kinh tế, văn hóa, xã hội có liên quan đến người Châu Ro, đặc biệt là các quy chế liên quan đến lễ hội một cách phù hợp nhằm bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống của người Châu Ro tại huyện Châu Đức cũng như các địa bàn khác tại BR- VT trong sự đa dạng văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn được trình bày trong 3 chương, gồm: Chương 1: Cơ sở lý luận và địa bàn nghiên cứu. Chương 2: Lễ hội SaYangVa truyền thống và biến đổi. Chương 3: Những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi trong lễ hội SaYangVa hiện nay. 6 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở lý luận Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi không có ý định thực hiện một công trình chuyên sâu về lý luận để làm rõ các khái niệm về lễ hội và biến đổi văn hóa mà trên cơ sở lý luận về văn hóa đã được nghiên cứu nhằm hướng đến việc sử dụng khái niệm như là công cụ để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu về lễ hội dân gian và những biến đổi trong lễ hội SaYangVa của tộc người Châu Ro ở huyện Châu Đức, tỉnh BR- VT trong bối cảnh hiện nay. 1.1.1. Khái niệm lễ hội Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về lễ hội- một trong những thành tố cấu thành văn hóa, theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam Wikipedia, Lễ hội là sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng. "Lễ" là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. "Hội" là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống1. Trong công trình nghiên cứu Lễ hội truyền thống của người Việt ở đồng bằng sông Cửu Long vấn đề bảo tồn và phát huy, Nguyễn Xuân Hồng khẳng định “Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hóa tổng hợp, phản ánh những đặc trưng văn hóa tộc người được tiến hành định kỳ ở một địa điểm, thời gian nhất định nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của các thành viên trong cộng đồng” [40, tr.12] theo đó, lễ hội thể hiện sự đoàn kết, hòa hợp vì ước nguyện cho sự phồn vinh, mang tính cộng đồng sâu sắc. Từ Đôi điều suy nghĩ lý luận về lễ hội Nguyễn Duy Hinh đưa ra quan niệm “Lễ hội không phải là mê tín dị đoan mà là cách ứng xử thông minh của con người với những sức mạnh vô hình; là một hiện tượng văn hóa tổng hợp nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm lý, tâm linh, vật chất; là hoạt động văn hóa không thể thiếu của con người” [20, tr.231]. Theo Hoàng Nam, “Lễ hội là một sinh hoạt tập thể, sinh hoạt tinh thần của cộng đồng mà dân tộc nào cũng có lễ hội riêng của dân tộc mình, phản 1 Trang Wikipedia tiếng Việt- https://vi.m.wikipedia.org, truy cập ngày 05/01/2017. 7 ánh nhận thức liên quan đến tập quán sản xuất, đến các hoạt động tập thể của cộng đồng, cư dân trồng trọt thì thường tổ chức lễ hội có liên quan đến gieo trồng, đến cầu mùa, đến thu hoạch”[21, tr.23]. Với Đinh Văn Hạnh và Phan An thì Lễ hội là một thuật ngữ gồm hai thành tố là Lễ và Hội, ở đó Lễ là những hành vi, những nghi thức trong các sinh hoạt đặc biệt của cộng đồng, là phần “thiêng”, có ý nghĩa khác với đời thường; Hội là sự tụ tập của nhiều người để thực hiện sinh hoạt tập thể có cùng một cảm nhận, một mục đích. Lễ thiên về đời sống tâm linh, về đạo; Hội thiên về đời thường, về rèn luyện thân thể, nghề nghiệp, giải trí, vui chơi [41, tr. 49]. Còn trong công trình nghiên cứu Tìm hiểu lễ hội Hà Nội, Lê Hồng Lý cho rằng: lễ hội là một sự kiện trọng đại của một cộng đồng cư dân tập trung nhau lại để tưởng niệm một hay nhiều vị thần; tiến hành những nghi lễ, phong tục nhằm bày tỏ lòng ngưỡng mộ tới các vị thần và cầu mong họ tiếp tục giúp đỡ họ trong năm mới. Theo tác giả những nghi lễ đó được tiến hành kèm theo những lễ vật được cộng đồng quý trọng nhất dâng lên các thần linh bằng các nghi thức tế lễ có nhạc, múa hay ca xướng phụ họa…Bên cạnh những nghi lễ là các cuộc vui chơi, ăn uống cộng cảm của cộng đồng, đồng thời là dịp để cố kết cộng đồng xung quanh một vị thần chung của cộng đồng...[ 44 ]. Các quan niệm về lễ hội như trình bày ở trên đều có ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn trong nghiên cứu về văn hóa dân gian và lễ hội dân gian nhưng trong giới hạn của đề tài này tác giả chọn định nghĩa mang tính bao quát mà giáo trình Lễ hội dân gian do nhóm tác giả Lê Trung Vũ, Lê Hồng Lý, Nguyễn Thị Phương Châm biên soạn, cũng như những kiến thức mà các giảng viên đã truyền đạt trong bài giảng môn Lễ hội cho học viên Cao học ngành Văn hóa học: Lễ hội là tấm gương phản chiếu đời sống văn hóa của mỗi dân tộc, là một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể, là một hình thức diễn xướng tâm linh là sản phẩm văn hóa quần chúng của một cộng đồng làng hay nhiều làng cùng thờ một vị thần nào đó. Việc phụng thờ đó ở một vị trí nhất định và vào một thời gian nhất định trong năm người ta tiến hành những nghi thức tập thể như tế, lễ, rước, sau đó là các hoạt động vui chơi, ăn uống cộng cảm nhằm cố kết cộng đồng và giải tỏa mọi sự căng thẳng, củng cố niềm tin và sức mạnh cho mỗi thành viên. 8 Tiếp cận những công trình của các nhóm tác giả nghiên cứu về Dân tộc học, Văn hóa học, từ những góc nhìn khác nhau cho chúng tôi thấy rằng về mặt lý luận, lễ hội truyền thống là hệ thống các biểu tượng nhằm hiện thực hóa thế giới ý niệm về đời sống tâm linh của nhân dân thông qua các thực hành văn hóa, lễ nghi mang đậm nét văn hóa của cộng đồng do chính cộng đồng ấy sáng tạo. Lễ hội không chỉ để thỏa mãn nhu cầu tâm linh, mà còn là nơi cố kết cộng đồng, gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa của cộng đồng ấy. Hay như nhận định của Võ Văn Thành “Thực chất lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức tế lễ và trò diễn, đó là cuộc sống lao động và chiến đấu của cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, bản thân cuộc sống không thể trở thành lễ hội được nếu như chính nó không được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế giới tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng vượt lên trên cả thế giới của phương tiện và điều kiện tất yếu; đó là thế giới, là cuộc sống thứ hai thoát ly tạm thời thực tại, đạt tới hiện thực lý tưởng mà ở đó mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ…”2. Về bản chất lễ hội dân gian hay lễ hội cổ truyền là hiện tượng văn hóa dân gian mang tính tổng thể, là một hình thức diễn xướng tâm linh được diễn ra trong không gian sản sinh ra lễ hội, trong “thời điểm mạnh” có ý nghĩa thiêng liêng. Lễ hội biểu hiện cho sự cố kết cộng đồng trong sự “cộng cảm” và “cộng mệnh” của cộng đồng đó nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh cũng như ước vọng vươn tới sự hòa đồng giữa con người với thiên nhiên và hướng về cội nguồn, được cùng nhau vui chơi sau một thời gian dài lao động vất vả. Như vậy, có thể nói rằng lễ hội truyền thống là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống con người, đặc biệt là đối với những người dân trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam có cuộc sống gắn liền với làng quê và nền kinh tế nông nghiệp truyền thống. 1.1.2. Biến đổi văn hóa Văn hóa là một trong những khái niệm đa dạng và trừu tượng nhất, luôn gây ra sự tranh cãi bởi nội hàm đa nghĩa của nó. Để nói đến khái niệm biến đổi văn hóa, chúng tôi xin đề cập thêm định nghĩa về văn hóa theo nội hàm rộng của Ferraro Garry: văn hóa được xem là tất cả những gì con người có, con người nghĩ và con 2 Bài Một vài nhận thức về lễ hội cộng đồng, Lễ hội cộng đồng truyền thống và biến đổi, NXB ĐH Quốc gia Tp HCM, 2014, sđd, tr.50. 9 người làm với tư cách là những thành viên của xã hội. Những gì con người có bao gồm các hiện vật vật chất như trang phục, nhà cửa, công cụ sản xuất...; Những gì con người nghĩ bao hàm các yếu tố ẩn, nằm trong suy nghĩ của con người như niềm tin tôn giáo, triết lý sống, thế giới quan...; Những gì con người làm là các khuôn mẫu hành vi ứng xử mà chúng ta quan sát được như các thực hành văn hóa trong đời sống, lễ hội…Trong một nền văn hóa cả ba thành tố có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mỗi thành tố đều có giá trị, chức năng của nó trong tổng thể của nền văn hóa mà nó tồn tại nhưng trong đó thành tố nghĩ đóng vai trò hết sức quan trọng, chi phối hai thành tố còn lại, trong các thuộc tính cơ bản của văn hóa, có hai thuộc tính đáng chú ý là thích ứng và biến đổi khi bàn về nói đến sự biến đổi trong văn hóa3. Và văn hóa vừa là biểu hiện của sự thích ứng của con người với bối cảnh sống của họ, vừa là một tập hợp những bối cảnh mà con người phải thích nghi”4. Theo quy luật của vận động và phát triển thì mọi sự vật, hiện tượng không hề tĩnh tại mà là sự biến đổi không ngừng bởi nội tại của bản thân sự vật, hiện tượng ấy nhưng có khi sự vận động, biến đổi do các tác nhân bên ngoài. Với các nhà văn hóa học, biến đổi văn hóa được hiểu là quá trình vận động của tất cả các xã hội, với sự đa dạng (bao gồm nguyên nhân, quá trình và kết quả) với những tác nhân tạo nên sự biến đổi nhìn từ trong hệ thống và ngoài hệ thống, đa chiều và nhiều cấp độ, tùy thuộc vào việc cộng đồng đó là trung tâm, ngoại vi hay vùng chuyển tiếp và môi trường, sự chuyên môn hóa của cộng đồng đó là gì. Biến đổi văn hóa bao hàm những sự chia sẻ, những biến đổi tương đối lâu dài của những mô hình ứng xử và niềm tin văn hóa. Ở khía cạnh lịch sử, xã hội nào cũng biểu lộ sự biến đổi, cũng trộn lẫn những tiếp nối và biến đổi [36, tr.10, tr.11]. Khi nói phát triển là quy luật tất yếu của bất cứ xã hội nào và nó kèm theo những sự biến đổi trong đó bao gồm cả biến đổi văn hóa và nó được xem là vấn đề cốt lõi thì biến đổi văn hóa cũng có thể được hiểu là quá trình vận động của tất cả xã hội được đặt trong sự ảnh hưởng mạnh mẽ của những xã hội đã, đang có những sự chuyển đổi5. 3 TS Hoàng Cầm truyền đạt trong bài giảng môn Dân tộc học và nhân học văn hóa cho học viên Cao học ngành Văn hóa học. 4 Quan điểm của Charles Keyes được nhóm tác giả Lê Hồng Lý, Đào Thế Đức, Nguyễn Thị Hiền, Hoàng Cầm đã dẫn trong bài viết nghiên cứu- Thảo luận: Vai trò của văn hóa trong việc bảo tồn di sản… 5 Trích Biến đổi văn hóa: Những tiền đề lý thuyết và thực tiễn của PGS.TS Nguyễn Thị Phương Châm . 10 Chính vì thế, khi nghiên cứu sự biến đổi văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa, CNH, HĐH là để nhìn nhận thực trạng của biến đổi cũng như xem xét những vấn đề được đặt ra từ sự biến đổi ấy một cách khách quan, khoa học và đa chiều, có chú ý đến tính thích ứng và tính biến đổi của văn hóa. Trong đó, thích nghi không chỉ được xem như là một đặc tính sinh học của các loài vật trong môi trường khi tự “xây dựng và hình thành cơ chế” thích ứng với môi trường xung quanh mà đó cũng còn là cách mà con người tùy vào điều kiện của môi trường để người ta chọn lựa cho mình phương thức sống để giúp họ thích ứng và tồn tại, cũng như từ trong điều kiện của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội cụ thể mà sáng tạo ra các thực hành văn hóa tương ứng. Điển hình như tộc người Châu Ro cũng như một số tộc người thiểu số khác có cùng đặc điểm sinh sống ở các khu vực miền núi phía Nam trong môi trường tự nhiên có đặc thù là sườn đồi không phù hợp với việc trồng lúa nước, nên đã sáng tạo ra hệ thống canh tác nương rẫy với các giống lúa nương/ lúa trồng trên cạn chứ không phải là lúa nước, mùa vụ phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và thời tiết của vùng miền là mưa- nắng và các công cụ lao động phù hợp với địa hình để họ thích ứng và tồn tại trong môi trường đó với những thực hành văn hóa riêng có của tộc người gắn với môi trường tự nhiên, xã hội, phương thức sản xuất. Nhưng khi môi trường thay đổi thì phương thức sản xuất, các thực hành văn hóa cũng thay đổi để thích ứng với điều kiện mới. Từ tính thích ứng của văn hóa cũng hàm ý chỉ ra rằng, các thành tố của nền văn hóa này có thể sẽ không phù hợp hay không thích ứng với nền văn hóa khác và ngược lại cho nên không thể nói rằng phương thức sản xuất, đời sống của người Châu Ro còn lạc hậu hay nghèo nàn khi so sánh với môi trường sống và lao động của các tộc người khác trong đó có người Kinh với phương thức sản xuất trong môi trường khác. Từ đó có thể nhìn nhận những biến đổi trong các thực hành văn hóa của tộc người hay cộng đồng một cách khách quan hơn. Có thể xem biến đổi như là một cách để thích nghi mặc dù có sự kế tục, được trao truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác thông qua quá trình văn hóa hóa (học văn hóa), song văn hóa của mỗi nhóm người hay tộc người không tĩnh tại mà biến đổi không ngừng. Sự biến đổi của các thực hành văn hóa cơ bản được diễn ra thông qua sự giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hóa khác. Trong quá trình giao lưu, tiếp xúc này chủ nhân của các nền văn hóa 11 lựa chọn, tiếp biến các thành tố văn hóa từ các truyền thống văn hóa khác, làm cho văn hóa của tộc người của mình biến đổi và thích ứng với bối cảnh tự nhiên, kinh tế và xã hội trong điều kiện mới. Văn hóa luôn có hai tầng là tầng “ẩn” và tầng “hiện”, trong quá trình biến đổi, các thành tố văn hóa “hiện” như văn hóa vật chất, bao gồm trang phục, đồ dùng sinh hoạt…thường có xu hướng biến đổi nhanh hơn các thành tố văn hóa “ẩn”, chiều sâu của văn hóa, nằm sâu trong tiềm thức của mỗi con người, dân tộc như văn hóa tinh thần gồm niềm tin, tôn giáo, tín ngưỡng...nhưng dù là ở “tầng ẩn” hay “tầng hiện” thì văn hóa cũng như các hiện tượng khác không nằm ngoài sự vận động và biến đổi, nhưng biến đổi nhanh hay chậm, nhiều hay ít…còn tùy thuộc vào những nhân tố tác động vào nó và nếu “tầng hiện” có thể bị thay đổi, mất đi nhưng “tầng ẩn” dù có thay đổi thì cũng không mất đi mà nó sẽ quay trở lại khi có điều kiện thuận lợi. Như vậy, nếu nhìn nhận văn hóa và biến đổi văn hóa từ cách tiếp cận như nêu trên trong sự kết nối thì không có một thực hành văn hóa hay phong tục, tập quán nào là lạc hậu hay thừa vì mỗi thành tố đều có chức năng tương đối nào đó trong tổng thể nền văn hóa mà chúng tồn tại. Với cách nhìn này, truyền thống văn hóa của tất cả các nhóm tộc người dù ở miền núi hay đồng bằng, thiểu số hay đa số đều có giá trị như nhau, không có văn hóa tiến bộ hay lạc hậu, không có văn hóa cao hay văn hóa thấp. Và, biến đổi văn hóa có thể được xem là tất yếu trong tiến trình tồn tại và phát triển, văn hóa biến đổi theo sự thay đổi chủ thể của văn hóa như là sự thích nghi với các thay đổi của môi trường sinh thái, bối cảnh xã hội và những điều kiện khác trong cấu trúc đồng bộ của một tổng thể. 1.2. Địa bàn nghiên cứu 1.2.1. Khái quát lịch sử hình thành huyện Châu Đức Huyện Châu Đức là một huyện nông nghiệp của tỉnh BR- VT, được thành lập theo Nghị định số 45/1994/NĐ-CP ngày 02/6/1994 của Chính phủ, có tổng diện tích tự nhiên gần 43.000 ha, với 16 đơn vị hành chính gồm thị trấn Ngãi Giao cùng 15 xã: Quảng Thành, Cù Bị, Xà Bang, Láng Lớn, Bàu Chinh, Bình Ba, Suối Nghệ, Bình Trung, Bình Giã, Xuân Sơn, Sơn Bình, Suối Rao, Đá Bạc, Nghĩa Thành, Kim 12 Long6, là những địa danh gắn với cư dân bản địa và những người di cư từ khắp mọi miền đất nước về đây sinh sống. Để có tên gọi và phân chia địa giới hành chính như hiện nay, huyện Châu Đức với vị trí địa lý và tiềm năng riêng có đã phải trải qua nhiều thay đổi với những sự kiện theo dòng thời gian và bối cảnh lịch sử, xã hội tính từ cuối thế kỷ XVII đến nay. Từ thế kỷ XVI trở về trước, vùng đất Châu Đức ngày nay còn hoang hóa, rừng rậm, dân cư chủ yếu là một số tộc người thiểu số như Châu Mạ, Châu Ro, S’Tiêng, Khơme…sinh sống trong những phum, sóc trên những giồng đất cao ven rừng, bên suối mà không ai đặt tên hay gọi tên làng, tên xã là gì mặc dù cùng với những vùng đất khác của BR-VT, Châu Đức cũng là nơi tranh chấp giữa hai vương quốc Chân Lạp và Chămpa nhưng cả hai vương quốc này đều không đủ sức quản lý vùng đất này cho nên mặc nhiên cư dân bản địa cứ tự khai hoang và chia ranh giới mà sinh sống và trồng trọt [48]. Cho đến đầu thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, nơi này tiếp tục là một trong những địa bàn tranh chấp giữa nhà Nguyễn và Tây Sơn, thế nên ngoài lớp cư dân bản địa và những cư dân mới do loạn lạc mà đến khai phá vùng đất này để sinh sống và lập thành làng, xã bên cạnh những phum sóc của những tộc người thiểu số còn có những đơn vị quân đội của nhà Nguyễn, sau những cuộc hành quân thường rút về đây trú đóng để luyện tập, sản xuất thêm lương thực tại các địa bàn thuộc Châu Đức ngày nay [47]. Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, dân cư nơi này vẫn còn thưa thớt, ruộng vườn còn ít, tập trung ở các đồn điền cao su và một vài làng, diện tích rừng già nhiều với hệ thống sông suối, bưng sình, thuận lợi cho nông nghiệp. Do có vị trí quan trọng, địa thế vô cùng thuận lợi về kinh tế, chính trị, quân sự nên trong giai đoạn từ năm 1954 đến 1975, Châu Đức luôn là nơi tranh chấp quyết liệt giữa chính quyền Sài Gòn và cách mạng. Vì thế Châu Đức đã qua nhiều lần sáp nhập, chia tách với những tên gọi khác nhau [50]. Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, để phù hợp với điều kiện quản lý, tháng 1 năm 1976 huyện Châu Đức được sáp nhập với huyện Châu 6 Trích Báo cáo Châu Đức 20 năm thành lập và phát triển. 13 Thành, thuộc tỉnh Đồng Nai. Năm 1991, tỉnh BR-VT được thành lập, huyện Châu Thành (bao gồm cả địa giới của hai huyện Châu Đức và Tân Thành hiện nay) thuộc tỉnh BR-VT, cho đến năm 1994 với những điều kiện phát triển về kinh tế xã hội và dân số, huyện Châu Đức lại được tách riêng là một huyện thuộc tỉnh BRVT cho đến nay [50]. 1.2.2. Điều kiện tự nhiên huyện Châu Đức Châu Đức là huyện nằm về phía Tây Bắc của tỉnh BR-VT, có diện tích tự nhiên 42.456.61 km², phía Bắc giáp huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai, phía Tây, Nam, Đông giáp với các huyện/ thành phố thuộc tỉnh BR- VT. Châu Đức là phần cuối của miền cao nguyên đất đỏ cực Nam Trung bộ, có xu hướng thấp dần theo quá trình chuyển tiếp từ Bắc xuống Nam nên địa thế tự nhiên với địa hình chủ yếu là vùng đồi núi thấp, nhiều ngọn núi cao trung bình khoảng 100 mét đến 300 mét so với mặt nước biển như: núi Con Rắn, núi Con Sóc, đồi Con Chim và những sông dài, suối sâu như Sông Ray, Sông Cầu, suối Tầm Bó chảy qua, tạo ra nhiều bưng bàu rộng (Bàu Sen, Bàu Chinh...)7. Châu Đức nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có chế độ nhiệt ít dao động, trung bình từ 26o C đến 27o C. Tháng 4, tháng 5 là tháng nóng nhất, nhiệt độ trung bình vào khoảng 28oC đến 30oC và tháng mát nhất là tháng Giêng, nhiệt độ trung bình là 24,5oC. Cũng như những địa bàn khác ở Nam bộ, trong năm, Châu Đức 2: mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11 với lượng mưa chiếm hơn 95% lượng mưa cả năm, thòi gian còn lại là mùa nắng/khô. Khí hậu trên địa bàn Châu Đức thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và phù hợp với các hoạt động trong đời sống của cư dân nông nghiệp [50, tr.11]. Thổ nhưỡng của Châu Đức có hai loại chính: hệ Peralit, chủ yếu trên nền đá của vùng đồi núi thấp và hệ đất đỏ Bazan, thích hợp với các loại cây công nghiệp như cao su, càfé, tiêu, điều...và các loại cây ăn trái vùng nhiệt đới có giá trị kinh tế cao. Điều kiện tự nhiên và thổ nhưỡng với những tiềm năng sẵn có là điều kiện thuận lợi để Châu Đức phát triển sản xuất nông nghiệp và cây công nghiệp trong cơ cấu phát triển kinh tế của địa phương. 7 Trích Lịch sử huyện Châu Đức. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan