Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học tự nhiên Sinh học Báo cáo công nghệ vi sinh...

Tài liệu Báo cáo công nghệ vi sinh

.DOC
32
161
72

Mô tả:

Báo cáo công nghệ vi sinh
I.LỊCH SỬ NGÀNH CÔNG NGHIỆP GIẤY 1.NGUỒN GỐC: Giấy là một sản phẩm của nền văn minh nhân loại với lịch sử lâu đời hàng nghìn năm. Từ thời cổ đại, người Ai Cập đã biết làm ra giấy từ sợi của cây papyrus mọc bên bờ sông Nil. Lúc đầu phương pháp sản xuất giấy khá đơn giản: người ta nghiền ướt các nguyên liệu từ sợi thực vật (như gỗ, tre, nứa...) thành bột nhão rồi trải ra từng lớp mỏng và sấy khô. Nhờ quá trình này các sợi thực vật sẽ liên kết với nhau tạo thành tờ giấy. Nhiều thế kỷ trôi qua, mãi đến giữa thế kỷ thứ VIII phát minh này của người Trung Hoa mới được phổ biến đến các nước Hồi giáo ở Trung Á. Sau đó, quy trình sản xuất giấy được du nhập vào châu Âu. Đến thế kỷ XIV các xưởng sản xuất giấy đã xuất hiện ở Tây Ban Nha, Italia, Pháp và Đức. Khi đó giấy được sản xuất bằng phương pháp thủ công, nguyên liệu là bông và vải lanh vụn. Đầu thế kỷ XIX, sản xuất giấy được cơ giới hóa ngày càng nhiều, năng suất lao động tăng cao và nhu cầu về nguyên liệu vải vụn cũng ngày càng tăng. Thật ra, nhu cầu về giấy và nguyên liệu làm giấy cũng đã liên tục tăng từ khi máy in được phát minh vào giữa thế kỷ XV. May mắn là, vào thời điểm các máy làm giấy xuất hiện người ta đã nghiên cứu gỗ để làm nguyên liệu sản xuất giấy thay cho vải vụn. Năm 1840 ở Đức người ta đã phát triển phương pháp nghiền gỗ thành bột giấy bằng thiết bị nghiền cơ học. Năm 1866 nhà hóa học Mỹ Benjamin Tighman đưa ra quy trình sản xuất bột giấy bằng phương pháp hóa học, sử dụng Na2SO3 để nấu gỗ vụn thành bột giấy. Năm 1880 nhà hóa học Đức Carl F.Dahl phát minh ra phương pháp nấu bột giấy bằng Na2SO3 và NaOH. Từ lúc đó gỗ trở thành nguyên liệu chính để sản xuất giấy. 2.PHÁT MINH RA GIẤY Giấy được làm từ tơ lụa đã được biết đến trước khi Thái Luân phát minh ra giấy trong thế kỷ thứ I ,khoảng năm 105 ,chủ yếu làm từ sợi bên trong của vỏ cây dâu tằm.Trước đó cũng đã có giấy làm từ gai dầu (Cannabis) còn được gọi là cây cần sa như năm mẫu giấy được tìm thấy trong những năm từ 1973 đến 1978 đã chứng minh .Các ghi nhận thời gian được so sánh lại cho thấy các mẫu giấy này phải có nguồn gốc từ khoảng năm 140 đến 87 trước Công nguyên . Một loại nguyên liệu giấy khác là cây thụy hương (Daphne). Cây gai dầu và thụy hương có sợi dài hơn những loại gỗ được sử dụng ngày nay và qua đó mà có độ bền cao. Hai tính chất này cho phép giấy được sử dụng vào những mục đích khác ngoài mục đích để viết. Các đồ vật để trang trí và quần áo cũng được sản xuất theo truyền thống từ giấy ở Đông Á. Nguyên liệu làm giấy được cắt vụn ra và giã nhỏ trong nước thành bột lỏng. Các sợi được phân tán mỏng trong nước. Đầu tiên giấy được múc ra bằng một cái rây nổi trên mặt nước. Lưới ở dưới đáy rây được gắn chặt vào khung. Mỗi tờ giấy được múc ra phải được làm khô trong rây và chỉ được đem ra sau khi khô. Vì thế mà cần đến rất nhiều rây. Kỹ thuật này lan truyền đến người Thái vào khoảng năm 300. Vào khoảng năm 600 kỹ thuật múc giấy cải tiến dùng loại rây múc lan truyền đến Triều Tiên và sau đó đến Nhật. Ở loại rây múc này khung rây có thể gỡ ra khỏi rây. Tờ giấy vừa được múc có thể được lấy ra khi còn ẩm và đem đi phơi khô. Kỹ thuật này còn được sử dụng cho đến ngày nay ở các loại giấy múc bằng tay và nói chung nguyên tắc sản xuất giấy (cắt vụn, giã nhỏ trong nước, múc và hong khô) vẫn không thay đổi cho đến ngày nay. Hoa và lá cây bụp mì Ở Nhật người ta cải tiến kỹ thuật này và pha vào bột của sợi giấy nhựa từ rễ của cây bụp mì (Abelmoschus manihot). Các sợi được phân tán đều hơn và không còn bị vón cục nữa. Loại giấy này được gọi là giấy Nhật. Ở châu Âu sau này giấy được ép từng chồng, giữa hai tờ giấy có lót một tấm vải hay nỉ (phớt). Qua đó mà quá trình làm khô giấy được tăng nhanh hơn và giấy được nén chặt lại. 3.SỬ DỤNG GIẤY LAN RỘNG Ở Trung Quốc :Ngay từ thế kỷ thứ II đã có khăn giấy ở Trung Quốc .Tờ báo Bắc Kinh phát hành số đầu tiên vào năm 363 (ngưng phát hành 1936 ).Trong thế kỷ thứ VI người ta đã sản xuất giấy vệ sinh từ giấy rơm rạ rẻ tiền nhất .Xưởng trong cung đã sản xuất cho triều đình 720.000 tấn giấy vệ sinh và thêm vào đó là 15000 tấn giấy vệ sinh tẩm hương thơm mềm và có màu vàng nhạt cho hoàng gia. Sau đó tiền giấy được phát hành lần đầu tiên ở đời vua Đường Cao Tông (650–683) và được công nhận là tiền tệ trong thế kỷ thứ X. Vào khoảng năm 1300 tiền giấy cũng được ban hành ở Nhật,Ba Tư,Ấn Độ. 3.1 Trong thế giới Ả Rập Vào năm 750 hay 751 kỹ thuật sản xuất giấy lan truyền đến Samarkand, có lẽ qua các tù binh người Trung Quốc trong một cuộc tranh chấp biên giới. Và từ đấy kỹ thuật này lan rộng khắp thế giới Ả Rập. Nhờ vào các khám phá mới, người ta cho rằng ở Samarkand giấy đã được biết đến và sản xuất trước đó 100 năm. Cây lanh (Linum usitatissinum) và cây gai dầu (Cannabis L.) cũng như nước đều có đầy đủ, chẳng bao lâu người Ả Rập đã xây dựng lên một công nghiệp giấy phát đạt. Giấy lan truyền nhanh chóng đến Maroc. Một cối xay giấy đã được xây ở Bagdad vào năm 795, năm 870 quyển sách làm bằng giấy đầu tiên được phát hành ở đây. Trong văn phòng của hoàng đế Harun al-Rashid người ta đã dùng giấy để viết. Sau đó là các xưởng sản xuất ở Damascus, Cairo.Ở các tỉnh Bắc Phi cho đến cả phía tây. Người Ả Rập tiếp tục cải tiến kỹ thuật sản xuất. Nhờ vào các rây múc làm bằng dây kim loại mà người ta đã có thể tạo được hình chìm trên giấy (watermark). Giấy được phủ keo tốt hơn nhờ sử dụng tinh bột. (Phủ keo là tráng một lớp mỏng keo trên mặt giấy hay pha keo vào bột giấy lỏng trước khi múc giấy để giấy láng hơn và ít hút nước hơn, mực viết lem ít hơn.) Các đơn vị đo lường diện tích được tiêu chuẩn hóa. 500 tờ giấy là một ram giấy (thếp giấy) – rizmar. Từ này là nguồn gốc cho khái niệm về đơn vị giấy vẫn còn thông dụng cho đến ngày nay trong ngành giấy: một ram giấy 3.2Giấy ở châu Âu Qua các giao lưu văn hóa giữa phương Tây Thiên chúa giáo và phương Đông Ả Rập cũng như qua nước Tây Ban Nha thời kỳ Hồi giáo giấy được mang đến châu Âu từ thế kỷ thứ XII. Theo như Al-Idrisi tường thuật lại sau các chuyến du lịch, ngay từ giữa thế kỷ thứ XII ở San Felipe (Xativa) gần Valencia đã có một nền công nghiệp giấy phát đạt, xuất khẩu các loại giấy cao cấp sang cả các nước láng giềng. Sau khi người Ả Rập bị đánh đuổi khỏi Tây Ban Nha, vùng quanh Valencia vẫn còn là nơi có tầm quan trọng trong công nghiệp giấy vì ở đây người ta trồng được cây lanh (Linum), một nguyên liệu dùng làm giấy rất tốt. Cùng với việc sử dụng văn bản ngày càng phổ biến trong các lãnh vực khác của văn hóa (kinh tế, luật, hành chánh,...), từ giữa thế kỷ thứ 14 giấy bắt đầu cuộc tranh đua với giấy da (parchment). Kỹ thuật in sách ra đời từ giữa thế kỷ thứ 15 đã đánh dấu cho vai trò của giấy da trở thành vật liệu để viết xa xỉ. Mặc dù rẻ tiền, mãi cho đến thế kỷ thứ 17 giấy, trong vai trò là vật liệu để viết, mới đẩy lùi được giấy da tương đối đắt tiền hơn. II. Vài nét về công nghệ sản xuất giấy ở một số công ty: 1.Phân loại giấy tại Việt Nam :   Giấy in báo, dạng cuộn hoặc tờ. Giấy không tráng (uncoated paper) được dùng để viết, in và các mục đích in ấn khác; giấy làm thẻ hoặc dải đục lỗ.  Giấy vệ sinh, khăn lau mặt, lau tay, khăn ăn và các loại tương tự dùng cho mục đích nội trợ, vệ sinh; giấy nỉ xenlulô và giấy nỉ mỏng bằng sợi xenlulô; có thể đã được làm nhăn, dập nổi, tạo lỗ châm kim, nhuộm màu bề mặt, trang trí hoặc in bề mặt, dạng cuộn hoặc tờ.   Giấy và bìa Kraft không hồ trắng, dạng cuộn hoặc tờ . Giấy và bìa không tráng khác, không hồ khác, dạng cuộn hoặc tờ, chưa được gia công thêm hoặc xử lý khác.  Giấy đã sunphua hoá, giấy không thấm mỡ, giấy can (tracing paper) và giấy bóng kính, các giấy bóng trong và giấy bóng mờ khác, dạng cuộn hoặc tờ.  Giấy hỗn hợp được làm bằng cách dán các lớp giấy phẳng lại với nhau bởi một lớp keo dính, không hồ trắng hoặc thấm tẩm bề mặt, có hoặc không có gia cố bên trong, dạng cuộn hoặc tờ.  Giấy đã gấp nếp làn sóng (có thể đã được dán các tờ phẳng lên mặt) đã làm vân, làm nhăn, dập nổi hoặc soi lỗ, dạng cuộn hoặc tờ  Giấy than, giấy tự copy và các loại giấy để sao chụp khác (kể cả giấy đã hồ trắng hoặc thấm tẩm dùng cho máy đánh giấy nến hoặc in bản kẽm) đã hoặc chưa in, dạng cuộn hoặc tờ.  Giấy đã hồ trắng (giấy tráng - coated paper) 1 hoặc cả 2 mặt bằng một lớp cao lanh hoặc các chất vô cơ khác, có thể có thêm chất kết dính, không có lớp phủ ngoài nào khác, có thể đã nhuộm màu bề mặt, trang trí hoặc in bề mặt, dạng cuộn hoặc tờ.  Giấy nỉ xenlulô, giấy nỉ mỏng bằng sợi xenlulô đã hồ trắng, thấm tẩm, phu nhuộm màu bề mặt, có thể được trang trí hoặc in bề mặt, dạng cuộn hoặc tờ.  Khối lọc, thanh tấm lọc, bột giấy dạng tấm.  Giấy cuốn thuốc lá, có thể đã được chia cắt thành miếng nhỏ hoặc cuốn sẵn thành ống.  Giấy dán tường và các loại giấy phủ tường tương tự.  Tấm phủ sàn.  Giấy than, giấy tự copy và các loại giấy dùng để sao chụp khác, giấy nến và các bản in offset bằng giấy.  Phong bì, thiếp mời, bưu thiếp, danh thiếp, các loại hộp, túi và các sản phẩm tương tự bằng giấy khác để đựng thư từ trao đổi.  Giấy dùng cho vệ sinh và các loại giấy tương tự, giấy nỉ, giấy nỉ mỏng bằng sợi xenlulô dùng mục đích cắt theo hình dạng, kích thước khăn lau tay, khăn mặt, khăn trải bàn, khăn ăn, tã lót, băng vệ sinh, khăn trải giường, đồ dùng nội trợ, vệ sinh và một số, các vật phẩm trang trí, đồ phụ tùng tương tự.  Thùng, sắc, túi nhỏ và các loại bao bì khác bằng giấy.  Sổ đăng ký, Sổ sách kế toán, vở ghi chép (Sổ đặt hàng, biên lai), sổ ghi nhớ, nhật ký, vở bài tập...  Các loại nhãn bằng giấy hoặc bìa, đã hoặc chưa in.  Ống lõi, tuýp, suốt, cửi và các loại tương tự bằng bột giấy, giấy hoặc bìa, đã hoặc chưa đục lỗ hoặc làm cứng.  Giấy bìa, giấy xenlulo và giấy nỉ mỏng sợi xenlulo khác, cắt theo kích cỡ hoặc mẫu, các vật phẩm khác bằng bột giấy, giấy hoặc bìa giấy, giấy nỉ xenlulo hoặc giấy nỉ mỏng sợi xenlulo. 2.HIỆN TRẠNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP GIẤY VIỆT NAM a.Thuận lợi Công nghiệp giấy Việt Nam (CNGVN) có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân mặc dù quy mô của nó vẫn còn nhỏ bé so với khu vực và thế giới. Theo thống kê năm 1995 sản xuất CNGVN đạt giá trị 572 tỷ VNĐ, chiếm 2,34% tổng giá trị công nghiệp cả nước và đứng hàng thứ 10 trong ngành công nghiệp. CNGVN bao gồm 1408 cơ sở sản xuất, trong đó có 42 cơ sở quốc doanh (của trung ương và địa phương), 39 cơ sở thuộc kinh tế tập thể, 38 xí nghiệp tư nhân và phần còn lại (hơn 1269 cơ sở) là các hộ lao động thủ công cá thể. Tổng công suất sản xuất bột giấy và giấy của CNGVN tương ứng là 200.000 tấn/năm và 400.000 tấn/năm. Kế hoạch sản xuất của CNGVN năm 2000 là 374.000 tấn. Toàn ngành chỉ có ba cơ sở quy mô lớn với công suất trên 20.000 tấn giấy/năm là các Công ty Giấy Bãi Bằng (55.000 tấn/năm), Công ty Giấy Tân Mai (48.000 tấn/năm) và Công ty Giấy Đồng Nai (20.000 tấn/năm); 33 đơn vị quy mô trung bình (> 1.000 tấn/năm) và còn lại là các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ duới l000 tấn/năm và rất nhỏ. Theo kế hoạch đến năm 2010 CNGVN sẽ có sản lượng 1.050.000 tấn giấy các loại đáp ứng 85 - 90% nhu cầu giấy của xã hội. Để thực hiện mục tiêu này chúng ta cần định hướng trên hai vấn đề sau đây: o Đối với các cơ sở xây dựng trước khi có Luật Môi trường thì cần đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, hoàn thiện công nghệ bột hóa nhiệt cơ (CTMP), cải tiến công nghệ nấu sunfat, ứng dụng công nghệ dung môi hữu cơ, loại bỏ dần công nghệ tẩy trắng sử dụng clo phân tử và các hợp chất clo, tiến tới công nghệ tẩy trắng không sử dụng clo (TFC). Phải xây dựng và thực hiện các giải pháp hoàn thiện các hệ thống thu gom, tái chế, tái sử dụng chất thải, hạn chế chất thải đồng thời thực hiện việc kiểm toán môi trường theo quy định. o Đối với các dự án xây dựng nhà máy sau Luật Môi trường thì khuyến khích và có chính sách ưu đãi đối với các dự án nhà máy ứng dụng công nghệ tiên tiến, sản xuất sạch; thực hiện phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh bởi vì xử lý môi trường ngoại vi là một biện pháp thụ động tốn kém. Nhà nước chỉ cấp giấy phép đầu tư cho những dự án xây dựng có báo cáo đánh giá tác động môi trường và đưa ra được giải pháp bảo vệ môi trường tất cả phải được thẩm định bảo đảm tính khả thi. Sau khi xây dựng xong nhà máy chỉ được phép vận hành sản xuất chính thức nếu chạy thử mà đạt được các chỉ tiêu bảo vệ môi trường theo quy định hiện hành. Hình.Sản phẩm Giấy Tân Mai Ngày 30/1, Bộ Công nghiệp đã ban hành Quyết định 07/2007/QĐ-BCN phê duyệt Quy hoạch điều chỉnh phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020. Theo đó, mục tiêu xây dựng ngành công nghiệp giấy Việt Nam với công nghệ hiện đại, hình thành các khu vực sản xuất giấy, bột giấy tập trung với công suất đủ lớn; phấn đấu năm 2010 sản xuất được 600.000 tấn bột giấy và đạt năng suất 1.800.000 tấn vào năm 2020. o Để thực hiện được các mục tiêu trên, ngành công nghiệp giấy tập trung huy động mọi nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước để đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu và các nhà máy sản xuất bột giấy và giấy quy mô lớn. Tổng vốn đầu tư cho giai đoạn 2006-2020 là 95.569 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư nhà máy là 87.664 tỷ đồng, vốn đầu tư trồng rừng là 7.905 tỷ đồng. b.Khó khăn. Nói chung công nghệ sản xuất giấy ở Việt Nam còn ở trình độ rất thấp và chậm phát triển so với khu vực và thế giới. Hầu hết các doanh nghiệp đều sản xuất giấy theo phương pháp kiềm không có thu hồi hóa chất nên khó cải thiện chất lượng, giá thành cao và gây ô nhiễm môi trường. Công nghiệp giấy thực chất là ngành sản xuất đa ngành và tổng hợp, sử dụng một khối lượng khá lớn nguyên liệu đầu vào (nguyên liệu từ rừng, các hóa chất cơ bản, nhiên liệu, năng lượng, nước v.v...) so với khối lượng sản phẩm tạo ra (tỷ lệ bình quân vào khoảng 10/1). Quá trình sản xuất bột và giấy đã sinh ra một lượng rất lớn các chất thải ở dạng rắn, lỏng (nước thải) và khí. Tùy thuộc và công nghệ mà lượng nước tiêu hao trong quá trình sản xuất giấy vào khoảng l00 - 500 m3/tấn sản phẩm. ảnh hưởng của sản xuất bột và giấy đến môi trường chủ yếu ở hai công đoạn: nấu bột giấy và tẩy trắng bột giấy. Quá trình nấu bột giấy (bằng phương pháp sunfit hay sunfat) đều thải ra các hợp chất (ở dạng lỏng) chứa lưu huỳnh, đồng thời thải ra khí SO2, H2S, các mercaptan, các sunfua... Quá trình tẩy trắng bột giấy gây ô nhiềm môi trường nhiều nhất vì có sử dụng tới clo và các hợp chất của nó như hypoclorit, clo đioxit. Để tẩy trắng 1 tấn bột giấy cần tới 100kg clo và các hợp chất của nó (trong đó khoáng 50% là clo phân tử). Về mặt công nghệ sản xuất, trong quá trình tẩy trắng bột giấy, đưa bao nhiêu hợp chất clo vào thì lại thải ra bấy nhiêu. Hiện nay trên thế giới cũng chưa có công nghệ tái sử dụng clo trong khâu tẩy trắng bột giấy. Nói chung do quy mô sản xuất nhỏ, sản xuất phân tán nên CNGVN chưa gây ra những vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên diện rộng. Tuy nhiên do hầu hết các cơ sở ít hoặc không đầu tư cho xử lý chất thải (mà trước hết là nước thải) nên vấn đề ô nhiễm cục bộ tại địa phương lại hay xảy ra; nước thải đều không đạt các tiêu chuẩn quy định về môi trường. Qua khảo sát người ta thấy ở ba công ty giấy lớn nhất (tại Bãi Bằng, Tân Mai, Đồng Nai) mặc dù với công nghệ sản xuất tương đối hiện đại và có đầu tư cho các công trình xử lý nước thải nhưng các chỉ tiêu SS (chất rắn lơ lửng), BOD5, COD của nuớc thải vẫn cao gấp vài lần so với tiêu chuẩn cho phép. ở các nhà máy còn lại, các chỉ tiêu SS, BOD5, COD cao gấp chục lần, hàng chục lần hay thậm chí 100 lần so với tiêu chuẩn cho phép Hình.Một góc cơ sở sản xuất giấy gây ô nhiễm ở Khu công nghiệp Phú Thái – Hải Dương. Hiện nay, ngành công nghiệp giấy đang tăng trưởng nhanh chóng và đóng góp vào tiến trình phát triển chung của nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên, theo đánh giá của Ban chỉ đạo Quốc gia về nước sạch - Bộ Tài nguyên và Môi trường, ngành công nghiệp giấy lại là một trong những ngành gây ô nhiễm trầm trọng, đă ăc biê ăt đối với các nguồn nước. Vì vậy, song song với việc lập kế hoạch phát triển doanh nghiệp, một bài toán khác đặt ra cho ngành giấy là phải xử lý tốt các chất thải, giảm bớt ô nhiễm và bảo vệ tài nguyên môi trường.Theo thống kê, cả nước có gần 500 doanh nghiệp sản xuất giấy, trong đó chỉ có khoảng 10% doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn môi trường cho phép, còn hầu hết các nhà máy đều không có hệ thống xử lý nước thải hoặc có nhưng chưa đạt yêu cầu, vì thế tình trạng gây ô nhiễm môi trường do sản xuất giấy cũng đang là vấn đề được nhiều người quan tâm So với ngành công nghiệp khác ngành công nghiệp giấy ở mức ô nhiễm cao và dễ gây tác động đến con người và môi trường xung quanh do ô nhiễm từ nguồn nước thải xử lý không đạt yêu cầu. Công nghệ sản xuất giấy ở Việt Nam còn rất lạc hậu. Để sản xuất ra một tấn giấy thành phẩm, các nhà máy phải sử dụng từ 30-100 m3 nước, trong khi các nhà máy giấy hiện đại của thế giới chỉ sử dụng 7-15 m3/tấn giấy. Sự lạc hậu này không chỉ gây lãng phí nguồn nước ngọt, tăng chi phí xử lý nước thải mà còn đưa ra sông, rạch lượng nước thải khổng lồ. Trong các cơ sở công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH trung bình 9 11, chỉ số nhu cầu ôxy sinh hoá (BOD), nhu cầu oxy hoá học (COD) cao, có thể lên đến 700mg/l và 2.500mg/l. Hàm lượng chất rắn lơ lửng cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép. Đặc biệt nước có chứa cả kim loại nặng, lignin (dịch đen), phẩm màu, xút, các chất đa vòng thơm Clo hoá là những hợp chất có độc tính sinh thái cao và có nguy cơ gây ung thư, rất khó phân huỷ trong môi trường. Có những nhà máy giấy, lượng nước thải lên tới 4.000 - 5.000m3/ngày, các chỉ tiêu BOD, COD gấp 10 – 18 lần tiêu chuẩn cho phép; lượng nước thải này không được xử lý mà đổ trực tiếp vào sông. Ngoài ra, trong công nghiệp xeo giấy, để tạo nên một sản phẩm đặc thù hoặc những tính năng đặc thù cho sản phẩm, người ta còn sử dụng nhiều hóa chất và chất xúc tác. Những chất này nếu không được thu hồi hoặc xử lý mà xả thẳng ra sông ngòi thì vấn đề ô nhiễm là không tránh khỏi, làm mất cân bằng sinh thái trong môi trường nước. Hiện nay, ở các khu vực có cơ sở sản xuất giấy đang phải chịu sức ép nặng nề về ô nhiễm môi trường, để sản xuất mỗi tấn bột giấy phải thải ra 10 tấn dịch đen. Riêng khu vực sông Cầu, chỉ với 3.500 m3 nước xả mỗi ngày, nhưng ngành giấy đã là thủ phạm số một gây ô nhiễm nặng cho dòng sông này, trong đó nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ đứng đầu bảng. Ở Bắc Ninh, mỗi ngày Phong Khê thải ra sông 4500m3 nước thải và theo thống kê của Sở Tài nguyên và Môi Trường, các ch ỉ số COD, BOD, coliform đều cao hơn mức cho phép 4-6 lần. Khói và bụi giấy đã làm cho bầu không khí ở Phong Khê bị ô nhiễm trầm trọng. Chính lượng nước thải đã làm cho nhiều diện tích sản xuất nông nghiệp thành đất chết. Điều đặc biệt là việc đặt các nhà máy ở thượng nguồn sông Hậu như: Khu công nghiệp Trà Nóc II hay Thốt Nốt, Ô Môn, đã gây ô nhiễm nguồn nước trầm trọng, làm ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản. c.Thách thức Sau một thời gian phải huy động tối đa công suất của các nhà máy để đáp ứng yêu cầu sử dụng giấy in báo, giấy in và viết trong nước, đến nay các doanh nghiệp giấy lại rơi vào tình tạng tồn kho lớn, sản xuất cầm chừng. Bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư cho các vùng trồng rừng nguyên liệu gặp khó khăn và hạn chế đã đặt ra cho ngành giấy phải kịp thời tìm hướng giải quyết để năm 2009 có thể giữ vững ổn định sản xuất. Ngay từ đầu tháng 9/2008, khi mà kinh tế nhiều nước trên thế giới đang bắt đầu nhận thấy dấu hiệu suy giảm và rơi vào khủng hoảng thì hầu hết các doanh nghiệp giấy trong nước phải cắt giảm từ 20-40% sản lượng nhưng tồn kho vẫn rất lớn. Nhiều công ty nhỏ và vừa bị lỗ từ 1-3 tỷ đồng trong năm 2008, một số nhà máy đã phải ngừng sản xuất ngay từ những tháng đầu năm 2009 (như Giấy Đồng Nai và Giấy Bình An thuộc Công ty Cổ phần Giấy Tân Mai). Đặc biệt là lượng tồn đọng nguyên liệu sản xuất trong lúc nhập với giá cao, lãi suất vay ngân hàng cũng vào thời điểm cao ngất ngưởng, trong khi sản phẩm sản xuất ra tồn đọng, bán với giá cạnh tranh đã làm cho nhiều doanh nghiệp phải lao đao, xuất khẩu cũng gặp khó khăn do tình hình kinh tế thế giới có dấu hiệu suy thoái. Theo ông Vũ Ngọc Bảo, Tổng thư ký Hiệp hội Giấy - Bột giấy, tổng sản lượng giấy năm 2008 sản xuất ra chỉ đạt khoảng 1,2 triệu tấn, chúng ta phải nhập khẩu khoảng 900.000 tấn và xuất khẩu được khoảng 130.000 tấn. Trung bình mỗi năm người Việt Nam tiêu dùng hết 24kg/người trong khi ở các nước châu Á là 45-46kg/người và ở Mỹ là 300kg/người. Như vậy tiềm năng phát triển cho ngành giấy là rất lớn, nhưng do ngành công nghiệp giấy còn manh mún, công nghệ sản xuất lạc hậu nên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Hiện tại, để ngành giấy trong nước đứng vững và phát triển trong tương lai thì phải chủ động được về nguyên liệu, trong khi năng lực sản xuất bột giấy mới chỉ đáp ứng 1/2 nhu cầu sản xuất giấy. Do chưa có cơ chế, chính sách nhằm xây dựng và phát triển nguồn nguyên liệu giấy, nên các vùng nguyên liệu vẫn là các công ty tự chủ động và phối hợp với các địa phương để xây dựng nguồn nguyên liệu cho mình. Trước thực trạng trên, Tổng Công ty Giấy Việt Nam (VINAPACO) có chủ trương triển khai các dự án lớn như: Dự án Nhà máy giấy và Bột giấy Thanh Hoá (với công suất 100.000 tấn bột giấy/năm và từ 100.000-130.000 tấn giấy/năm chủ yếu bằng nguồn nguyên liệu trên địa bàn), dự án trồng nguyên liệu giấy Thanh Hoá được Chính phủ phê duyệt với tổng số vốn đầu tư 800 tỷ đồng; Dự án đầu tư và mở rộng Công ty Giấy Bãi Bằng giai đoạn II có công suất 250.000 tấn bột giấy tẩy trắng/năm bằng nguồn nguyên liệu đã được trồng theo quy hoạch của dự án; Dự án sản xuất bột giấy Tân Mai (Quảng Ngãi) có công suất 300.000 tấn bột giấy/năm… Những dự án này khi đi vào hoạt động sẽ phần nào giảm bớt gánh nặng nhập khẩu nguyên liệu cho ngành giấy. Để giải quyết những khó khăn trước mắt, duy trì ổn định sản xuất, nhằm đảm bảo thu nhập và đời sống cho cán bộ công nhân viên trong năm 2009, Tổng Công ty Giấy đã kịp thời đưa ra các giải pháp. Đó là, tận dụng thời cơ thị trường giá cả vật tư nguyên liệu thế giới đang ở mức giảm cùng với các doanh nghiệp tập trung mọi nguồn lực để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án trên. Ưu tiên các công trình thiết thực sản xuất ra hàng hoá, phục vụ việc bình ổn sản xuất và duy trì tăng trưởng, đồng thời nghiên cứu mở rộng thị trường xuất khẩu những mặt hàng truyền thống như: giấy in, viết …. nhằm tiêu thụ tối đa sản phẩm sản xuất trong năm và sản phẩm tồn đọng của năm 2008. Đặc biệt, đối với các nhà máy sản xuất giấy cần giảm tối đa các yếu tố nguyên, nhiên vật liệu đầu vào, tăng hiệu quả sản xuất. Mở rộng các mối quan hệ hợp tác với các tổ chức định chế tài chính trong và ngoài nước để khai thông nguồn vốn vay đầu tư cho các dự án, đồng thời huy động nguồn vốn từ cán bộ công nhân viên trong đơn vị với cơ chế lãi vay và thời gian vay hợp lý… Nhằm thực hiện các giải pháp trên một cách đồng bộ và có hiệu quả, VINAPACO cũng đề nghị, đối với dự án trồng rừng sản xuất được vay vốn từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam bằng 70% so với tổng mức đầu tư của dự án thay bằng 10 triệu đồng/ha/7 năm như hiện nay. Nhà nước cũng nên có chính sách tăng mức thuế nhập khẩu giấy thuộc các nước trong khối ASEAN lên 5%; giảm thuế GTGT đối với thu mua giấy lề, giấy loại trong nước từ 10% như hiện nay xuống 0%; giấy in, giấy viết từ 10% xuống 5%, giấy báo từ 5% xuống 0%. Ngoài ra, cần sớm ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp trong sản xuất giấy và bột giấy cho phù hợp với điều kiện thực hiện của Việt Nam, có như vậy ngành giấy trong nước mới có thể dần từng bước khắc phục được những khó khăn hiện nay và phát triển bền vững trong tương lai. III.Tổng quan về ngành sản xuất giấy và bột giấy: 1Các phương pháp sản xuất bột giấy  Xử lý cơ học Bột gỗ mài trắng: được mài từ gỗ đã được bóc vỏ trong các máy mài gỗ. Bột gỗ mài nâu: hình thành khi các cuống cây được thấm ướt trong các nồi    nấu trước khi được mài. Bột nhiệt cơ: được sản xuất từ phế liệu gỗ được băm nhỏ và vỏ bào của các xưởng cưa. Theo phương thức TMP (thermo-mechanical pulp) hay "bột nhiệt cơ".Chúng được làm thấm ướt ở 130°C. Các liên kết lignin nhờ vậy bị yếu đi. Sau đó nước được thêm vào và các miếng gỗ này được nghiền trong các máy nghiền (refiner). Nếu hóa chất được sử dụng thêm vào trong lúc thấm ướt phương pháp này được gọi là phương pháp CTMP (chemo-thermo- mechanical pulp) hay "bột hóa nhiệt cơ". Nếu chỉ dùng các phương thức cơ để sản xuất, thành phần của bột gỗ không phải là các sợi cellulose mà là các liên kết sợi đã được mài và nghiềm nhỏ ra. Để có thể lấy được sợi nguyên thủy phải dùng đến các biện pháp xử lý gỗ bằng hóa học.  Xử lý hóa học Các mảnh gỗ được xử lý hóa học bằng cách nấu. Sau khi nấu 12 đến 15 tiếng các sợi sẽ được tách ra khỏi các thành phần cứng đi cùng với cellulose. Nhìn theo phương diện hóa học, gỗ bao gồm:      40% - 50% cellulose 10% - 55% hemicellulose 20% - 30% linhin (lignin) 6% - 12% các hợp chất hữu cơ khác 0,3% - 0,8% hợp chất vô cơ Tùy theo hóa chất được dùng để nấu, người ta phân biệt ra các phương pháp kiềm, sunfit (sulfit) và sunfat (sulfat). Phần lignin còn sót lại sau khi nấu sẽ làm cho bột giấy có màu vàng hay nâu vì thế mà phải rửa sạch và tẩy bột giấy. Sản lượng sản xuất bột giấy theo phương pháp hóa học ít hơn là sản xuất bột gỗ. Các sợi cellulose có ưu điểm là dài hơn, bền và mềm mại hơn. Các sợi cellulose từ các cây lá kim thường dài khoảng 2,5 cho đến 4 mm, sợi từ các cây lá rộng dài khoảng 1 mm. Bột giấy sunfat so với bột giấy sunfit thì dài hơn và bền hơn vì thế chủ yếu được sử dụng để làm giấy in và giấy viết có độ trắng cao. Bột giấy sunfit đa số được dùng để sản xuất các loại giấy vệ sinh mềm. Bột giấy cần phải được tẩy để làm giấy trắng. Bột giấy sunfat thông thường được tẩy bằng clo, vì thế mà nước thải sẽ nhiễm các hợp chất cácbon của clo. Cl2 + H2O → H+ + Cl- + HClO 2 NaOH + Cl2 → NaOCl + NaCl + H2O Bột sunfit được tẩy bằng hiđrô perôxít hay bằng ôxy. Kỹ thuật thân thiện hơn với môi trường, thay thế tẩy sử dụng clo bằng sử dụng ôxy và điôxít clo. 2 NaClO3 + H2SO4 + SO2 → 2 ClO2 + 2 NaHSO4 Bột giấy tẩy không có clo có độ bền của sợi kém hơn là tẩy bằng clo, nhưng do ít ô nhiễm đến môi trường hơn nên ngày càng được dùng nhiều hơn.[2]  Phương pháp organocell Phương pháp organocell sản xuất bột giấy không có lưu huỳnh và vì thế mà thân thiện với môi trường hơn. Các mảnh gỗ được nấu với hỗn hợp nước và mêtanol (methanol) có cho thêm dung dịch kiềm qua nhiều giai đoạn dưới áp suất và ở nhiệt độ đến 190°C. Qua đó linhin và hemicellulose được hòa tan ra. Sau đó phải rửa sạch qua nhiều giai đoạn rồi tẩy và tháo nước. Mêtanol và kiềm được lấy lại qua một phương pháp tái chế được tiến hành song song với sản xuất bột giấy. Ngoài ra còn thu được linhin và hemicellulose không chứa lưu hùynh được sử dụng tiếp tục trong công nghiệp hóa học.  Khử mực giấy cũ Các phương pháp khử mực giấy loại có mục đích chính là nhằm loại bỏ các hạt mực cũng như các chất phụ gia khác như chất độn, các hạt mang màu trong quá trình tráng phủ ra khỏi thành phần sơ xợi. Hai phương pháp khử mực giấy loại (de-inking) được sử dụng phổ biến rộng rãi ngày nay trên thế giới là phương pháp tuyển nổi (flotation) và rửa (washing). Phương pháp tuyển nổi thích hợp với các hạt mực và các hạt phụ gia có kích thước từ 10 đến 250 µm trong khi phương pháp rửa thích hợp với kích thước hạt mực và phụ gia từ 30 µm trở xuống. Ngày nay phần lớn các nhà máy tái chế giấy loại thường ứng dụng cả hai phương pháp khử mực bằng tuyển nổi và rửa trong quá trình sản xuất.  Xử lý bột trước khi sản xuất giấy Bột giấy được nghiền trong các máy nghiền (refiner) trước khi đưa qua máy giấy. Bên trong máy nghiền dung dịch bột giấy đậm đặc chảy qua giữa một trục lăn có dao và các dao gắn cố định. Sợi sẽ được cắt (nghiền thô) hay ép (nghiền tinh) tùy theo các điều chỉnh dao. Hai đầu của sợi cellulose sẻ bị tưa ra giúp cho các sợi liên kết với nhau tốt hơn khi tấm giấy hình thành. Các loại giấy hút nước, có thể tích cao và mềm mại hình thành từ các sợi được nghiền thô như giấy thấm. Sợi được nghiền tinh được dùng để sản xuất các loại giấy cứng và bền, ít thấm nước có tính trong suốt thí dụ như giấy vẽ kỹ thuật. Ngoài ra khi nghiền các sợi cellulose còn có thể được cắt ngắn đi. Chiều dài của sợi và cách nghiền bột quyết định chất lượng của giấy. 2. Coâng ngheä saûn xuaát hoùa chaát: NaCl, nöôùc Từ nhà kho,từ hệ thống xử lí nước cấp Hòa tan xử lí tạp chất Na2CO3, NaOH Từ kho hóa chất Mg(OH)2 nöôùc Töø heä thoáng xöû lyù nöôùc caáp voâi töø nhaø kho Hoøa voâi Chuyển đi san lấp hoặc làm đường chaát kieàm Cl2, H2, NaOH muoái, muøn Điện phân NaOH Cát, Muối CaCO3 Cl2 Ñieàu cheá Cl2 caùt caùt voâi Chuyeån ñi san laáp dòch taåhoaë y c laøm ñöôøng caùt, ñaù, voâi Chuyeån ñi san laáp hoaëc laøm ñöôøng Chuyeån ñi san laáp hoaëc laøm ñöôøng cung caáp cho phaân xöôøng saûn xuaát boät giaáy 3.CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT GIẤY nước ta: Tại nước ta hiện áp dụng chủ yếu 3 công nghệ sản xuất giấy:  Sản xuất bột giấy theo công nghệ sulfat sử dụng hỗn hợp NaOH và Na2S để tách cellulose từ gốm tre nứa. Công nghệ này được sử dụng chủ yếu ở các cơ sở sản xuất có quy mô lớn.  Sản xuất bột giấy theo công nghệ kiềm nóng (130-1600C) hay lạnh không thu hồi hoá chấ. Công nghệ này thường có những nhà máy đã xây dựng quá lâu đời.  Sản xuất bột giấy bằng giấy tái sinh, chiếm tỷ lệ khoảng 15-18% sản lượng bột hiện nay. Công nghệ này sản sinh ít chất thải hơn, nhưng quá trình tẩy mực tạo ra rất nhiều độc tố cho môi trường nước. 2.Công nghệ sản xuất giấy a.nguyên tắc: Để sản xuất giấy, bột giấy rời được lấy ra sau lô đảo chiều, rơi xuống máng hứng trong có vít tải để chuyển xuống các bể chứa. Nước rửa ngược được sử dụng từ máy xeo có nhiệm vụ làm loãng bột trong các vít tải để tăng cường vận quá trình xả bột từ máng hứng xuống các bể chứa. Bột sau khi đã nạp đủ xuống bể chứa được phân tán thành dung dịch huyền phù dạng thô, pha loãng bằng nước sạch đến nồng độ khoảng 5 – 6%, bột được bơm ép gián đoạn vào máy nghiền đĩa. Bột thoát ra ở mỗi máy nghiền đều được khống chế bằng van định lượng để tinh chỉnh quá trình nghiền. Bột nghiền được xả xuống các bể chứa. Tại đây bột được pha chế thêm hoá chất theo yêu cầu sản xuất, dự trữ bột và được pha loãng luân phiên tại một trong hai bể có vai trò như nhau trước khi chúng được các bơm cấp đến máy xeo. Bột nghiền ở nồng độ 5% sau khi đã được gia phụ liệu (keo, phèn, độn, các chất màu....) theo yêu cầu công nghệ sẽ được các máy khuấy khuấy trộn liên tục trong suốt quá trình gia keo và dự trữ sau đó. Trước khi sử dụng từ 1 - 2 giờ, bột được pha loãng đến nồng độ 2 - 2,5% và được các máy bơm BB4 và BB5 đồng thời cấp đến máy xeo. Máy xeo và các hệ thống tiếp cận máy xeo (gồm bộ phận điều tiết, các máy sàng, máy lọc, thùng cao vị và các bơm) là một hệ thống đồng bộ hoạt động liên tục và khép kín. Toàn bộ quá trình xeo tuần tự diễn ra như sau: bột được các bơm bột đồng thời cấp đến bộ phận điều tiết bột xuống các hòm lưới của máy xeo nhằm mục đích ổn định lượng bột giấy trong suốt quá trình sản xuất. Bột trong mỗi thùng điều tiết được giữ nguyên nồng độ 2 - 2,5 % và đưa xuống máy sàng để loại bỏ tạp chất thô nhẹ phi xenluloz, tại đây chúng được pha loãng một phần bằng nước sạch để tăng cường hiệu suất sàng chọn và làm sạch bột thải, bột mịn qua sàng tiếp tục đi xuống bồn nước trắng, rồi được các bơm đồng thời bơm tới các lọc cát để khử sạn, cát, lọc tinh bột lần cuối trước khi cấp vào thùng lưới và thùng cao vị. Các lớp bột hình thành trên lô lưới tròn của máy xeo, bám theo chăn len tiếp cận, hội nhập và đảo chiều tại cặp ép trung gian rồi tới ép sấy, được sấy khô trên lô sấy và tự động cuộn lại trên lô cuộn. Sản phẩm phôi giấy hình thành được tự động cuộn trên lô sấy 2, sau đó sẽ được palăng điện lấy ra đưa lên máy cắt cuộn lại để cắt 2 biên và cuộn lại cho chặt hơn, quá trình lấy giấy ra và thay cuộn giấy mới được tiến hành đồng thời. b.Máy, thiết bị chủ yếu Máy, thiết bị sử dụng trong ngành giấy ở Việt Nam được nhập từ Trung Quốc, các nước Đông Âu và một số được sản xuất trong nước. Đối với khu vực DNNVV, máy và thiết bị sử dụng chủ yếu là các loại đã qua sử dụng, được nhập về từ nước ngoài hoặc mua lại của các doanh nghiệp lớn trong nước, thường không đồng bộ do khả năng đầu tư của các doanh nghiệp còn nhỏ lẻ, chắp vá. Bảng 31: Danh mục các máy, thiết bị chủ yếu các doanh nghiệp ngành sản xuát gi ấy đang sử dụng Stt Tên máy, thiết bị 1 Máy băm dăm 2 Băng tải nghiêng 3 Nồi cầu quay 4 Vít tải ngang 5 Vít tải nghiêng 6 Máy nghiền thuỷ lực 7 Lọc cát 8 Máy sàng rung 9 Máy rửa nghiêng 10 Máy khuấy nằm 11 Máy bơm bột 12 Máy vắt bột 13 Máy nghiền đĩa 14 Máy bơm xeo 15 Bồn điều tiết bột 16 Máy xeo 17 Palăng điện + Ray I 18 Palăng 19 Máy cắt cuộn 20 Nồi hơi 21 Bơm nước sạch 22 Bơm kiềm 23 Bơm rửa lưới 24 Thùng lường 25 Nồi nấu keo 26 Máy mài dao băm 27 Goòng tải bột IV.THÀNH PHẦN Ô NHIỄM: Gây ô nhiễm chủ yếu của nước thải sản xuất- bột giấy là: · Chất lơ lửng (xơ sợi cellulose và hemicellulose) · Các chất tẩy trắng chủ yếu là hợp chất clo vô cơ · Dãy lignin và phenol · Các dẫn xuất của hydrocarbon clo hoá, đặc biệt là các hợp chất vòng thơm · Các muối vô cơ, đặc biệt là muối Ca và Na · Nhựa thông, cao lanh, polimer, phèn nhôm · các chất màu Nồng độ các thành phần gây ô nhiễm trong nước thải của hai công đoạn chính trong sản xuất giấy được cho ở dưới bảng dưới đây: Nấu Xeo Chung 9 - 11 6-7 7-8 Mầu (Pt-Co) 14500-15000 400-450 2480 TSS (mg/L) 2100-2200 2100-2200 800-900 COD (mg/L) 12300-12500 200-300 1800-1900 BOD (mg/L) 4800-500 180-220 700-900 pH 2. Các phương pháp xử lý 2.1 Xử lý hợp chất hữu cơ (theo BOD), Ni-tơ (N) và chất lơ lửng SS Quá trình loại bỏ ammonia nitrogen (NH 4+) hay là quá trình nitrate hoá (nitrification) có thể thực hiện theo hai cách: (1) xử lý theo bậc, tức là quá trình xử lý chất hữu cơ BOD và xử lý ammonia nitrogen (NH4+) được thực hiện trong các công trình riêng biệt (hình 1 và 2 ) xử lý đồng thời, tức là loại bỏ chất hữu cơ (theo BOD) và ammonia nitrogen (NH 4+) trong cùng một công trình (hình 2). Để thực hiện quá trình xử lý theo bậc, trong thực tế ứng dụng rộng rãi hệ vi sinh bám dính, dưới dạng công trình bể lọc sinh học (strickling filter hay biofilter)và các đĩa sinh học. Bể lọc sinh học ứng dụng cho quá trình nitrat hoá thông thường được bố trí sau bể aeroten, hoặc bể lọc sinh học bậc 1 khi nước thải đã bị loại bỏ hầu hết chất hữu cơ (BOD). Thông dụng nhất là xử lý qua 2 bậc biofilter với các vật liệu lọc bằng chất tổng hợp có bề mặt bám dính riêng cao. Tải trọng thuỷ lực là thông số thiết kế quan trọng để tính toán bể biofilter cho quá trình nitrat hoá riêng. Hiệu suất xử lý ammonia nitrogen (NH4+) giảm đi khi tăng tải trọng thuỷ lực và giảm nhiệt độ nước thải. Trên thực tế, với tải trọng thuỷ lực khoảng 20,37 l/m 2.phút thì hiệu quả xử lý nitơ amôn (NH 4+) luôn luôn đạt được cao cho mọi mùa trong năm. Bảng 1. Tải trọng hữu cơ tính toán cho bể lọc sinh học xử lý NH 4 Bể lọc sinh học (biofilter) Hiệu quả xử lý(%) Tải trọng hữu cơ theo  BOD5 (kgO2/m3.ngđ) theo NH 4  N Biofilter với VLL là sỏi cuội, đá 75 - 85 0,16 - 0,096 dăm 85 - 95 0,096 - 0,048 Biofilter dạng tháp, và biofilter 75 - 85 0,288 - 0,192 với 0,192 - 0,096 VLL là chất dẻo Biofilter 2 Biofilter 1 Nước thải vào Xlý BOD L Xlý NH 4 Cấp khí methanol Biofilter 3 Xlý L NO3 L: bể lắng L Nước sau xử lý Xả bùn Hình 1. Sơ đồ công nghệ xử lý triệt để nước thải riêng biệt bằng bể lọc sinh học (biofilter) - xử lý BOD, NH 4 và NO3 Biofilter 1 Nước thải vào Cấp khí methanol Xlý BOD và NH 4 L Biofilter 2 Xlý L NO3 L: lắng Nước sau xử lý Xả bùn Hình 2. Sơ đồ công nghệ xử lý triệt để nước thải riêng biệt bằng bể lọc sinh học(biofilter)-xử lý BOD và NH 4 cùng trong một bể biofilter,xử lý NO3.riêng Quá trình xử lý đồng thời chất hữu cơ (BOD) và ammonia nitrogen (NH 4+) trong bể sinh học được xác định bởi tải trọng BOD. Tải trọng BOD tính toán cho bể sinh học được trình bày trong bảng 1. Quá trình khử ammonia nitrogen (NH 4+) trong bể sinh học (strickling filter) với vật liệu lọc là sỏi cuội được biểu diễn bằng công thức toán học. amm.Nout = 134.amm.Nin 0,86.SS in 0,15 Với: - amm.Nout : nồng độ ammonia nitrogen (NH4+) sau khi xử lý (mg/l) - amm.Nin, SSin, BODin: tải trọng nitơ amôn (g/m2.ngđ), tải trọng chất lơ lửng (g/m .ngđ) và tải trọng hữu cơ (kg/m2/ngđ). 2 IV: tải trọng thuỷ lực (m3/ m2ngđ). Để xử lý tiếp tục Nitrogen (N), quá trình khử nitrat (definication: NO 3 =>NO2.=>N2) thường được thực hiện trong khối công trình riêng biệt với nguồn carbon ngoài (thông dụng là methanol CH3OH). Lượng methanol được tình theo công thức: Cm = 2,47N0 + 1,53N1 + 0,87D0 Trong đó: Cm - nồng độ methanol cần thiết để cung cấp mg/l N0 , N1 , D0 - nồng độ nitrat (mg/l), nồng độ nitrite (mg/l) và nồng độ o-xy ban đầu, mg/l. Phát hiện công nghệ sinh học và hoá sinh trong những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 quá trình anamox - quá trình o-xy hoá ammonia nitrogen (NH 4+) với điều kiện yếm khí NH4+ + NO2 => 2H2O + N2 cho phép áp dụng chúng trong thực tế để loại bỏ Nitrogen (N) khỏi nước thải. Quá trình anamox hay nói một cách khác là ôxy hoá NH 4+ thông qua nitrite NO2 (hình3). Trên hình 3, rõ ràng rằng việc áp dụng anamox để loại bỏ hợp chất N ra khỏi nước thải có ưu thế lớn so với công nghệ truyền thống là tiết kiệm được năng lượng sục khí và không cần dùng nguồn carbon (C) bên ngoài. 2.2 Xử lý phôtpho (P) của nước thải bằng hệ vi sinh bám dính Các hợp chất nitrogen (N) và phosphorus (P) trong nước thải là nguyên nhân gây ra hiện tượng phú dưỡng. Trên thế giới phương pháp phổ biến để loại bỏ P ra khỏi nước thải vẫn là phương pháp lý hoá kết hợp. Việc loại bỏ phosphorus (P) theo phương pháp sinh học bằng hệ bùn hoạt tính đơn lơ lửng (single sludge system) chạy qua các vùng yếm khí (anaerobic), thiếu khí (anoxic) và háo khí (aerobic) là phổ biến nhất, ví dụ: loại bỏ phosphorus (P) bằng A/O process, PhoTrip process, loại bỏ N và P đồng thời - A2/O, Brandenpho process, UTC,… đòi hỏi mức đầu tư cao và chi phí vận hành lớn (lưu lượng tuần hoàn tới 300% - 600%). Mặt khác, việc sao chép 100% công nghệ nước ngoài sẽ không có hiệu quả xử lý như mong muốn, do thành phần nước thải các thành phố trên thế giới khác nhau. Bên cạnh đó việc xử lý loại bỏ phosphorus (P), giảm nồng độ (P) dưới tiêu chuẩn cho phép bằng phương pháp sinh học sử dụng hệ vi sinh bám dính là không thể được. Tuy vậy, việc kết hợp phương pháp sinh học với quá trình xử lý hoá học có thể mang lại hiệu quả mong muốn. NO3 NO3 NO3 O2 O22 COD NO3 NO3 NO3 NO3 NH 4 N2 a) O2 NO3 COD NO3 COD O2 NH 4 b) NO3 COD COD N2 Hình 3. (a) Quá trình nitrat hoá (nitrification) và khử nitrat truyền thống (denitrification) (b) Quá trình anammox hay là xi hoá nitơ amôn qua nitrit Một nghiên cứu tại Đại học Xây dựng Mát-xcơ-va (MGSU), Liên bang Nga cho phép loại bỏ P ra khỏi nước thải sinh hoạt bằng hệ vi sinh bám dính dựa trên nguyên tắc ăn mòn sinh học (hình 4). Vật liệu bám dính có cốt sắt (Fe) được sử dụng trong bể aeroten. Các màng sinh học bám dính lên bề mặt kim loại thực hiện quá trình ăn mòn sinh học liên tục làm nồng độ sắt Fe trong aeroten tăng đột ngột, tạo điều kiện cho quá trình keo tụ hoá lý phosphate được diễn ra nhanh chóng. Nồng độ bùn hoạt tính lơ lửng tăng, đồng thời chỉ số bùn giảm mạnh, khi đó hiệu quả loại bỏ phosphorus (P) đạt 100% cho nước thải sinh hoạt (bảng 2). Số lượng cốt sắt cần thiết được tính theo công thức: Với: AFe : bề mặt cốt sắt cần thiết (m2) AFe = 0,319.(C EN ( PO43 )  C EX ( PO43 )).Q D.q ( PO43 ) Q: lưu lượng nước thải giờ max (m3/h). C EN ( PO43 ), C EX ( PO43 ) : nồng độ phosphate vào và ra khỏi công trình xử lý. D: đường kính sợi cốt thép q ( PO43 ) : tải trọng phosphat trên diện tích sợi thép, g ( PO43 ) / m 2 .ngd Kết quả thực nghiệm nghiên cứu xử lý P trên mô hình thực nghiệm. . Nước thải vào Bể lắng 1 aeroten aeroten aeroten 1.Vật liệu bám dính cốt sắt Nước thải sau xử lý Bùn hoạt tính thừa Hình 4. Sơ đồ xử lý phosphrus (P) bằng phương pháp sinh học sử dụng vật liệu bám dính cốt sắt (Fe) không có bùn hoạt tính tuần hoàn Bảng 2 Chỉ số thành phần nước thải Phosphate ( PO43 ), mg/l BOD5 , mg/l NH 4 , mg/l Vào(trước xử lý) 4 - 12 100 - 250 15 - 25 Ra(sau xử lý) KXD** - 1 3 – 10 8 - 12 **KXD - không xác định được trên máy Xử lý thuỷ ngân (Hg) Sử dụng hệ vi sinh bám dính còn có thể loại bỏ được kim loại nặng ra khỏi nước thải. Công nghệ loại bỏ Hg2+ khỏi nước thải xí nghiệp hoá chất bằng vi sinh vật chịu được thuỷ ngân được phát minh và ứng dụng tại Trung tâm công nghệ sinh học GBF, Brauschweig, Đức. Các chủng vi sinh vật dòng Psedomonas được cấy lên các vật liệu bám dính của bể phản ứng sinh học bioreactor. Nước thải công nghiệp hoá chất có nồng độ thuỷ ngân 310mg Hg/l được trung hoà và cung cấp liên tục vào bể bioreactor với lưu lượng 0,7m 3/h 1,2m3/h. Hiệu quả xử lý thuỷ ngân đạt 97% với thời gian xử lý 10h. Nồng độ thuỷ ngân trong nước sau khi xử lý là 50g Hg/l. Trong trường hợp kết hợp bể bioreactor với hấp thụ bằng than hoạt tính, nồng độ thuỷ ngân (Hg) sau khi xử lý đạt 10g Hg/l . 7.CHI PHÍ VẬN HÀNH: Chi phí vốn đầu tư lớn 1800 USD/1 tấn giấy từ cây nguyên liệu và 1000÷1200 USD/1tấn giấy từ bột giấy. Năng lượng sử dụng trong sản xuất giấy bao gồm điện năng (dùng cho động cơ, chiếu sáng, các thiết bị vận hành khác) và nhiệt năng (dầu mỏ, than đá để đốt nồi hơi). Vì vậy, trước tiên phải thực hiện các biện pháp tiết kiệm cả điện năng và nhiệt năng trong sản xuất trước. Các biện pháp có thể áp dụng như sử dụng động cơ có công suất vừa đúng với công suất thiết kế của máy cơ; nên thay động cơ thường bằng động cơ biến tần; hạn chế máy chạy không tải; bố trí hợp lý hệ thống chiếu sáng... Đồng thời thay thế nồi hơi đốt dầu bằng nồi hơi đốt than đá, thường xuyên kiểm tra hệ thống ống dẫn hơi để kịp thời xử lý, thu hồi và sử dụng triệt để nước ngưng tụ... Công ty TNHH Sản xuất thương mại giấy Thiên Trí đã áp dụng bằng cách lắp bộ tiết kiệm điện năng (Power Boss) cho hệ thống máy nghiền thủy lực 75KW. Chi phí lắp đặt thiết bị này khoảng 66 triệu đồng nhưng giúp tiết kiệm được khoảng 10% điện năng, tương đương 53 triệu đồng/năm. Như vậy, chỉ sau 15 tháng, chi phí đầu tư bộ tiết kiệm đã được hoàn vốn. Việc lắp biến tần cho động cơ bơm hút chân không cũng giảm được 25% điện năng tiêu thụ so với trước đó, giúp tiết kiệm khoảng 13,5 triệu đồng/năm. Đặc biệt, giải pháp giàn thu hồi nước ngưng cho dây chuyền xeo giấy giúp tiết kiệm 25% lượng than tiêu thụ hàng năm, tương đương 320 triệu đồng/năm. Việc tiết kiệm không chỉ giúp DN tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả cạnh tranh mà còn giúp giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường đang ở mức báo động hiện nay. 8.CÁC PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG ĐỂ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP LÊN MÔI TRƯỜNG: Nói chung công nghệ sản xuất giấy ở Việt Nam còn ở trình độ rất thấp và chậm phát triển so với khu vực và thế giới. Ngoài các cơ sở lớn ở Bãi Bằng, Tân Mai, Đồng Nai các doanh nghiệp khác đều sản xuất giấy theo phương pháp kiềm không có thu hồi hóa chất nên khó cải thiện chất lượng, giá thành cao và gây ô nhiễm môi trường. Công nghiệp giấy thực chất là ngành sản xuất đa ngành và tổng hợp, sử dụng một khối lượng khá lớn nguyên liệu đầu vào (nguyên liệu từ rừng, các hóa chất cơ bản, nhiên liệu, năng lượng, nước v.v...) so với khối lượng sản phẩm tạo ra (tỷ lệ bình quân vào khoảng 10/1). Quá trình sản xuất bột và giấy đã sinh ra một lượng rất lớn các chất thải ở dạng rắn, lỏng (nước thải) và khí. Tùy thuộc và công nghệ mà lượng nước tiêu hao trong quá trình sản xuất giấy vào khoảng l00 - 500 m3/tấn sản phẩm. ảnh hưởng của sản xuất bột và giấy đến môi trường chủ yếu ở hai công đoạn: nấu bột giấy và tẩy trắng bột giấy. Quá trình nấu bột giấy (bằng phương pháp sunfit hay sunfat) đều thải ra các hợp chất (ở dạng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan