Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học tự nhiên Sinh học Báo cáo chuyên đề thực phẩm biến đổi gen...

Tài liệu Báo cáo chuyên đề thực phẩm biến đổi gen

.DOCX
25
451
131

Mô tả:

Báo cáo chuyên đề thực phẩm biến đổi gen
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TPHCM KHOA CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM  Môn: Công Nghệ Sinh Học BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ Thực Phẩm Biến Đổi Gen Thành viên nhóm Stt 1 2 3 4 5 Tên Nguyễn Thị Diễm My Nguyễn Yhij Thanh Thủy Nguyễn Thị Nơ Phan Thị Yến Đoàn Thị Thúy Lớp DH11DD DH11DD DH11DD DH11DD DH11DD Mssv 11148151 11148223 11148179 11148048 11148225 GVHD: TS TÔN BẢO LINH 02/2012 MỤC LỤC I.GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ I.1. Thực phẩm biến đổi gen là gì? I.2. Vì sao phải sử dụng thực phẩm biến đổi gen? I.3. Sự ra đới của thực phẩm biến đổi gen I.4. Những thục phảm được chọn biến đổi gen II.LỢI ÍCH CỦA THỰC PHẨM BIẾN ĐỔI GEN II.1.Tạo giống cây trồng năng xuất cao, chất lượng tôt, bảo dảm nguồn lương thực, thực phẩm cho toàn cầu II.2. Đảm bảo an ninh lương thực và hạ giá thánh lương thưc trên thế giới II.3. Bảo tồn đa dạng sinh học II.4. Góp phần xóa đói giảm nghèo II.5. Giảm tác hại của các hoạt động nông nghiệp đối với môi trường II.6. Giamr thiểu tác hại của biến đổi khí hậu và giảm lượng hiệu ưng nhà kính II.7. Tăng hệu quả sản xuất nhiên liệu II.8. Góp phần ổn định các lợi ích kinh tế III. NHỮNG TÁC HẠI TIỀM TÀNG CỦA THỰC PHẨM BIẾN ĐỔI GEN III.1. Đối với Con người………………………………………………. II.2. Đối với sự đa dạng sinh học III.3. Đối với môi trường IV.THỰC TRANG VÀ XU HƯỚNG IV.1. Hiện trạng và xu hướng phát triển cây trồng biến đổi gen trên thế giới IV.2. Thực trạng sử dụng thực phẩm biến đổi gen ở EU IV.3. Thực trạng tại Việt Nam IV.4. Một số kiến nghị về việc quản lí thực phẩm biến đổi gen ở Việt Nam I.GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ I.1. Thực phẩm biến đổi gen là gì? - Thuật ngữ thực phẩm biến đổi gien dùng để chỉ những loại cây trồng dành cho con người hoặc gia súc được tạo ra nhờ công nghệ sinh học, để cho những phẩm chất mong muốn như tăng khả năng chống cỏ dại, chống sâu bệnh hay tăng hàm lượng dưỡng chất. -Việc nâng cao chất lượng giống cây trồng thường được thực hiện nhờ phương pháp nhân giống, song phương pháp này tốn nhiều thời gian lại cho kết quả không chính xác. Ngược lại, kỹ thuật biến đổi gien có thể tạo ra giống cây trồng như mong muốn, tốn ít thời gian và có độ chính xác cao. I.2. Vì sao phải sử dụng thực phẩm biến đổi gen? - Ý tưởng chế tạo ra thực phẩm chuyển gen không phải ngẫu nhiên mà có. Đứng trước một thực tế, dân số tăng lên mà lương thực thì đang thiếu vì nhiều lý do nên người ta khao khát có những giống cây trồng vật nuôi có một đặc tính ưu việt nào đó có khả năng cung cấp đủ thực phẩm ăn. Từ đó, người ta muốn có những thực vật có khả năng chịu hạn tốt, những cây trồng có khả năng chống chịu sâu bệnh cao nhằm làm tăng năng suất mùa màng. Do đó mà thực phẩm biến đổi gen ra đời. - Theo tính toán, đến giữa thập kỷ tới, thế giới sẽ có 8-10 tỷ người, yêu cầu tổng lương thực, thực phẩm phải đạt tốc độ tăng trưởng ít nhất 40%, đó là điều khó hiện thực trong tình trạng sản xuất như hiện nay. - Từ tính toán này, giáo sư- tiến sĩ Bùi Minh Đức, Viện Dinh dưỡng (Bộ Y tế), khẳng định: “Sử dụng thực phẩm biến đổi gen là tất yếu đối với loài người trong tương lai gần. Tuy nhiên, cùng đó chúng ta phải thâm canh, tăng năng suất, nhanh chóng áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ để cung cấp tối đa lượng thực phẩm không biến đổi gen, có thể”. Được biết, hiện trong khẩu phần ăn của người dân một số nước châu Á, các nước Canada, Mỹ… thực phẩm biến đổi gen chiếm tỷ lệ khá cao - Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng: Ông Đáng cũng cho biết, việc đưa gen lạ vào cơ thể có thể gây rối loạn trong quá trình chuyển hóa, tạo ra các độc tố. Về vấn đề sử dụng thực phẩm biến đổi gen gây kháng kháng sinh, mặc dù chưa có đủ thông tin khẳng định nhưng những nghiên cứu gần đây cho thấy, chuột ăn ngô biến đổi gen có hiện tượng bị sưng. Điều đó cần có sự nghiên cứu kỹ hơn để có câu trả lời xác đáng. ‫==ڴ‬Vì vậy, việc trả lời câu hỏi về độ an toàn khi sử dụng thực phẩm biến đổi gen cần sớm được quan tâm. I.3. Sự ra đới của thực phẩm biến đổi gen - Phát triển thương mại đầu tiên biến đổi gen cây lương thực là cà chua được tạo ra bởi công ty California vào đầu những năm 1990. Được gọi là FlavrSavr, nó đã được biến đổi gen để nó mất nhiều thời gian để phân hủy sau khi được chọn. - Một loạt cà chua đã được sử dụng để làm cho cà chua xay nhuyễn đã được bán ở châu Âu vào giữa những năm 1990, trước khi tranh cãi đã nổ ra trên cây trồng biến đổi gen. - Sau đó, trong năm 1998, Tiến sĩ Arpad Pusztai, sau đó Viện nghiên cứu Rowett, Aberdeen, công bố nghiên cứu cho rằng khoai tây biến đổi gen, thay đổi với thuốc trừ sâu một gen lấy từ snowdrop, độc hại cho chuột ăn thử nghiệm. Cũng có tranh cãi về vai trò của lao động các nhà tài trợ Lord Sainsbury, bổ nhiệm làm Bộ trưởng khoa học của Tony Blair vào năm 1998. - Mạnh mẽ trong lợi của công nghệ di truyền, ông đã từ bỏ trách nhiệm của Bộ đối với chính sách về vấn đề này sau những cáo buộc của một cuộc xung đột có thể quan tâm. Một số tài sản của ông đã được đầu tư sửa đổi di truyền, mặc dù cổ phần của mình trong một niềm tin mù quáng mà không có kiểm soát. Lao động công bố thử nghiệm quy mô trang trại của cây trồng GM bắt đầu vào năm 1999 để nghiên cứu các loại cây trồng hiệu ứng được thiết kế để có khả năng kháng thuốc diệt cỏ - cho phép một mạnh mẽ, liều được sử dụng - có thể có trên đất nông nghiệp động vật hoang dã. Tuy nhiên, các thử nghiệm đã bị chỉ trích vì mối đe dọa cây trồng lân cận và mật ong thụ phấn chéo. Các nhà phê bình cho biết họ sẽ chỉ cung cấp một cái nhìn rất hạn chế các tác động môi trường tiềm ẩn lâu dài của công nghệ mới. -Trong tháng 9 năm 1999, phấn hoa từ hãm hiếp hạt có dầu của GM, được trồng tại một địa điểm thử nghiệm tại Oxfordshire, đã được tìm thấy tại tổ ong 2,8 dặm. Nghiên cứu được thực hiện bởi các chuyên gia tại Đơn vị nghiên cứu phấn hoa quốc gia của Anh. -Sau đó, tháng năm 2000, mật ong được bán tại các siêu thị đã được tìm thấy bị ô nhiễm với GM phấn hoa từ các thử nghiệm trồng Anh. Hai trong chín mẫu cho thấy ô nhiễm. Một nghiên cứu do Chính phủ tài trợ được tìm thấy chín trong số mười người bị từ chối trồng giống biến đổi gen mà không có bằng chứng hơn nữa về an toàn cho sức khỏe và môi trường. Tuy nhiên, ông Blair tiếp tục bác bỏ cảnh báo và xác định rằng họ sẽ được phát triển ở đất nước này, bị sa thải môi trường của ông Bộ trưởng Michael Meacher tuyên bố vào năm 2003. -Năm 2004, sau đó Bộ trưởng Môi trường Margaret Beckett nói với Commons rằng Chính phủ đã được phê duyệt trồng thương mại của ngô biến đổi gien cho thức ăn chăn nuôi. Nhưng trong vài tuần, công ty đằng sau sản phẩm giảm kế hoạch của mình, nói rằng những hạn chế của Chính phủ về ngô được trồng như thế nào sẽ làm cho nó không kinh tế. Quyết định này được tuyên bố như là một chiến thắng của người tiêu dùng và các nhóm vận động hành lang xanh và các vấn đề của cây trồng GM chủ yếu rơi ra khỏi chương trình nghị sự của Chính phủ. Quyết định cho phép thử nghiệm mới được coi là một động thái thiết lập bandwagon GM cán ở Anh bây giờ mà tranh cãi nóng hổi ít. I.4. Những thực phẩm được chọn biến đổi gen Nổi tiếng trong làng thực phẩm biến đổi gen là câu chuyện của ngô biến đổi gen Bt. Ngô biến đổi gen Bt vốn xuất thân từ một loại ngô bình thường ở châu Âu và Mỹ. Nhưng sau đó ngô này được tích hợp một gen B.t từ vi khuẩn Bacillus thuringiensis trở thành một giống có khả năng chống lại ấu trùng sâu bọ. Năng suất ngô từ giống ngô này được tăng lên rõ rệt. Sau câu chuyện của ngô Bt người ta còn có nhiều loại thực phẩm biến đổi gen khác như cây cải dầu Canada, khoai tây Bt, đậu nành roundup ngô roundup, insulin trị đái tháo đường và men chemotripsin làm pho mát tổng hợp từ vi khuẩn đậu tương và ngô là cây trồng hang đầu được trông rộng rãi nhất (82% của tất cả các loại cây trồng GM thu hoạch năm 2000) , với bong , hạt cải dầu , và khoai tây theo sau Read more: suckhoedoisong.vn II. LỢI ÍCH CỦA THỰC PHẨM BIẾN ĐỔI GEN Thực phẩm biến đổi gen (TPBĐG) được sử dụng rộng rãi, nhằm đề cập đến các loại cây trồng áp dụng kỹ thuật phân tử tiên tiến nhất làm thực phẩm cho con người và gia súc. Các loại cây này được biến đổi gen trong phòng thí nghiệm nhằm tạo ra hoặc tăng cường những đặc điểm mong muốn như sau: II.1. Tạo các giống cây trồng có năng suất cao, chất lượng tốt, bảo đảm nguồn lương thực, thực phẩm trong toàn cầu. + Tạo giống cây trồng có năng suất cao - Chống sâu bệnh, cỏ dại: thực vật chuyển gen có khả năng kháng được nhiều loại sâu bọ, kháng thuốc diệt cỏ… góp phần tăng năng suất cây trồng. Sản lượng thâm hụt do sâu bệnh phá hoại hay cỏ dại lấn át diện tích, gây thiệt hại to lớn cho nông dân và nạn đói ở nhiều nước. Những không ai muốn sử dụng thực phẩm có thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ vì lo ngại tác hại của hoá chất này đối với sức khoẻ và dư lượng thuốc trừ sâu Hình II.1.1: súp lơ biến đổi trong đất cũng gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường. gen Sử dụng những giống cây trồng có khả năng chống sâu (http://www.dinhduong.com.vn bệnh, chống cỏ dại sẽ làm giảm bớt tình trạng nông dân /node/77371) sử dụng nhiều thuốc sâu, thuốc diệt cỏ, đồng thời làm giảm giá thành sản phẩm nông nghiệp. (trích từ Hiện nay việc sử dụng thuốc trừ sâu trên diện rộng đã phá huỷ rất nhiều vùng trồng cây nông nghiệp, hiện nay con người đang sử dụng nguồn gen của vi khuẩn Baccillus thurigiensis để sản xuất ra thuốc trừ sâu tự nhiên gọi là chất độc Bt. Một vài nghiên cứu của Ấn Độ cho thấy, nếu so sánh sản lượng của bông chứa gen Bt với bông không chứa Bt thì sản lượng tăng 30 – 80%. Sự gia tăng này cho thấy sự cải thiện rõ ràng khả năng chống sâu bệnh của cây chuyển gen. Những nghiên cứu về bông Bt được trình bày ở Arizona - Mỹ với ước tính khoảng 5% ứng với 25 – 65 USD cho một mẫu Anh được giảm so với sử dụng thuốc trừ sâu. Một nghiên cứu về tác động của cây trồng chuyển gen đối với môi trường và kinh tế sau 9 năm thực hiện canh tác (1996 – 2004) của Mỹ cho thấy việc ứng dụng cây trồng chuyển gen đã làm giảm lượng thuốc trừ sâu khoảng 172 triệu kg, làm giảm tác động đến môi trường khoảng 14%. Ở Trung Quốc, trong 7 năm nghiên cứu trong các nông trường bông Bt đã chứng minh thành công ban đầu của cây chuyển gen. Nông dân đã giảm việc sử Adụng thuốc trừ sâu cho đến 70% trong khi thu nhập của họ tăng lên 36%. Việc sử dụng bông Bt ở Trung Quốc làm giảm 78.000 tấn thuốc trừ sâu năm 2001. Tuy nhiên, sau đó 4 năm thì lợi ích của bông Bt đã giảm do sự xuất hiện của quần thể côn trùng gây hại khác đã phát triển, và những người nông dân lại phải đấu tranh chống lại bằng cách sử dụng thuốc trừ sâu trên diện rộng. Nó gây ra sự sợ hãi ban đầu cho con người, nhưng nó sẽ được giải quyết khi mà con người tiếp tục nghiên cứu và nhận thức được vai trò của thực vật biến đổi gen. Cây kháng thuốc diệt cỏ (HRC) đã được nghiên cứu từ những năm 1980. Những cây trồng này có khả năng kiểm soát các hoá chất của cỏ dại. HRC có thể sống trên cánh đồng có thuốc diệt cỏ. Tuy nhiên những cây trồng này làm tăng chứ không phải là làm giảm sự hấp phụ của chất hoá học vào trong đất, do đó chúng vẫn còn gây tranh cãi về sự ảnh hưởng của chúng đối với môi trường. (trích từ - Chịu lạnh, chịu hạn và chịu mặn: Tạo ra những giống cây có khả năng sinh trưởng tốt ở vùng đất khô hạn, độ mặn cao hay khí hậu lạnh giá sẽ giúp tăng năng suất. Chẳng hạn như đưa loại gien chống lạnh của cá nước lạnh vào cây thuốc lá và khoai tây, hai loại cây này sẽ chịu được nhiệt độ thấp trong khi thông thường nhiệt độ thấp sẽ làm mầm cây chết rụi. - Giàu dưỡng chất: Gạo là loại thực phẩm chủ yếu ở các nước nghèo, nhưng gạo không có đủ các chất dinh dưỡng cần thiết để chống suy dinh dưỡng cho con người. Nếu gạo được xử lý Hình II.1.2: khoai tây biếến đổi gen gien bổ sung thêm vitamin và khoáng chất thì tình trạng thiếu chất sẽ được (http://www.gdtd.vn/dataimages) cải thiện. Các nhà khoa học Thụy Sĩ đã nghiên cứu ra giống lúa "vàng" chứa tỷ lệ chất beta-caroten (vitamin A) ở tỉ lệ cao, có thể hạn chế các bệnh về mắt. Ngoài ra, giống lúa có tỷ lệ chất sắt cao hơn cũng đang được nghiên cứu. (trich từ + Đảm bảo nguồn lương thực thực phẩm http://bee.net.vn/dataimages /201004/original/images3336 37_Lua_bien_doi_gen.jpg&im grefurl=http://bee.net.vn/cha Thực vật chuyển gen cải thiện được chất lượng thực ph ẩm, làm tăng giá trị dinh dưỡng hoặc những tính trạng thích hợp cho công nghệ chế biến. Ví dụ, nếu chuyển gen, gạo sẽ chứa nhiều vitamin A và khoáng chất hơn, ngô và khoai tây thì chứa nhiều tinh bột hơn, đậu nành và cải dầu chứa nhiều dầu có lợi cho sức khoẻ hơn. Viện khoa học Thuỵ Sỹ đã tạo ra giống lúa vàng “golden rice” chứa hàm lượng vitamin A rất cao nhờ chuyển gen tổng hợp β – caroten c ao gấp 20 lần so với các giống trước đó. Giống gạo vàng này được tạo bằng cách biến đổi hệ gen của lúa bao gồm chuyển một gen tổng hợp enzym phyotene sylthase từ vi khuẩn Narcissus pseudomonarcissus và một gen tổng hợp phyotene desaturase từ vi khuẩn Erwinia uredovora.. Việc chuyển gen này tăng tĩch luỹ β – caroten trong nội nhũ của hạt gạo và từ đó cung cấp cho sự tổng hợp vitamin A trong gan người. ra HinhII.1: Giống lúa vàng của Thụy Sĩ (http:// www.21food.com) Ngoài ra còn hình thức biến đổi gen khác ở lúa là tạo ra giống lúa tăng hấp thu sắt chống lại sự thiếu sắt của gần 30% dân số thế giới. Giống lúa này được tạo ra bằng cách chuyển vào hệ gen của lúa gen ferritin từ một loài họ đậu Paseolus vulgaris để tổng hợp một loại protein giàu cystein có khả năng liên kết chặt chẽ với Fe, và một gen từ nấm Aspergillus fumigatus để tổng hợp một loại enzym có khả năng phân giải phytate (là hợp chất ức chế sự hấp thụ sắt). Bằng công nghệ chuyển gen, con người còn tạo ra những giống cây trồng có thể kéo dài thời gian bảo quản thực phẩm như cà chua “Flarv – Sarv” của công ty Calgene có khả năng giữ cấu trúc rắn chắc trong thời gian dài hơn nhiều so với giống cà chua thông thường. Nhờ vậy mà việc vận chuyển và bảo quản cà chua được cải thiện hơn. Nhiều nghiên cứu trên thế giới còn phân lập được một số gene làm thay đổi màu sắc quả, tăng hàm lượng đường, giảm độ axit, tăng tổng hợp chất thơm trong quả… II.2. Đảm bảo an ninh lương thực và hạ giá thành lương thực trên thế giới GMC có thể giúp ổn định tình hình an ninh lương trên thế giới, bằng cách thực, đồng thời làm giảm lượng nhiên liệu động nông nghiệp, giảm với sự biến đổi khí hậu. tăng thêm nhờ công từ việc tăng năng suất Hình II.2.1: một ruộng lúa biến giảm chi phí sản xuất. đổi gen thực và hạ giá thành lương thực làm tăng nguồn cung lương giảm chi phí sản xuất, từ đó làm đốt cần sử dụng trong các hoạt bớt một số tác động bất lợi gắn Trong số 44 tỷ USD lợi nhuận nghệ sinh học, có 44% lợi nhuận cây trồng, 56% lợi nhuận từ Hướng nghiên cứu mới đối với cây lương thực là phát triển khả năng chịu hạn; các giống cây lương thực mới dự đoán sẽ được trồng ở Hoa Kỳ năm 2012, ở tiểu vùng Sahara thuộc châu Phi năm 2017. II.3. Bảo tồn đa dạng sinh học GMC có lợi tiềm tàng đối với môi trường. GMC giúp bảo tồn các nguồn lợi tự nhiên, sinh cảnh và động, thực vật bản địa. Thêm vào đó, GMC góp phần giảm xói mòn đất, cải thiện chất lượng nước, cải thiện rừng và nơi cư trú của động vật hoang dã. Việc ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp là giải pháp giúp bảo tồn đất trồng, cho phép tăng sản lượng thu hoạch cây trồng trên 1,5 tỷ ha đất trồng hiện có, xoá bỏ tình trạng phá rừng làm nông nghiệp, bảo tồn đa dạng sinh học tại các cánh rừng và khu bảo tồn trên khắp thế giới. Theo ước tính, hàng năm các nước đang phát triển mất khoảng 13 triệu ha rừng vì các hoạt động nông nghiệp. Từ năm 1996 đến 2007, GMC đã bảo vệ 43 triệu ha đất trên thế giới, có tiềm năng rất lớn trong tương lai. II.4. Góp phần xoá đói giảm nghèo 50% những người nghèo nhất trên thế giới là người nông dân ở các nước đang phát triển, nghèo tài nguyên, 20% còn lại là những người nông dân không có đất trồng, phụ thuộc hoàn toàn vào nghề nông.Vì thế, tăng thu nhập cho người nông dân nghèo sẽ đóng góp trực tiếp vào quá trình xoá đói giảm nghèo trên thế giới, tác động trực tiếp đến 70% người nghèo trên toàn thế giới. Tính đến thời điểm hiện tại, các giống bông và ngô biến đổi gen đã mang lại lợi nhuận cho hơn 12 triệu nông dân nghèo ở các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi, Philippin và số người hưởng lợi sẽ cao hơn trong thập niên thứ hai này. Trong đó việc tập trung phát triển các giống gạo biến đổi gen có thể mang lại lợi nhuận cho khoảng 250 triệu hộ nông dân nghèo canh tác lúa ở châu Á. II.5. Giảm tác hại của các hoạt động nông nghiệp đối với môi trường Hoạt động nông nghiệp truyền thống của con người có tác động rất lớn với môi trường. Sử dụng công nghệ sinh học, có thể giảm đáng kể các tác hại đó. Trong thập niên đầu tiên ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ tiên tiến này đã giúp giảm lượng lớn thuốc trừ sâu, giảm lượng xăng dầu cần sử dụng trong các hoạt động nông nghiệp, giảm lượng khí CO2 thải ra môi trường do cày xới đất, bảo tồn đất và độ ẩm nhờ phương pháp canh tác không cần cày xới, giúp đất trồng hấp thu được một lượng lớn khí CO2 từ không khí. Tổng lượng thuốc trừ sâu cắt giảm trong khoảng thời gian từ 1996 đến 2007 ước tính đạt 359 ngàn tấn thành phần kích hoạt (a.i.), tương ứng với 9% lượng thuốc trừ sâu cần sử dụng, làm giảm 17,2% các tác hại đối với môi trường, tính theo chỉ số tác hại môi trường (EIQ). Trong năm 2007, công nghệ sinh học đã làm giảm 77.000 tấn thuốc trừ sâu sử dụng trong nông nghiệp (tương đương với 18% lượng thuốc trừ sâu sử dụng), chỉ số EIQ giảm 29% (Brooks và Barfoot, 2009). II.6. Giảm thiểu tác hại của biến đổi khí hậu và giảm lượng khí gây hiệu ứng nhà kính (GHG) GMC có thể giúp giải quyết những lo ngại lớn nhất về môi trường: giảm thiểu các loại khí gây hiệu ứng nhà kính, giảm thiểu tác động của thay đổi thời tiết. Thứ nhất, giảm lượng khí CO2, làm giảm lượng nhiên liệu hoá thạch, giảm lượng thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ. Theo đánh giá, GMC đã làm giảm khoảng 1,1 tỷ kg khí CO2 thải ra từ các hoạt động nông nghiệp, tương đương với cắt giảm 500 ngàn xe ôtô lưu thông trên đường. Thứ hai, phương pháp canh tác không cần cày xới nhờ công nghệ sinh học làm giảm thêm 13,1 tỷ kg khí CO2, tương đương với giảm 5,8 triệu xe ôtô lưu hành trên đường. Như vậy, trong năm 2007, tổng lượng khí CO2 mà công nghệ sinh học làm giảm trên toàn thế giới đạt mức 14,2 tỷ kg, tương đương với loại bỏ 6,3 triệu xe ôtô (Brooks và Barfoot, 2009). II.7. Tăng hiệu quả sản xuất nhiên liệu sinh học Công nghệ sinh học có thể giúp tối ưu hoá chi phí sản xuất nhiên liệu sinh học thế hệ thứ nhất và thứ hai, nhờ tạo ra các giống cây chịu tác động của môi trường (khô hạn, nhiễm mặn, nhiệt độ khắc nghiệt…) hoặc các tác động của sinh vật (sâu bệnh, cỏ dại…), nâng cao năng suất thu hoạch của cây trồng, bằng việc thay đổi cơ chế trao đổi chất của cây. Sử dụng công nghệ sinh học, các nhà khoa học cũng có thể tạo ra những enzym đẩy nhanh quá trình chuyển hoá của nguyên liệu sản xuất thành nhiên liệu sinh học. II.8. Góp phần ổn định các lợi ích kinh tế Khảo sát gần đây nhất về tác động của GMC trên toàn cầu từ năm 1996 đến 2007 (Brooks và Barfoot, 2009) cho thấy lợi nhuận mà GMC mang lại cho riêng những người nông dân trồng chúng trong năm 2007 đạt 10 tỷ USD (6 tỷ USD ở các nước đang phát triển, 4 tỷ USD ở các nước công nghiệp). Tổng lợi nhuận trong giai đoạn 1996 - 2007 đạt 44 tỷ USD, từ các nước đang phát triển và nước công nghiệp. (trích từ loai.html) http://www.nongnghiep.tk/2011/10/voi-viec-cho-thu-nghiem-buoc-au-ba- III. NHỮNG TÁC HẠI TIỀM TÀNG CỦA THỰC PHẨM BIẾN ĐỔI GEN Những mối tác hại tiềm tàng của cây trồng biến đổi gen thể hiện ở những khía cạnh sau: III.1. Đối với Con người Bên cạnh những lợi ích cơ bản của GMO, theo nhiều nhà khoa học thế giới, thì loại thực phẩm này cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ ảnh hưởng lâu dài tới sức khỏe cộng đồng, như khả năng gây dị ứng, làm nhờn kháng sinh, có thể tạo ra độc tố và gây độc lâu dài cho cơ thể, v.v... Đây là một trong những tranh luận chủ yếu và vấn đề chỉ được tháo gỡ khi chứng tỏ được rằng sản phẩm protein có được từ sự chuyển đổi gen không phải là chất gây dị ứng. Gen kháng sinh có thể được chuyển vào các cơ thể vi sinh vật trong ruột của người và động vật ăn thành phẩm biến đổi gen. Điều này có thể dẫn tới việc tạo ra các vi sinh vật gây bệnh có khả năng kháng thuốc. Việc chuyển đổi gen từ thực phẩm biến đổi gen vào tế bào cơ thể con người hay vào vi trùng trong đường ruột cơ thể người là mối quan tâm thực sự, nếu như sự chuyển đổi này tác động xấu tới sức khỏe con người. Nguy hiểm chính là sự xung đột trong các tế bào bị đột biến. Khi một loài mới được sinh ra bằng phương pháp gây đột biến, chúng sẽ không trải qua quá trình thay đổi dần dần để thích nghi với môi trường chung sống. Chính vì vậy, chúng sẽ gây nên chuỗi phản ứng bài trừ tiêu diệt lẫn nhau và rất có thể nguy hiểm cho người, vật khi sử dụng. Ví dụ: Năm 1998, một giáo sư chuyên nghiên cứu về công nghệ gen hàng đầu nước Anh là Arpad Pusztai đã công bố nghiên cứu của mình. Nghiên cứu của ra rằng loài chuột bạch sau 1 thời gian dụng khoai tây đột biến gen sẽ có đầu các loài chuột thông thường. Gan, tim, hệ thống miễn dịch sẽ bị tổn hại. kết quả ông chỉ dài sử nhỏ hơn thận và Một báo cáo của viện khoa học quốc gia Mỹ cho biết, lợn ăn ngô biến đổi gen ở nông trại miền Trung, miền Tây nước Mỹ có tình trạng mang thai giả hoặc bị vô sinh. Gà ăn thức ăn từ thực phẩm biến đổi gen có tỷ lệ chết cao gấp đôi những con gà ăn bằng thức ăn tự nhiên. Ngay tại Trung Quốc, giống ngô đột biến “tiên ngọc 335” được chứng minh là nguyên nhân dẫn đến sự biến mất của loài chuột đồng. Tại thị trường Anh, người ta đã chứng minh được việc gia tăng 50% bệnh dị ứng là do ăn đậu tương đột biến gen. Tháng 5/2009, Hội Y học Môi trường và Khoa học Mỹ (AAEM) cho biết: “Một số nghiên cứu về động vật cho thấy ăn thực phẩm biến đổi gen có rủi ro lớn đối với sức khỏe” như gây vô sinh, giảm miễn dịch, đẩy nhanh tốc độ lão hóa. II.2. Đối với sự đa dạng sinh học Nguy cơ GMC có thể phát tán những gen biến đổi sang họ hàng hoang dã của chúng, sang sâu bệnh có nguy cơ làm tăng tính kháng của chúng đối với đặc tính chống chịu sâu bệnh, thuốc diệt cỏ hoặc làm tăng khả năng gây độc của GMC đối với những loài sinh vật có ích. Dưới sức ép của chọn lọc tự nhiên, côn trùng sẽ trở lên kháng các loại thuốc diệt côn trùng do cây trồng tạo ra và gây thiệt hại cho cây trồng. Giải pháp GMC không bền vững cho một số vấn đề như kháng sâu bệnh, vì các loại dịch hại này có thể tái xuất hiện do bản chất di truyền thích ứng với môi trường của chúng. Cây trồng kháng sâu có khả năng tiêu diệt các loại côn trùng hữu ích khác như ong, bướm, v.v... làm ảnh hưởng đến chuỗi thức ăn tự nhiên, ảnh hưởng đến đa dạng sinh học nói chung. Việc trồng GMC đại trà, tương tự như việc phổ biến rộng rãi một số giống năng suất cao trên diện tích rộng lớn, sẽ làm mất đi bản chất đa dạng sinh học của vùng sinh thái, ảnh hưởng đến chu trình nitơ và hệ sinh thái của vi sinh vật đất. III.3. Đối với môi trường Nguy cơ đầu tiên là việc GMC mang các yếu tố chọn lọc (chịu lạnh, hạn, mặn hay kháng sâu bệnh…) phát triển tràn lan trong quần thể thực vật. Điều này làm mất cân bằng hệ sinh thái và làm giảm tính đa dạng sinh học của loài cây được chuyển gen. Nguy cơ thứ hai là việc GMC mang các gen kháng thuốc diệt cỏ có thể thụ phấn với các cây dại cùng loài hay có họ hàng gần gũi, làm lây lan gen kháng thuốc diệt cỏ trong quần thể thực vật. Việc gieo trồng GMC kháng sâu bệnh trên diện rộng, Ví dụ: kháng sâu đục thân, có thể làm phát sinh các loại sâu đục thân mới kháng các loại GMC này. Việc sử dụng thuốc trừ sâu sinh học Bt đã cho phép phòng trừ hiệu quả sâu bệnh, nhưng sau 30 năm sử dụng, một số loại sâu bệnh đã trở nên nhờn thuốc ở một vài nơi. Nguy cơ cuối cùng là việc chuyển gen từ cây trồng vào các vi khuẩn trong đất. Tuy nhiên, khả năng xảy ra điều này là vô cùng nhỏ. Hiện nay, các chuyên gia công nghệ sinh học đang cố gắng giảm thiểu các rủi ro nêu trên và theo dõi cẩn thận các thử nghiệm GMC trong phòng thí nghiệm, cũng như ngoài đồng ruộng trước khi đưa ra thị trường thương mại.. Một mối nguy hiểm khác khiến các chuyên gia lo ngại là khả năng làm ô nhiễm nguồn gen tự nhiên ảnh hưởng đến sinh thái. Cũng như tất cả các cây trồng tự nhiên, các sản phẩm đột biến cũng có quá trình sinh trưởng, thụ phấn. Trong quá trình này, các gen đột biến có thể sẽ lây lan sang các loài thực vật tự nhiên khác bằng con đường phát tán của gió hay côn trùng. Điều này dẫn đến việc làm ô nhiễm nguồn gen tự nhiên. Hệ lụy tất yếu sẽ dẫn tới là khủng hoảng sinh thái. Các gen có nguồn gốc bên ngoài được cấy vào cây trồng biến đổi gen có thể tiếp tục di chuyển sang cây Nói tóm lại, nếu được thiết kế và sử dụng đúng phương pháp, thì có thể quản lý đựợc các nguy cơ của GMC đối với môi trường một cách hiệu quả. Tài liệu tham khảo: http://isponre.gov.vn/home/dien-dan/418-tinh-hinh-san-xuat-sinh-vat-bien-doi-gen-trenthe-gioi-va-quan-diem-cua-cac-nuoc-thuoc-lien-minh-chau-au http://tamnhin.net/Cuoc-song-xanh/10778/Thuc-pham-bien-doi-gen--hiem-hoa-tiemtang.html IV.THỰC TRANG VÀ XU HƯỚNG IV.1. Hiện trạng và xu hướng phát triển cây trồng biến đổi gen trên thế giới Công nghệ sinh học đã có những bước tiến nhảy vọt góp phần mang lại những thành tựu to lớn cho loài người. Trong 13 năm, từ 1996 đến 2008, số nước trồng GMC đã lên tới con số 25 - một mốc lịch sử - một làn sóng mới về việc đưa GMC vào canh tác, góp phần vào sự tăng trưởng rộng khắp toàn cầu và gia tăng đáng kể tổng diện tích trồng GMC trên toàn thế giới lên 73,5 lần (từ 1,7 triệu ha năm 1996 lên 125 triệu ha năm 2008). Trong năm 2008, tổng diện tích đất trồng GMC trên toàn thế giới từ trước tới nay đã đạt 800 triệu ha. Năm 2008, số nước đang phát triển canh tác GMC đã vượt số nước phát triển trồng loại cây này (15 nước đang phát triển so với 10 nước công nghiệp), dự đoán xu hướng này sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới nâng tổng số nước trồng GMC lên 40 vào năm 2015. Mặc dù, diện tích đất trồng và số nước trồng GMC tăng lên dữ dội trên toàn cầu, đặc biệt là các nước thuộc EU. Tuy nhiên, việc sử dụng GMO và sản phẩm của chúng ở EU đang dè dặt và rất thận trọng ở các quốc gia này IV.2. Thực trạng sử dụng thực phẩm biến đổi gen ở EU Chính phủ các nước EU cho rằng, trong khi chưa có các bằng chứng xác định về tính an toàn của các GMO, tạm thời cấm trồng cây và nuôi gia súc biến đổi gen trên lãnh thổ châu Âu. Mức độ phản ứng của các Chính phủ EU rất khác nhau. Một số nước châu Âu đã có quy định cho các sản phẩm biến đổi gen. Một cuộc điều tra năm 2002 cho thấy, 97% người tiêu dùng châu Âu mong muốn các sản phẩm biến đổi gen được dán nhãn rõ ràng, 80% hoàn toàn không thích sản phẩm biến đổi gen. Tuy nhiên, sau khi 133 nước đã thông qua Nghị định thư Cartagena, đã xuất hiện một số xu hướng tích cực trong việc phát triển và thương mại cây trồng và sản phẩm biến đổi gen. Các nước đều nhất trí là không sử dụng các gen kháng sinh làm các chỉ thị chọn lọc cho GMC. Các nước châu Âu cuối cùng đã đồng ý nhập khẩu sản phẩm biến đổi gen của Hoa Kỳ, với điều kiện tất cả các sản phẩm này phải được dán nhãn. Theo các nước châu Âu, người tiêu dùng có toàn quyền lựa chọn xem có nên mua sản phẩm biến đổi gen hay không, và do đó các sản phẩm biến đổi gen phải được dán nhãn. Từ ngày 9/12/2002, các nước thành viên EU đã đưa ra Quy định mới về thực phẩm biến đổi gen, yêu cầu các thực phẩm biến đổi gen phải được dán nhãn mang mã số riêng để có thể truy nguyên nguồn gốc và đưa ra khỏi các cửa hàng trong trường hợp có vấn đề. Trước đó, các Bộ trưởng nông nghiệp EU đã nhất trí quy định, các sản phẩm có thành phần biến đổi gen dưới 0.9% không bị coi là thực phẩm biến đổi gen và không cần phải dán nhãn. Như vậy, quan điểm của các khối (nhất là giữa châu Âu và Hoa Kỳ) đã xích lại gần nhau một cách đáng kể. Việc này sẽ thúc đẩy các nghiên cứu công nghệ sinh học và triển khai GMC lên một tầm cao mới. Các nhà khoa học, nhất là các công ty công nghệ sinh học sẽ phải tuân theo một pháp chế nghiêm ngặt khi tiến hành thử nghiệm và triển khai GMC, có nghĩa là cần phải có thời gian nhất định để phát triển và bổ sung trước khi chấp nhận GMC là sản phẩm hàng hóa. Tuy vậy, việc sử dụng GMO ở các nước EU vẫn là vấn đề gây tranh cãi. Ủy ban châu Âu cùng với các viện, cơ quan quốc gia đã tiến hành các cuộc thăm dò ý kiến người tiêu dùng hàng năm để tìm hiểu ý kiến đại diện và xác định khuynh hướng và các chỉ số chung. Phần lớn người tiêu dùng vẫn còn ngần ngại về GMO, tuy nhiên vẫn chấp nhận việc nghiên cứu và canh tác các GMC. Những cuộc thăm dò gần đây cho thấy, thái độ người tiêu dùng đã thay đổi, khoảng một nửa người tiêu dùng đã chấp nhận GMO, đặc biệt là khi lợi ích của người tiêu dùng và môi trường có thể liên kết với sản phẩm GMO. Năm 2007, 80% người được phỏng vấn đã không phê phán việc sử dụng GMO trong nông nghiệp vì lợi ích môi trường. Nhiều người tiêu dùng dường như không còn lo ngại đến rủi ro tiềm tàng của GMO đối với sức khỏe và không chủ động lảng tránh các sản phẩm GMO trong khi mua bán. Một cuộc thăm dò ý kiến của các nước EU về việc sử dụng sản phẩm GMO được tiến hành vào tháng 11-12/2007 được thể hiện như sau: Theo cuộc điều tra này cho thấy, phần lớn người châu Âu tuyên bố phản đối việc sử dụng GMO (58%), trong khi có khoảng 21% ủng hộ, còn khoảng trên 9% nói rằng họ chưa bao giờ nghe nói về GMO. Mức độ phản đối GMO khác nhau ở các nước. Nước phản đối mãnh mẽ nhất là Slovenia (82%), Cyprus (81%). Nước ủng hộ cao nhất là Malta và Bồ Đào Nha (28%). Việc phân tích thành công nhất của cuộc thăm dò này là tìm hiểu được các ý kiến phản đối hay ủng hộ có liên quan đến mối quan tâm của dân chúng hoặc thiếu thông tin về việc sử dụng GMO như sau: IV.3. Thực trạng tại Việt Nam ở Việt Nam chủ yếu là cây trồng biến đổi gen:  Cây trồng biến đổi gene và tương lai ở Việt Nam (05-10-2011 ) Các nhà khoa học hôm nay bắt đầu thảo luận về tương lai trồng đại trà thực vật biến đổi gene ở Việt Nam, cũng như các tác động tốt và xấu của nó tới đời sống, kinh tế và sức khỏe con người. Cuộc thảo luận này do Hội liên hiệp các tổ chức khoa học kỹ thuật tổ chức, sau khi có thông tin cây trồng biến gene có thể được đưa vào sản xuất ở Việt Nam năm 2012.  Theo Viện Chiến lược, chính sách Tài nguyên và Môi trường Việt Nam (IPONRE), cây thuốc lá biến đổi gene là GMC đầu tiên được trồng thử nghiệm trên đồng ruộng. Các nhà khoa học gây biến đổi gene ở cây thuốc lá để chúng kháng thuốc diệt cỏ, rồi trồng thử nghiệm tại Mỹ và Pháp vào năm 1986. Một thập kỷ sau đó cây trồng biến đổi gene bắt đầu được trồng đại trà với mục đích thương mại. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ, GMC cũng trở thành chủ đề gây tranh cãi trên phạm vi toàn cầu. Thực tế cho thấy GMC mang đến nhiều lợi ích - như làm tăng nguồn cung lương thực và giảm chi phí sản xuất, bảo tồn đa dạng sinh học, tăng thu nhập cho người nghèo, giảm tác hại của hoạt động sản xuất nông nghiệp đối với môi trường, hạn chế tác hại của biến đổi khí hậu. Song một bộ phận giới khoa học lo ngại chúng có thể gây nên những nguy mà con người chưa biết - như tăng nguy cơ dị ứng, làm nhờn kháng sinh, gây độc cho cơ thể người. Một báo cáo của Liên minh châu Âu, được công bố vào năm 2007, dự đoán rằng tới năm 2015, hơn 40% số cây trồng biến đổi gene trên thế giới sẽ được trồng tại châu Á. Tại Việt Nam, cây trồng biến đổi gene đã được đưa vào thử nghiệm trong 5 năm qua. Tháng 8/2009, một hội nghị bàn về tương lai của việc trồng đại trà cây biến đổi gene được tổ chức để bàn về khả năng trồng, thương mại hóa và quản lý các rủi ro có thể xảy ra khi sử dụng cây trồng đổi gene. Trang tin của Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia cho hay, Bộ Nông nghiệp và phát tiển nông thôn đã cho phép các tập đoàn lớn của thế giới về cây trồng biến đổi gen nhập sản phẩm vào nước ta để khảo nghiệm trên diện rộng và bước đầu cho kết quả khá suôn sẻ đối với cây ngô. Trên thế giới các cây GMC được trồng nhiều nhất là ngô, đậu tương, cây bông vải và cây cải dầu. Kết quả khảo nghiệm, theo Bộ Nông nghiệp, là suôn sẻ, và vì vậy Việt Nam sẽ đề nghị trồng đại trà từ năm 2011 :  Thực phẩm biến đổi gene có mặt ở TP HCM Hơn 1/3 trong số 323 mẫu gạo, củ, quả được chọn ngẫu nhiên ở các chợ, siêu thị TP HCM bị biến đổi gene, một khảo sát của Trung tâm Đo lường 3 vừa tiết lộ. Những sản phẩm này khó có thể nhận biết bằng mắt thường. 323 mẫu trên gồm nguyên liệu, sản phẩm sơ chế, chế biến có nguồn gốc từ bắp, đậu nành, khoai tây, gạo, đậu hà lan... được thu thập từ 17 chợ, siêu thị ở TP HCM, để kiểm tra tình trạng biến đổi gene, do Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 3 thực hiện từ tháng 3 đến tháng 4/2009. Kết quả cho thấy có 111 mẫu (chiếm 34,37%) dương tính với promoter 35S hoặc terminator nos - một dạng biến đổi gen. Trong đó có 45 mẫu bắp, 29 mẫu đậu nành, 11 mẫu gạo, 15 mẫu khoai tây, 10 mẫu cà chua. Đề tài vừa hoàn tất được gửi Sở Khoa học và Công nghệ thẩm định và sẽ đưa ra Hội đồng khoa học trong thời gian tới. Mục đích của đề tài là để tham vấn cho các nhà quản lý trong việc đưa ra quy định về quản lý thực phẩm biến đổi gene. Nhóm thực hiện đề tài kết luận: "Trên thị trường TP HCM đã có sự hiện diện của GMO (biến đổi gen) trong nông sản nguyên liệu và một số sản phẩm chế biến". Một số mẫu cà chua, khoai tây ở TP HCM đã được biến đổi gene.. IV.4. Một số kiến nghị về việc quản lí thực phẩm biến đổi gen ở Việt Nam Mặc dù, công nghệ sinh học là công cụ hữu hiệu đã tạo ra các GMO để giải quyết các vấn đề kinh tế, môi trường và xã hội, đặc biệt là trong nông nghiệp và an ninh lương thực. Tuy nhiên, để tiếp nhận và triển khai một cách hiệu quả, bảo đảm an toàn về sức khoẻ,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan