BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
ĐỀ TÀI : NĂM THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
LỚN NHẤT THẾ GIỚI
GIẢNG VIÊN:
THẦY: TRẦN HẢI BẰNG
LỚP : CDKT13D
SINH VIÊN: 1,NGUYỄN THỊ THÙY DƯƠNG
2,MAI THỊ PHƯƠNG TRANG
3,VÕ THỊ KIỀU TRÂM
4,LÝ SƠN BẢO TRÂM
5,LÊ THỊ TÂM
6,VŨ THỊ NGA
I,THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN NEW YORK - NYSE EURONEXT
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
NEW YORK
Cách đây khoảng 250 năm, Wall Street chỉ là một con đường mòn bụi bặm trải
dài từ đỉnh đồi nhà thờ Trinity xuống đến bến cảng Manhattan’s East River. Tại
đây, “thị trường chứng khoán” đầu tiên của Hoa Kỳ được hình thành trên những
cầu tầu. Thời kỳ phôi thai đó, những chứng khoán (securities) đơn thuần là
những mảnh giấy xác nhận sở hữu chủ hoặc những tờ hoá đơn giao hàng hoá từ
những chuyến tàu cặp bến từ bên kia Đại Tây Dương đến. Lúc đó tiền giấy còn
mới mẻ nên chẳng ai tin tưởng mà sử dụng cả. Đơn vị quốc tế để giao dịch là
những thỏi bạc, có lẽ vàng khá hiếm hoi vào lúc đó. Khi cần thiết, thỏi bạc được
cắt ra thành một nửa, một phần tư, hoặc 1/8 gọi là “doubloons” để mua hàng.
Đó là lý do tại sao thông lệ buôn bán chứng khoán theo lối lẻ 1/2, 1/4, 1/8, 1/16
v.v... được lưu truyền mãi cho đến tận năm 2001 mới được chính thức đổi theo
hệ thống thập phân như bây giờ.
Mùa xuân năm 1792, 24 nhân vật “đầu nậu” tại bến cảng ngồi lại với nhau để ký
kết một bản thoả ước đầu tiên làm nền tảng cho New York Stock Exchange
(NYSE) sau này. Bản thoả ước này được hình thành dưới một gốc cây bồ đào
tại địa chỉ sau này là số 68 Wall Street. Để tránh xáo trộn và đôi khi tranh chấp
có thể bùng nổ làm nguy hại cho hoạt động làm ăn chung, họ đồng ý ấn định
một hình thức giá cả lệ phí trao đổi chung và cố định, một chính sách đã được
áp dụng mãi tận 1975, khi lệ phí trở nên có thể uyển chuyển hơn và các nhà
buôn chứng khoán có thể thương lượng riêng với nhau được. Năm 1800, nhóm
NYSE này dọn vào địa chỉ số 40 Wall Street, cho đến năm 1963 thì dọn về địa
điểm hiện nay tại số 11 đường Wall Street, New York.
Khi nói đến TTCK New York, người ta thường hình dung trụ sở của New York
Stock Exchange NYSE - Sở Giao dịch chứng khoán New York. Ở đó có ba khu
mua bán chứng khoán, gọi là các sàn giao dịch mà cái sàn lớn nhất du khách
thường được dẫn đến xem là một khu gần như vuông khoảng 40 m mỗi chiều và
cao khoảng 25 m, trong đó có 14 quầy hình móng ngựa trading posts bán các
loại chứng khoán khác nhau tùy theo công ty và loại hàng. NYSE là một trong
những nơi mua bán chứng khoán nhiều nhất thế giới.
Năm 1900, khi trụ sở hiện thời được xây xong, thì ở vỉ ruồi nằm trên sáu cột trụ
kiểu Côrin Corinthian mặt trước trụ sở phần tam giác giống đầu hồi căn nhà,
người ta đắp một bức phù điêu trong đó có các mô hình tượng trưng cho nông
nghiệp, hầm mỏ, khoa học, công nghiệp và phát minh là những nguồn gốc tạo
nên sự giàu có của nước Mỹ. Điều đáng chú ý là tượng cao nhất đứng ở giữa
bức phù điêu là tượng của một người đàn bà tượng trưng cho sự liêm chính, bên
cạnh bà là hai người đàn ông nhỏ hơn, một người nhận và một người ghi sổ các
sản phẩm được người khác đưa cho bà ta. Sự liêm chính là luật pháp chi phối
các quy định của TTCK New York làm cho những điều tốt đẹp sẽ đến với thị
trường này. Đó là quan niệm của những người chủ xướng bức phù điêu. TTCK
và Sở Giao dịch New York có một lịch sử dài trải qua những thời kỳ chính như
sau.
Thuở ban đầu 1790-1792
Từ năm 1790, chính quyền Liên bang Mỹ đã phát hành trái phiếu chính phủ
công trái - public stock lên đến 80 triệu USD để tài trợ cho các dự án của nhà
nước. Công trái khi bán cho những người mua đầu tiên đãtạo nên thị trường sơ
cấp primary market ; lúc những người này bán lại cho nhiều người khác thì sự
mua bán ấy tạo nên thị trường thứ cấp secondary market. Cùng lúc với chính
phủ bán công trái, các công ty bảo hiểm và ngân hàng cũng bán cổ phiếu. Việc
buôn bán diễn ra ở nhiều nơi nhưng ở New York là nhộn nhịp nhất. Vì bên bán
không ra mặt nên việc bán cho công chúng do các người môi giới broker thực
hiện. Từ ĩbrokerô được dùng từ khoảng năm 1622, lúc đầu nó chỉ những người
bán rượu nho lẻ, người phải phá break cái đai thùng gỗ để chiết rượu.
Đi vào tổ chức 1792-1817
Khi công trái được mua bán trên đường phố thì có nhiều người, nhiều giới tham
gia nhưng mỗi giới làm một cách khác nhau theo sáng kiến của họ nên rất lộn
xộn. Vì thế, ngày 17-5-1792, 24 người môi giới mua bán nhiều nhất ở New
York cùng nhau ký một hợp đồng cam kết ngăn chặn sự độc quyền mua bán
công trái của những người bán đấu giá. Họ đồng ý không tranh nhau để đấu giá,
lấy hoa hồng ít khi mua bán, và tôn trọng quyền lợi của nhau.
Sau khi người Anh thua trong cuộc chiến duy trì thuộc địa, New York trở thành
trung tâm thương mại và cảng quốc tế. Nhiều ngân hàng và công ty bảo hiểm
được lập ở đó nên TTCK ngày càng nhộn nhịp. Nhiều loại chứng khoán được
hai, ba tổ chức khác nhau bán. Đến ngày 8-3-1817 các người môi giới họp nhau
lại, định ra kỳ hạn gặp nhau và lập nên Sở Chứng khoán và Giao dịch New
York New York Stock & Exchange Board - NYS&EB, đặt ở 40 phố Wall Street
và hoạt động theo những tập tục như ở Paris, London và Amsterdam. NYS&EB
là một hội tư nhân, cung cấp các phương tiện và đặt ra nội quy cho việc mua
bán chứng khoán. Hội đề ra những quy định chi tiết về việc mua bán, mức hoa
hồng và sự cam kết giao hàng. Hội cấm ký kết các hợp đồng ma để không làm
thương tổn sự liêm chính của mình và của thị trường. Muốn thành hội viên, ứng
viên phải được hội viên cũ giới thiệu và phải qua bỏ phiếu chấp nhận. Để giữ
gìn uy tín, hoạt động của hội viên, từ lời nói đến trang phục đều được quy định
chặt chẽ và có hình phạt.
Phát triển hoạt động 1817-1884
Sau cuộc nội chiến, cuộc chiến tranh với Mexico, việc tìm thấy vàng ở
California và phát minh ra điện tín trong những năm từ 1842-1853 ; hoạt động
thương mại ở New York ngày càng phát triển. TTCK cũng mở rộng theo.
NYS&EB chính thức hóa việc niêm yết listing chứng khoán như là một thủ tục
để các công ty chứng tỏ cổ phiếu của họ có đủ điều kiện mua bán. Trước khi có
những thủ tục này, những công ty nào có sổ chuyển nhượng chứng khoán để ở
New York thì chứng khoán của họ có thể được hội viên của NYS&EB đặt mua
hay bán tùy theo ý thích của những người này. Thư ký giữ sổ sẽ ghi việc chuyển
nhượng của người cũ và viết cổ phiếu cho người mới. Năm 1853, NYS&EB
buộc các công ty muốn cho cổ phiếu được niêm yết phải công bố số vốn, số cổ
phiếu và ngân quỹ đã được xác nhận.
Nước Mỹ tiếp tục phát triển, đường xe lửa được nối từ đông sang tây, TTCK
New York là nơi làm trung gian cung cấp tài chính cho những công trình ấy, và
bản thân nó cũng mở rộng theo. Số hội viên từ 533 tăng lên 1.060 vào năm
1868. Ít lâu sau, NYS&EB nhập chung với một tổ chức khác chuyên bán công
trái, nó đổi tên thành New York Stock Exchange NYSE, là cái tên tồn tại cho
đến ngày nay. Việc điều hành NYSE do một ủy ban phụ trách. Nhiều tập tục,
tiếng lóng sử dụng giữa các hội viên ở sàn bán chứng khoán được lập và trở
thành truyền thống. Thí dụ, đơn vị lẻ của một đô-la được chia làm tám khấc hay
phân, thay vì 10 đơn vị, mỗi khấc là 0,125 thay vì 0,100 ; cách phân chia này là
do tập tục trong việc chia cắt bạc mà ra. Trong tiếng Anh người ta viết là 1/8 ;
thí dụ 301/8, tức là 30,125 ở đây, để cho gọn, chúng ta dùng hai số lẻ cho nên số
trên là 30,12. Hay từ "ball" để chỉ giá cả lên, từ "bear" chỉ giá cả xuống. Văn
phòng của các người môi giới tuy mở rộng cho công chúng, nhưng họ chỉ nhận
lệnh đặt mua bán chứng khoán của những ai quen thuộc, hay được giới thiệu
cẩn thận ; và được biết chắc về tài khoản ở ngân hàng cùng tinh thần trách
nhiệm đối với tiền bạc của những người này. Vào thời đó chính uy tín của người
mua bán quyết định việc họ được tham gia TTCK hay không. Mãi sau này, sau
khi dân chúng có trình độ học vấn cao, lợi tức nhiều và biết nhiều hơn về chứng
khoán, việc mua bán chứng khoán mới trở nên rộng rãi.
Phát triển luật lệ 1844-1934
NYSE càng có nhiều người tham dự hơn khi điện tín do Morse phát minh được
đưa vào sàn giao dịch năm 1844, liên lạc liên lục địa được nối năm 1866, điện
thoại được đặt năm 1878 và băng báo giá cả chứng khoán stock ticker được phát
minh vào năm 1867.
Dù vậy, cho đến năm 1890, hoạt động của thị trường vẫn chỉ do một nhóm nhỏ
tài phiệt chi phối. Họ làm mưa làm gió trên thị trường. Luật công ty lúc đó chưa
chặt chẽ lắm nên đã xảy ra những chuyện lừa đảo, như tài sản công ty chẳng có
bao nhiêu mà bán cổ phiếu với giá cao. Vào năm 1867, có vài tay nổi tiếng như
James Fisk Jr., Jay Gould đã làm việc này. Để ngăn chặn, NYSE buộc các
chứng khoán đã được niêm yết phải được đăng ký ở một cơ quan như ngân
hàng. Trách nhiệm của người đăng ký là bảo đảm chứng khoán đã chuyển
nhượng được ghi vào sổ, và số chứng khoán giao cho người mua phải ngang với
số bị hủy vì đã bán ; và số chứng khoán lần đầu phải nằm trong phạm vi số vốn
công ty được phép gọi authorized capital. Ngoài ra, đơn xin niêm yết cũng được
một ban riêng kiểm tra chặt chẽ trước khi Ủy ban điều hành chấp nhận.
Hoàn chỉnh từ 1934 trở đi
Với những quy định nội bộ như thế nhằm bảo đảm uy tín của mình, NYSE đã
trải qua những giai đoạn thăng trầm của chủ nghĩa tư bản nói chung và của nước
Mỹ nói riêng vào cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, rồi thế chiến thứ nhất, cuộc
khủng hoảng kinh tế từ năm 1929-1933 và thế chiến thứ hai. Từ từ, hoạt động
của NYSE được chính quyền hỗ trợ và được củng cố. Hệ thống ngân hàng dự
trữ liên bang được lập năm 1914, rồi Ủy ban Giao dịch chứng khoán ra đời năm
1934 phụ trách đăng ký chứng khoán. Đồng thời NYSE từ một "hội tư nhân
mang trên mình quá nhiều lợi ích chung" trở thành một tổ chức hoạt động quy
củ có chủ tịch hưởng lương, một hội đồng điều hành bao gồm nhiều đại diện
những người môi giới, và một bộ phận nhân viên hành chính hưởng lương quản
lý hoạt động của sàn giao dịch như thấy ngày nay.
Vậy, chúng ta phân biệt ở đây hai tổ chức nhưng có ba cấp bậc khác nhau. Một
là Securities and Exchange Commission SEC, gọi là Ủy ban Giao dịch chứng
khoán là một cơ quan chính phủ quản lý việc phát hành, mua bán chứng khoán.
Thứ hai, New York Stock Exchange NYSE gọi là Sở Giao dịch chứng khoán, là
một hội tư nhân mà vai trò của nó đã nêu ở trên. Thứ ba, NYSE quản lý một sàn
giao dịch trading floor, và đó chính là cái chợ. Dự thảo pháp lệnh về chứng
khoán của ta cũng dự trù hai tổ chức : Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Sở
Giao dịch chứng khoán.
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN CHÂU ÂU (EURONEXT)
Thị trường chứng khoán Châu Âu (EURONEXT) co tầm ảnh hưởng bao trùm
lên mọi lĩnh vực đầu tư và mọi thị trường chứng khoán ở mọi quốc gia.
EURONEXT mới hình thành từ năm 2000 do sự sáp nhập của 3 thị trường lớn
nhất ở châu Âu, Amsterdam, Brussels và Paris. Ngay từ khi mới thành lập
EURONEXT đã được đánh giá là trung tâm giao dịch chứng khoán lớn thứ hai
thế giới chỉ sau NYSE.
Quy mô cơ chế hoạt động của EURONEXT
Đến năm 2002 EURONEXT tiếp tục sáp nhập với thị trường chứng khoán phái
sinh London và thị trường chứng khoán Bồ Đào Nha. Hiện nay EURONEXT là
thị trường chứng khoán xuyên quốc gia đầu tiên trên thế giới, cung cấp mọi dịch
vụ về giao dịch chứng khoán nhằm hỗ trợ đắc lực cho thị trường tiền mặt và
chứng khoán phái sinh ở Bỉ, Pháp, Anh, Hà Lan và Bồ Đào Nha. EURONEXT
luôn hoạt động vì mục tiêu củng cố thị trường tài chính Châu Âu bằng cách hòa
nhập các thị trường quốc gia tạo thành một thị trường chung với tính thanh
khoản và hiệu quả đạt mức cao tối đa. Mô hình thống nhất của EURONEXT là
sự kết hợp sức mạnh và tài chính của mỗi thị trường địa phương và
EURONEXT cũng minh chứng cho cách thành công nhất để sáp nhập các thị
trường chứng khoán đơn lẻ đó là tầm nhìn toàn cầu với các thị trường địa
phương. Mô hình này đòi hỏi phải có sự kết hợp về công nghệ, tái cơ cấu các
hoạt động trong phạm vi rộng lớn vượt ra ngoài biên giới một quốc gia, hài hòa
hóa các quy tắc thị trường và kiện toàn khung pháp luật.
Trong suốt giai đoạn đầu củng cố thị trường và nâng cấp công nghệ,
EURONEXT đã không ngừng đa dạng hóa nguồn doanh thu, từ đó tạo một thế
đứng vững chắc cho Sàn châu Âu trước sự biến động mạnh mẽ của thị trường
tài chính thế giới. EURONEXT cung cấp một loạt các dịch vụ cao cấp cho
khách hàng, bao gồm việc phát hành chứng khoán ra công chúng, phương tiện
giao dịch bằng tiền mặt, tài sản phái sinh cho đến các thủ tục giao dịch như bù
trừ chứng khoán thông qua LCH.Clearnet và thanh toán chứng khoán tại các
Trung tâm lưu ký địa phương. Khách hàng của Sàn EURONEXT cũng rất đa
dạng, gồm các thành viên và thể chế tài chính trực tiếp tham gia giao dịch trên
thị trường chứng khoán, các công ty phát hành chứng khoán được niêm yết trên
Sàn, các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân tham gia mua bán trên thị trường, các tổ
chức khác có sử dụng công nghệ, dịch vụ và thông tin tài chính của
EURONEXT.
Sàn EURONEXT nổi tiếng với giao dịch các công cụ phái sinh, trong đó phổ
biến và được áp dụng nhiều hơn cả là hợp đồng tương lai. Với mục đích giảm
thiểu rủi ro do biến động về giá của hàng hoá, giao dịch hợp đồng tương lai là
một trong những phương thức hữu hiệu được các nhà kinh doanh nói chung,
xuất khẩu nông sản nói riêng áp dụng phổ biến trên thế giới. Theo thống kê vào
năm 2005, có 600 triệu hợp đồng tương lai được giao dịch qua Euronext, tăng
7% so với năm 2004. Với quy mô và uy tín của mình, Euronext là một sàn giao
dịch hoàn toàn tin cậy cho các nhà xuất khẩu nông sản Việt Nam khi tham gia.
Chỉ với 7 năm hoạt động, hiện nay EURONEXT đang chiếm vị trí đẫn đầu thế
giới về khối lượng giao dịch thông qua Bảng đấu giá trung tâm và đứng thứ hai
thế giới về tổng khối lượng giao dịch chứng khoán mỗi ngày và cũng xếp vị trí
tương tự về giao dịch chứng khoán phái sinh. EURONEXT có tất cả 1.259 nhân
viên làm việc, với 1250 công ty niêm yết, cung cấp dịch vụ 24/24h tại 5 châu
lục trên toàn cầu. Thị trường chứng khoán EURONEXT ra đời với 3 mục tiêu
lớn: tăng giá trị cho khách hàng bằng cách giảm thiểu chi phí giao dịch, nâng
cao hiệu quả và an toàn thị trường; tăng giá trị cổ đông bằng cách tăng cường
tạo lợi nhuận cho các công ty niêm yết; cuối cùng là nâng cao vị thế của thị
trường tài chính châu Âu. Như vậy có thể xem như EURONEXT là một cuộc
cách mạng thị trường tài chính của châu lục rất năng động này, và càng khẳng
định vị thế không thể xoá nhoà của một trong ba trung tâm tài chính kinh tế lớn
nhất thế giới.
Việc sáp nhập của hai thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới
Vào tháng 5 năm 2006, thị trường chứng khoán New York đã đưa ra đề nghị
hợp nhất với công ty EURONEXT, hiện nay thị trường chứng khoán NYSE là
thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới và EURONEXT đứng thứ hai, nếu vụ
“kết duyên” này thành công thì NYSE sẽ góp khoảng 10 tỉ đô la vào
EURONEXT và là một phương cách hữu hiệu hơn để buôn bán cổ phiếu, tiết
kiệm cho các nhà đầu tư và các công ty hàng trăm triệu đô la. Việc sáp nhập các
thị trường chứng khoán NYSE và Euronext sẽ tạo ra một thị trường chứng
khoán đầu tiên xuyên Đại Tây Dương với sàn giao dịch lớn nhất thế giới trị giá
21 tỷ USD, hoạt động liên tục suốt 24 giờ. Sau khi sáp nhập, trụ sở chính của
Euronext sẽ chuyển từ Paris tới London và thị trường chứng khoán mới sau khi
sáp nhập sẽ sử dụng công nghệ mới để thống nhất các giao dịch trên toàn cầu.
Tại New York và Paris, ngày 1 tháng 6 năm 2006 trong buổi họp báo NYSE và
Euronext thông báo với toàn thế giới đã hoàn thành văn bản kí kết sáp nhập theo
thỏa thuận ngang bằng. Nếu được cổ đông hai bên đồng ý và hoàn thành các thủ
tục pháp lý, tập đoàn mới với tên gọi NYSE Euronext sẽ ra đời, là tập đoàn toàn
cầu cung cấp các dịch vụ giao dịch chứng khoán, tiền tệ, dịch vụ hàng hóa tài
chính phái sinh,...mang lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư, cổ đông và các công ty
phát hành.
Là sự hợp nhất giữa hai nhà khổng lồ, NYSE Euronext sẽ là thị trường tài chính
toàn cầu đích thực và có tính thanh khoản cao nhất thế giới, nơi mang lại lợi ích
tuyệt vời đồng thời cho cả các nhà đầu tư lẫn các nhà phát hành chứng khoán ở
Mỹ, châu Âu và trên toàn cầu. Theo John A. Thain, Giám đốc của NYSE, đây là
bước tiến quan trọng trong lịch sử của NYSE, Euronext cũng như thị trường tư
bản toàn cầu. Việc đồng hành với Euronext giúp NYSE hoàn thiện hơn quan
niệm rằng một thị trường toàn cầu thực sự hội tụ đầy đủ các yếu tố về sản phẩm
và môi trường địa lý sẽ mang lại lợi nhuận cho tất cả các nhà đầu tư, các công ty
phát hành cổ phiếu, người nắm giữ cổ phiếu, và cổ đông. Còn theo bình luận
của Jean-François Théodore, Giám đốc của Euronext, việc kết hợp NYSE- sàn
giao dịch chứng khoán đi đầu trong giao dịch tiền tệ, chứng khoán nổi tiếng
toàn cầu với Euronext- sàn giao dịch quốc tế, không có biên giới, kĩ thuật và
công nghệ cao với nhiều sản phẩm đa dạng nên NYSE Euronext sẽ đóng vai trò
là đầu tàu có tính toàn cầu cho sự phát triển sau này.
Ngày nay NYSE-Euronext chiếm vị trí độc tôn lớn nhất thế giới với khoảng
3269 công ty vốn hóa thị trường là 15.970 tỷ USD ,giá trị giao dịch là 19.813 tỷ
USD số liệu ngày 31 tháng 12 năm 2010
Theo thông tin mới nhất
Sự kiện sáp nhập đình đám nhất trong giới chứng khoán quốc tế vừa kết thúc
với việc Deutsche Boerse AG của Đức đồng ý chi 9,53 tỷ USD để mua lại Stock
Exchange NYSE Euronext do Mỹ sở hữu vào ngày 15/2/2011.
Dù chưa có tên chính thức, nhưng bản hợp đồng lịch sử này vừa được hai bên
đặt bút ký trong tuần đã tạo ra một công ty điều hành sàn chứng khoán lớn nhất
hành tinh với tổng giá trị thị trường đạt 25,6 tỷ USD, soán ngôi của Hong Kong
Exchanges&Clearing hiện đang giữ vị trí này.
Thương vụ xuyên Đại Tây Dương lớn nhất trong lịch sử chứng khoán hiện đại
dự kiến sẽ hoàn tất vào cuối năm 2011, sau khi nhận được sự chấp thuận của
các cơ quan chức năng cả Mỹ và châu Âu. Trên cơ sở hợp nhất hoàn toàn mọi
hoạt động, công ty mới sẽ đặt trụ sở tại New York và Frankfurt; đồng thời được
niêm yết trên sàn giao dịch Frankfurt, New York và Paris. Với tổng doanh thu
của hai doanh nghiệp trong năm 2010 là 5,4 tỷ USD và lợi nhuận đạt 2,7 tỷ
USD, vụ mua bán được thị trường chứng khoán hai bờ Đại Tây Dương dõi theo
đã hình thành một tập đoàn điều hành và giao dịch cổ phiếu lớn nhất thế giới về
doanh thu và lợi nhuận. Thỏa thuận "cùng đi một con đường" giữa hai sàn giao
dịch danh giá sẽ khiến tổng giá trị thị trường của nhóm các công ty niêm yết tại
tập đoàn mới lên tới 15 nghìn tỷ USD, tương đương 28% tổng giá trị vốn hóa
của thị trường chứng khoán toàn thế giới.
Để có được bản hợp đồng tạo ra nhiều kỷ lục, lãnh đạo hai bên đã phải vượt qua
nhiều khác biệt. Do mức vốn hóa lớn hơn 15 tỷ USD, thỏa thuận cuối cùng là
mỗi cổ phiếu của Deutsche Boerse AG đổi được một cổ phiếu của công ty mới
trong khi tỷ lệ đối với NYSE Euronext là 0,47 cổ phiếu. Sau khi giao dịch kết
thúc, các cổ đông của Deutsche sẽ nắm giữ 60% cổ phần trong khi các cổ đông
của NYSE nắm sở hữu phần còn lại. Công ty chứng khoán lớn nhất thế giới này
cũng hy vọng việc ông Duncan Niederauer, Giám đốc điều hành NYSE
Euronext sẽ là giám đốc điều hành của công ty mới và Giám đốc điều hành của
Deutsche Boerse AG Reto Francioni giữ chức Chủ tịch, sẽ tạo được sự hòa hợp
giữa hai doanh nghiệp. Cuộc phân chia ngôi vị bao giờ cũng được xem là khó
khăn lớn nhất mà các công ty hợp nhất luôn phải đối mặt.
Vụ việc này đã ngay lập tức khiến cuộc chạy đua mua bán giữa các công ty
quản lý sàn chứng khoán khắp thế giới diễn ra suốt một thập kỷ qua ngày càng
trở nên khốc liệt. Từ năm 2000 đến nay, tổng giá trị các vụ thâu tóm đạt ít nhất
95,8 tỷ USD. Bản thân NYSE Euronext cũng là kết quả của một thương vụ ồn
ào cách đây 5 năm với giá trị hợp đồng là 14,3 tỷ USD, mở đầu cho làn sóng
hình thành thị trường giao dịch cổ phiếu giữa hai châu lục Âu - Mỹ. Xu thế vượt
Đại Tây Dương của thị trường chứng khoán toàn cầu vừa một lần nữa cho thấy
xu hướng của sáp nhập khi BATS Global Markets của Mỹ đang hoàn tất những
thủ tục cuối cùng để mua lại "người bạn lớn" ở châu Âu, Chi-X Europe. Các sàn
cổ phiếu châu Á xem ra cũng không muốn đứng ngoài "sân chơi" sáp nhập như
một xu hướng toàn cầu tất yếu đang diễn ra. Hong Kong HKEX tuyên bố sẽ cân
nhắc hợp danh và các quan hệ quốc tế khác trong khi lãnh đạo Tokyo TSE bóng
gió rằng sàn giao dịch này luôn mở cửa với những cơ hội hợp tác...
Gia tăng liên kết để tồn tại và phát triển đang là lựa chọn của các doanh nghiệp
nhằm chống đỡ hiệu quả trước áp lực cạnh tranh ngày một lớn trong lĩnh vực
chứng khoán. Rõ ràng khi thị trường tài chính nhiều biến động thì hợp nhất
được xem là công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao vị thế, sức mạnh cho những công
ty hoạt động trong môi trường chứng khoán khắc nghiệt - nơi quy mô và tiềm
lực luôn quyết định thành công.
II,Thị trường chứng khoán Nasdaq (Nasdaq)
NASDAQ là chữ viết tắt của cụm từ National Association of Securities
Dealers Automated Quotations system, là sàn giao dịch chứng khoán điện
tử của Mỹ, có giá trị vốn hoá thị trường đứng thứ 2 thế giới (sau NYSE )
Điểm khác biệt quan trọng giữa NASDAQ với các sàn giao dịch chứng khoán
lớn khác là ở chỗ nó là một sàn giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC).
Lịch sử và quá trình hình thành phát triển của Nasdaq
Nasdaq được thành lập năm 1971 bởi Hiệp hội những người buôn bán
chứng khoán Quốc gia (NASD), và hiện đang được điều hành bởi
Nasdaq Stock Market, Inc. NASDAQ là sàn giao dịch chứng khoán điện
tử lớn nhất nước Mỹ, với khoảng 2849 công ty niêm yết và số lượng cổ
phiếu giao dịch bình quân nhiều hơn bất kỳ sàn giao dịch khác ở Mỹ, kể
cả NYSE.Khi bắt đầu mở cửa giao dịch vào ngày 8/2/1971, NASDAQ là sàn thị
trường chứng khoán điện tử tiên phong trên thế giới. Lúc đầu, nó chỉ đơn thuần
là hệ thống bản điện tử niêm yết giá chứ chưa thực sự kết nối giữa người mua
với người bán. Tác dụng quan trọng nhất lúc đó là nó giúp làm giảm mức chênh
lệch
giữa giá mua(bid price) và giá bán(ask price) cổ phiếu, gây bất lợi cho những
tay môi giới chứng khoán thường kiếm bộn nhờ chênh lệch này, song lại làm thị
trường chứng khoán hoạt động nhộn nhịp hơn. Vài năm sau, NASDAQ tiến gần
hơn đến một sàn giao dịch chứng khoán theo đúng nghĩa của nó, khi đưa vào
hoạt động hệ thống báo cáo và giao dịch chứng khoán tự động. Cho đến năm
1987, hầu hết các giao dịch được tiến hành qua điện thoại, song trong suốt cuộc
khủng hoảng của thị trường chứng khoán năm 1987, những người tạo lập thị
trường hầu như không trả lời điện thoại. Để đối phó với vấn đề này, Hệ thống
thực thi các lệnh nhỏ (SOES) đã ra đời, cung cấp cho những người mua bán
chứng khoán một phương thức
giao dịch điện tử hoàn toàn mới, và để đảm bảo những giao dịch nhỏ không bị
bỏ qua. NASDAQ cũng niêm yết cổ phiếu của chính họ trên sàn dưới mã hiệu
NDAQ. Chỉ số chủ yếu trên NASDAQ là chỉ số tổng hợp NASDAQ (The
Nasdaq Composite), được xây dựng dựa trên giá cổ phiếu của toàn bộ các công
ty niêm yết trên NASDAQ. Chỉ số này là chỉ số được theo dõi nhiều nhất đối
với các công ty về công nghệ.
Một số mốc chính với chỉ số tổng hợp NASDAQ:
-17/7/1995: lần đầu tiên chỉ số tổng hợp NASDAQ đóng cửa ở mức giá trên
1000 điểm
-10/3/2005: chỉ số này đạt mức giao dịch cao kỉ lục 5,132.52 điểm
-10/10/2002: chỉ số tổng hợp NASDAQ tụt xuống mức thấp nhất 1,108.49 điểm
Các chỉ số chứng khoán:
Nasdaq indices
NASDAQ Composite
NASDAQ-100
Nasdaq Financial 100
Điều kiện để được niêm yết trên NASDAQ
Niêm Yết trên Thị Trường NASDAQ
Tài sản hữu hình thuần tối thiểu: $US 6 Triệu
Lợi tức sau thuế: $US 1 Triệu, hoặc
Tài sản hữu hình thuần: $US 75 Triệu
Thu nhập: $US 75 Triệu
Giá trị thị trường: $US 75 Triệu
Giá bán cổ phần tối thiểu: $US 5
Số cổ đông: 400
Vốn cổ đông: $US 15 Triệu
Giá thị trường công cộng: $US 8 Triệu
Market Makers: 3
Quá trình hoạt động: không bắt buộc
Vốn hóa thị trường: 4,931 tỷ USD
Giá trị giao dịch: 13,439 tỷ USD
Có 2849 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán
FLWS
FCTY
FCCY
SRCE
FUBC
TCHC
VNET
TDSC
SSRX
JOBS
EGHT
SHLM
ACMR
AONE
AAON
ASTM
ABAX
ABBC
ABMD
AXAS
ACTG
ACAD
ACCL
ANCX
ARAY
ACRX
ACET
ACHN
ACIW
1-800 FLOWERS.COM, Inc.
1st Century Bancshares, Inc
1st Constitution Bancorp (NJ)
1st Source Corporation
1st United Bancorp, Inc. (FL)
21st Century Holding Company
21Vianet Group, Inc.
3D Systems Corporation
3SBio Inc.
51job, Inc.
8x8 Inc
A. Schulman, Inc.
A.C. Moore Arts & Crafts, Inc.
A123 Systems, Inc.
AAON, Inc.
Aastrom Biosciences, Inc.
ABAXIS, Inc.
Abington Bancorp, Inc.
ABIOMED, Inc.
Abraxas Petroleum Corporation
Acacia Research Corporation
ACADIA Pharmaceuticals Inc.
Accelrys, Inc.
Access National Corporation
Accuray Incorporated
AcelRx Pharmaceuticals, Inc.
Aceto Corporation
Achillion Pharmaceuticals, Inc.
ACI Worldwide, Inc.
…..
Bên cạnh NASDAQ Composite thì NASDAQ 100 và Nasdaq Financial 100
cũng là những chỉ số chứng khoán rất quan trọng. Nasdaq 100 là chỉ số chứng
khoán của 100 công ty phi tài chính lớn nhất được niêm yết trên NASDAQ, cả
công ty trong nước và quốc tế, còn Nasdaq Financial 100 là của các công ty tài
chính.
Trong danh sách của NASDAQ 100 được công bố 1/2/2007 có nhiều cái tên khá
quen thuộc trong lĩnh vực IT như: Adobe Systems Incorporated (ADBE),
Amazon.com, Inc. (AMZN), Apple Inc. (AAPL), Cisco
Systems, Inc. (CSCO), Dell Inc. (DELL), eBay Inc. (EBAY).
NASDAQ đã có những nỗ lực đáng kể nhằm thâu tóm London Stock Exchange.
Hiện NASDAQ đã nắm được 28.75% cổ phần của London Stock Exchange và
đưa ra mức giá £12.43, mức giá cao nhất mà họ từng trả cho một cổ phần trên
thị trường mở
III,Thị trường chứng khoán Thượng Hải(SSE)
Lịch sử hình thành thị trường chứng khoán Trung Quốc
A. Thị trường chứng khoán của Trung Quốc cũ
Thị trường chứng khoán Trung Quốc từ thuở “sơ khai” được biết đến như một
trung tâm giao dịch của người nước ngoài, cổ phiếu đầu tiên xuất hiện trên thị
trường là của nước ngoài, sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải đầu tiên cũng
do doanh nghiệp nước ngoài sở hữu.
Từ những năm 70 của thế kỷ 19, bắt đầu xuất hiện cổ phiếu Trung Quốc, từ đó
thị trường chứng khoán và trái khoán có những bước phát triển đầu tiên.
Tháng 7/1920, sở giao dịch hàng hóa chứng khoán Thượng Hải ra đời, là trung
tâm chứng khoán có quy mô lớn nhất lúc bấy giờ. Thời gian tiếp theo đánh dấu
sự xuất hiện liên tiếp các sở giao dịch chứng khoán Hoa Thương Thượng Hải,
sở giao dịch hàng hóa Thanh Đảo, sở giao dịch doanh nghiệp thành phố Thiên
Tân, v.v…. Sự ra đời này dần hình thành nên một thị trường tài chính sôi động
trong thời kỳ trước khi Trung Quốc cải cách mở cửa.
B. Thị trường chứng khoán Trung Quốc thời kỳ đổi mới được chia làm 2 giai
đoạn
1. Trong thời kỳ xây dựng đất nước
Sở giao dịch chứng khoán thành phố Thiên Tân được thành lập ngày 1/6/1949;
ngày 1/2/1950 thành lập sở giao dịch chứng khoán Bắc Kinh. Sở chứng khoán
Thiên Tân có hơn 39 nhân viên môi giới chứng khoán với tổng mức doanh thu
đạt 8 triệu 450 nghìn NDT; còn sở chứng khoán Bắc Kinh chỉ có 17 nhân viên
môi giới hoạt động.
Tuy nhiên, đến năm 1952, đối mặt với nguy cơ số lượng sàn giao dịch hoạt
động ít ỏi, tầm ảnh hưởng của chứng khoán đối với xã hội không cao nên sở
chứng khoán Thiên Tân buộc phải sát nhập với công ty đầu tư Thiên Tân, còn
sở chứng khoán Bắc Kinh thì tuyên bố phá sản.
2. Thời kỳ sau cải cách mở cửa
a) Thời kỳ thăm dò thị trường.
Thị trường chứng khoán Trung Quốc được hình thành và từng bước hoạt động
kể từ cuối những năm 70 của thế kỷ 20. Cho dù cơ cấu thị trường chưa ổn định,
quá trình vận hành còn thô sơ, thể chế luật pháp chưa hoàn thiện nhưng việc
khôi phục thị trường chứng khoán ít nhiều đã mang lại những tác động tích cực
đối với công cuộc cải cách mở cửa của đất nước.
Năm 1978-1990, lượng cổ phiếu được phát hành trên thị trường đạt 286 triệu
100 nghìn NDT. Trong đó, giá trị cổ phiếu đạt 4 tỷ 590 nghìn NDT, trái khoán
đạt 187 tỷ 042 triệu NDT. Trong thời gian này, tổng lượng chứng khoán chuyển
nhượng đạt 18 tỷ 700 nghìn NDT, trái khoán quốc gia chiếm 16 tỷ 782 nghìn
NDT, phương thức chuyển nhượng chủ yếu là giao dịch cá nhân hoặc giao dịch
tại quầy.
b) Sự hình thành và tốc độ phát triển của của thị trường giao dịch.
Từ tháng 12/1990 đến tháng 7/1991, Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải và
Sở giao dịch chứng khoán Thâm Quyến chính thức đi vào hoạt động, đánh dấu
sự hình thành của thị trường chứng khoán tập trung, cũng là điểm khởi đầu cho
thời kỳ phát triển vượt bậc của thị trường chứng khoán Trung Quốc.
Tháng 10/1992, Uỷ Ban Chứng Khoán Quốc vụ viện (gọi tắt là UBCK) cùng cơ
quan giám sát quản lý được thành lập. Năm 1993, Quốc vụ viện ban hành điều
lệ giám sát quản lý giao dịch, phát hành cổ phiếu và điều lệ quản lý trái khoán
của doanh nghiệp, đồng thời xây dựng thể chế quy luật quy phạm luật chứng
khoán một cách cơ bản nhất.
Sau năm 1993, thị trường cổ phiếu bắt đầu sôi động, các cổ phiếu B và H lần
lượt được phát hành ra thị trường, thị trường trái khoán đa dạng hơn, quy mô
được mở rộng. Đồng thời, đội ngũ nhân viên môi giới chứng khoán từ đó phát
triển nhanh và mạnh hơn cả về chất lượng và số lượng.
c) Luật chứng khoán ra đời dần hoàn thiện hơn về thể chế giám sát quản lý.
Tháng 4/1998, Quốc vụ viện thành lập UBCK Quốc vụ viện - là bộ phận giám
sát quản lý chủ yếu thị trường giao dịch chứng khoán cả nước.
Tháng 12/1998, Đại hội Đảng thông qua luật chứng khoán và tiến hành thực thi
kể từ ngày 1/7/1999, quy định khung pháp luật cơ bản của thị trường chứng
khoán
d) Thị trường chứng khoán từng bước phát triển.
Ngày 31/1/2004, Quốc vụ viện ban hành điều lệ liên quan đến cải cách mở cửa
và phát triển thị trường.
Tháng 8/2004 và tháng 11/2005, Đại hội Đảng toàn quốc đã 2 lần sửa lại luật
chứng khoán, từng bước củng cố thể chế pháp luật cơ bản.
Kể từ năm 2004 trở lại đây, thị trường chứng khoán Trung Quốc phát sinh
những thay đổi mang tầm vĩ mô, tháng 5/2004, chỉ số giao dịch tại sở chứng
khoán Thượng Hải và Thâm Quyến tăng lên đáng kể, thúc đẩy thị trường phát
triển, giúp cơ chế giao dịch ngày một cải thiện tốt hơn. Tháng 4/2005, nhờ sự
phê chuẩn của Quốc vụ viện, cơ quan giám sát quản lý của Trung Quốc đã ban
hành thông tư liên quan đến vấn đề thí điểm cải cách phân chia cổ phần cho các
công ty cổ phiếu trên thị trường, giúp các doanh nghiệp có thêm quyền lợi hơn
khi tham gia giao dịch cổ phiếu.
Cuối năm 2006, hơn 1301 công ty hoạt động trên thị trường Thượng Hải và
Thâm Quyến đều đã hoàn thành việc thực hiện lộ trình cải cách phân chia cổ
phần.
Ngày 8/9/2006, được sự thống nhất của Quốc vụ viện và cơ quan giám sát quản
lý phê chuẩn nên các sở chứng khoán Thượng Hải, Tô Châu, Đại Liên, Thâm
Quyến cùng nhau thống nhất thành lập sở giao dịch chứng khoán Trung Quốc.
. Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải( Shanghai Stock Exchange)
A. Hệ thống chỉ số SSE (SSE Indices)
Các chỉ số SSE là một công cụ chỉ dẫn dựa vào thống kê có căn cứ xác thực
được chấp nhận bởi các nhà đầu tư trong nước và quốc tế, đánh giá hoạt động
của thị trường chứng khoán Trung Quốc, được biên soạn và công bố bởi Sở giao
dịch chứng khoán Thượng Hải. Các chỉ số SSE là chỉ số dựa trên giá chứng
khoán, bao gồm chỉ số SSE 180, chỉ số SSE 50, chỉ số cổ tức SSE, chỉ số SSE
Composite mới, chỉ số SSE Composite, những chỉ số cho từng ngành, chỉ số
quỹ SSE, chỉ số trái phiếu chính phủ SSE, và chỉ số trái phiếu doanh nghiệp
SSE. Trong số đó, chỉ số được thiết lập sớm nhất là chỉ số SSE Composite.
Nhằm mục đích thúc đẩy việc xây dựng cơ sở hạ tầng lâu dài và quá trình chuẩn
hóa thị trường chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải tái cơ cấu
chỉ số SSE 30 thành chỉ số SSE Consituent (SSE 180) vào tháng 6 năm 2002.
Là cốt lõi của những chỉ số SSE, SSE 180 đã tạo nên bước chuyển biến quan
trọng về phương pháp dựa trên cơ bản là chỉ số SSE 30 nhưng có tính đến hoàn
cảnh thị trường tài chính hiện tại, đồng thời kết hợp với kinh nghiệm quốc tế.
Mục đích của nó là để lựa chọn những thành phần thích hợp nhất để đại diện
cho thị trường Thượng Hải thông qua phương pháp khoa học và khách quan, để
thiết lập một chỉ số chuẩn so sánh có thể phản ánh thị trường Thượng Hải và có
tác dụng như một công cụ chuẩn đánh giá mức độ hoạt động và là cơ sở cho
những cải cách tài chính.
Chỉ số trái phiếu chính phủ SSE và chỉ số trái phiếu doanh nghiệp SSE được
chính thức sử dụng năm 2003, hoàn chỉnh hệ thống các chỉ số SSE bao gồm vốn
sở hữu, chứng chỉ quỹ, và trái phiếu. Đầu năm 2004, Sở chứng khoán Thượng
Hải cho ra đời chỉ số SSE 50 để phản ánh mức độ hoạt động của một số cổ
phiếu có ảnh hưởng nhất trên thị trường Thượng Hải. Vì thế, chỉ số SSE
Composite (chỉ số toàn thị trường), chỉ số SSE 180 (chỉ số chuẩn so sánh mức
độ hoạt động các chứng khoán) và chỉ số SSE 50 (một chỉ số cho các chứng
khoán chất lượng cao, khối lượng lớn) đã tạo thành một hệ thống chỉ số 3 mức
độ.
Các chỉ số SSE phản ánh những thay đổi tổng thể về giá cả của cổ phiếu được
niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Thượng Hải với rất nhiều mức độ khác
nhau. Các chỉ số SSE cũng phản ánh sự thịnh vượng và những thay đổi về giá
cả của mỗi ngành công nghiệp, mang đến cho các nhà đầu tư một hệ thống
chuẩn so sánh cho những danh mục đầu tư khác nhau. Với thị trường chứng
khoán đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, hệ
thống các chỉ số SSI đang dần trở thành kim chỉ nam cho nền kinh tế Trung
Quốc.
B. Tổng quan SSE hiện nay
905 công ty niêm yết
1550 chứng khoán niêm yết
Tổng số Vốn thị trường :4496tỷ USD
IV,Thị trường chứng khoán Tokyo (tokyo securities market)
*) Lịch sử hình thành
Nhật Bản có thị trường chứng khoán từ năm 1875, sau chiến tranh thế
giới thứ hai có thời kỳ giải tán Sở giao dịch chứng khoán. Tháng 5/1948, dựa
theo cách làm của Mỹ thực hiện Luật giao dịch chứng khoán. Năm 1949, mở lại
Sở giao dịch chứng khoán. Thị trường giao dịch chứng khoán hoạt động trở lại
và phát triển khá mạnh trong thời kì Nhật Bản có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Từ năm 1955 đến năm 1961, kinh tế Nhật có 2 lần tăng trưởng kinh tế mạnh, số
cổ phiếu Dow Jones của Sở giao dịch chứng khoán Tokyo từ năm 374 tăng lên
1549. Tổng số giá cổ phiếu giao dịch năm 1955 là 3,8 tỷ; năm 1961 đã lên tới
48,3 tỷ, tăng 14 lần. Tháng 4/1966, trái phiếu công cộng và trái phiếu công ty
(đã ngừng giao dịch sau chiến tranh thế giới thứ 2) lại được đưa ra thị trường
của 2 Sở giao dịch chứng khoán Đông Bắc và Osaka, chứng tỏ thị trường chứng
khoán Nhật đã phát triển sang thời kỳ hoàn toàn mới. Sau thập kỷ 60, Chính phủ
Nhật phát hành phiếu công trái, quy mô thị trường trái phiếu được mở rộng.
Nhật Bản có 8 sở giao dịch chứng khoán, gần 200 công ty chứng khoán phân
bố ở các nơi như Tokyo, Osaka,Nayoga, sở giao dịch chứng khoán Tokyo thị
trường cổ phiếu, trái phiếu lớn nhất ở Nhật, chiếm 85% tổng số giao dịch cổ
phiếu ở Nhật.
Trên thị trường chứng khoán Nhật Bản, có 5 loại cổ phiếu được giao dịch là: cổ
phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu không có quyết nghị, cổ phiếu được
phân phối sau, cổ phiếu trả lại.
Trái phiếu ở Nhật, căn cứ vào chủ thể phát hành, được chia làm 6 loại: trái
phiếu nhà nước, trái phiếu địa phương, trái phiếu đặc biệt, trái phiếu công ty,
trái phiếu tài chính, trái phiếu ngoài nước.
Từ năm 1970, Sở giao dịch chứng khoán Tokyo đã cho phép các công ty đầu tư
Nhật mua cổ phiếu nước ngoài, và vốn đầu tư của nước ngoài mua cổ phiếu của
Nhật Bản đã tăng lên nhanh chóng. Trong một thời gian ngắn số bán ra đã nhiều
hơn số mua vào, chứng tỏ người nước ngoài đã tăng trưởng đầu tư vào Nhật
Bản. Nguyên nhân của tình hình này là nền kinh tế đã phát triển nhanh, có nhiều
hàng xuất khẩu đứng đầu thế giới, Chính phủ nới lỏng toàn diện chế độ quản lý
ngoại tệ, các xí nghiệp Nhật Bản có sức hấp dẫn lớn do thu được nhiều lợi
nhuận, vốn quốc tế đầu tư phân tán đã thúc đẩy nước ngoài chảy vào thị trường
Nhật Bản.
TTCK Nhật Bản có từ ngày đầu Minh Trị. Giai đoạn đầu, TTCK chủ yếu buôn
bán trái phiếu do Nhà nước phát hành. Đến năm 1890 mới buôn bán cổ phiếu.
Năm 1943, 11 sàn giao dịch chứng khoán trên toàn nước Nhật hợp thành 1 công
ty bán công gọi là sàn giao dịch chứng khoán Nhật Bản.Năm 1945 đến 1948,Sở
giao dịch này bị đóng cửa, việc buôn bán chứng khoán diễn ra bên ngoài văn
phòng của công ty và chợ đen. Năm 1948, Luật giao dịch chứng khoán được
ban hành, dựa theo mô hình luật chứng khoán của Mỹ và sửa đổi cho phù hợp
với thực trạng của nền kinh tế Nhật.Nhật đưa ra 3 nguyên tắc cơ bản cho việc
điều hành TTCK, đó là: thứ nhất, mọi giao dịch chứng khoán phải được đăng ký
ở nơi giao dịch; thứ hai, giao dịch chứng khoán phải tập trung ở Sở giaodịch;
thứ ba, không cho phép thực hiện giao dịch tương lai. Tháng 4 năm 1949, Sở
giao dịch chứng khoán Tokyo được thành lập.
Sở giao dịch chứng khoán Tokyo hay TSE, là sở giao dịch chứng khoán ở
Tokyo, lớn thứ 4 thế giới. Hiện tại sở giao dịch này niêm yết 2292 công ty với
tổng khối lượng vốn hóa thị trường hơn 3827 tỷ USD. TSE hoạt động từ 9g-11g
sáng và 12g30-3g chiều.
Nikkei 225 là chỉ số thị trường chứng khoán cho sàn giao dịch chứng khoán
Tokyo (Tokyo Stock Exchange- TSE), là chỉ số quan trọng nhất của thị trường
chứng khoán châu Á. Nó bao gồm 225 cổ phiếu Blue-chip đại diện cho các
công ty ở Nhật, và là một chỉ số tính theo giá (đơn vị đồng Yên). Chỉ số này gần
giống chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones ở Mỹ.
*) Các chỉ số của thị trường chứng khoán Nhật Bản
Chỉ số NIKKEI 225: là chỉ số tổng hợp cổ phiếu với quyền số giá cả của
225 cổ phiếu thuộc sở giao dịch chứng khoán Tokyo và 250 cổ phiếu thuộc sở
giao dịch Osaka do Thời báo kinh tế Nhật tính toán và công bố. Chỉ số này còn
được gọi là chỉ số NIKKEI Dow vì phương pháp tính của nó như phương pháp
tính các chỉ số DowJones.
Chỉ số TOPIX: chỉ số này tính cho tất cả chứng khoán quan trọng niêm
yết tại thị trường chứng khoán Tokyo. Thời điểm gốc là 4/1/1968 với giá trị gốc
là 100.
Thị trường Nhật Bản phát triển vì có những ưu thế sau đây:
Tiềm lực thị trường lớn, kinh tế phát triển nhanh, xuất siêu liên tục.
Vị trí đồng Yên Nhật trên thị trường tiền tệ thế giới ngày càng cao.
Lãi suất trái phiếu Nhật Bản quá thấp, tiền vốn Nhật Bản quá thừa.
Cuối năm 2010:
Vốn hóa thị trường :3827 tỷ USD.
Giá trị giao dịch: 3787 tỷ USD.
Số công ty yết: 2292 công ty
V, Thị trường chứng khoán London
Sở giao dịch chứng khoán London (tiếng Anh: London Stock Exchange LSE) nằm tại London, Anh Quốc. Được thành lập từ 1801, đây là một trong
những cơ sở giao dịch chứng khoán lâu đời nhất thế giới, với nhiều công ty
trong Liên Hiệp Anh và ở nước ngòai niêm yết.
Trụ sở của London Stock Exchange hiện đặt tại số 10, quảng trường Paternoster
tại trung tâm của Thành phố London.
1.1. Quá trình lịch sử hình thành
Vào năm 1547, thành phố ở Bruges Bỉ mất đi sự phồn thịnh do eo biển
Even bị cát lấp nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị
trấn Auvers Bỉ, ở đây thị trường phát triển rất nhanh và giữa thế kỷ 16 một quan
chức đại thần của Anh quốc đã đến quan sát và về thiết lập một mậu dịch thị
trường tại London Anh, nơi mà sau này được gọi là Sở giao dịch chứng khoán
London. Các mậu dịch thị trường khác cũng lần lượt được thành lập tại Pháp,
Đức và Bắc Âu.
Giao dịch cổ phiếu tại London bắt nguồn từ nhu cầu vốn tài chính của hai
chuyến hải hành vào thế kỷ 16: một của công ty Muscovy đến Trung Hoa qua
biển Trắng phía bắc nước Nga và chuyến thứ hai của công ty Đông Ấn tới Ấn
Độ và phương Đông. Hai công ty trên đã huy động vốn bằng cách bán cổ phiếu
cho các nhà buôn, giao cho họ quyền được hưởng một phần lợi nhuận của
chuyến đi.
Ý tưởng này sau đó đã được phổ biến rộng rãi và đến năm 1695, người ta
ước lượng có đến 160 công ty cổ phần. Giao dịch cổ phiếu vào thời đó thường
được diễn ra tại hai quán cà phê Jonathan's và Garraway's trong khu Exchange
Alley (Hẻm Đổi tiền) của thành phố.
Vào năm 1697, một bộ luật được ban hành nhằm hạn chế số lượng các nhà
mua bán cổ phiếu và các hành động sai trái của họ sau các vụ giao dịch nội bộ
và đầu cơ nhằm điều khiển thị trường
1.1. Sự phát triển
Sự phát triển nhanh chóng của các công ty phát hành cổ phiếu dẫn đến sự
ra đời của sở giao dịch chứng khoán london
Khi ấy, nếu một công ty muốn bán cổ phiếu hay phát hành nợ, họ dán
thông báo trên các quán cà phê hay gửi thư tới nhà tài trợ. Đặc biệt, quán cà phê
của Jonatha tại Change Alley nổi lên như một tụ điểm giao dịch chứng khoán
chính tại London.
Giao dịch phi tập trung tiếp tục phát triển tại các quán cà phê London cho
đến khi một đám cháy quét qua Change Alley năm 1748. một nhóm giao dịch
viên giàu có hiến tặng một tòa nhà làm sở giao dịch năm 1773.
Từ đây mở ra một thơu2 gian dài nước Anh trở thành thủ đô tài chính của
thế giới. kể cả khi đã bị Mỹ vượt qua, Lonon vẫn là một trong những trung tâm
tài chính trọng yếu.
Thị trường London được chia làm 2 cấp bậc: thị trường chính thức (LSE)
và thị trường sơ cấp (AIM) dành cho các công ty quy mô nhỏ nhưng có tốc độ
phát triển cao
London là thị trường chứng khoán lâu đời nhất thế giới với lịch sử hơn 500
năm hình thành và phát triển. Tính đến hết năm 2005, thị trường LSE có hơn
3.000 công ty niêm yết với tổng giá trị vốn hoá lêsn đến 3.000 tỷ USD. Thị
trường AIM có hơn 1.500 công ty niêm yết trong đó có 250 công ty nước ngoài
đến từ Australia, Trung Quốc, Đức và Mỹ.
1773 tại quán cà phê Uenasan – Saxai – London tổ chức sở giao dịch
chứng khoán đầu tiên, 1853 xây dựng lại Trụ sở giao dịch chứng khoán ở
London
Chỉ số chứng khoán
Chỉ số FT-30: là chỉ số giá 30 cổ phiếu công nghiệp hàng đầu của thị
trường chứng khoán London. Chỉ số này được công bố mỗi giờ kể từ 10 giờ
sáng đến 3 giờ chiều và tại thời điểm đóng cửa sở giao dịch chứng khoán
London. Thời gian gốc là năm 1935 với trị giá gốc là 100.
Chỉ số FT-100: là chỉ số giá của 100 cổ phiếu hàng đầu tại Sở giao dịch
chứng khoán London.
Ngày gốc là 3/1/1984 với trị giá gốc là 1.000.
Thị trường chứng khoán London đóng cửa năm 2010 dưới ngưỡng tâm lý
6.000 điểm
Phiên giao dịch cuối cùng của năm 2010, thị trường chứng khoán London
mất điểm. Chỉ số chính của thị trường không thể vượt lên trên ngưỡng tâm lý
quan trọng 6.000 điểm, dù vậy vẫn tăng được 9% trong năm 2010.
Chỉ số FTSE 100 của thị trường chứng khoán Anh hạ 1,2% xuống 5.899,94
điểm. Chỉ số tăng điểm bền vững trong tháng 12/2010, mức tăng đạt 6,7%.
So với mức thấp thiết lập vào tháng 7/2010, chỉ số tăng được 23% và tăng
được 9% trông năm 2010.
Thị trường London hiện nay
- Xem thêm -