Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tài chính - Ngân hàng Ngân hàng - Tín dụng Bài thảo luận ngân hàng trung ương...

Tài liệu Bài thảo luận ngân hàng trung ương

.DOC
18
375
78

Mô tả:

Bài thảo luận ngân hàng trung ương [email protected] hoatrangnguyen_902002 telephone: 01667312377 Tìm hiểu về đồng USD và đồng EURO ? Đồng USD: 1: Nguồn gốc của tên "dollar" Đồng đô la Mỹ lấy tên từ đồng 8 real của Tây Ban Nha, có khối lượng bạc ít hơn 1 ounce. Trong thời kỳ thuộc địa, tiền này khá phổ biến đối với người Mỹ - họ gọi nó là đồng đô la Tây Ban Nha, từ tên của đồng tiền của Đức có cỡ và cấu tạo tương đương được gọi là thaler). Các đồng đô la đầu tiên được chính phủ Hoa Kỳ đúc có cùng cỡ và cấu tạo với đồng đô la Tây Ban Nha và ngay sau chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ đồng đô la Tây Ban Nha và Hoa Kỳ vẫn được lưu hành tương đương nhau. . Đồng đô la Mỹ hay Mỹ kim (United States dollar, ký hiệu: $; mã: USD), còn được gọi ngắn là "đô la" hay "đô", là đơn vị tiền tệ chính thức của Hoa Kỳ. Nó cũng được dùng để dự trữ ngoài Hoa Kỳ. Hiện nay, việc phát hành tiền được quản lý bởi các hệ thống ngân hàng của Cục Dự trữ Liên bang (Federal Reserve). Ký hiệu phổ biến nhất cho đơn vị này là dấu $. Mã ISO 4217 cho đô la Mỹ là USD; Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) dùng US$. Trong năm 1995, trên 380 tỷ đô la đã được lưu hành, trong đó hai phần ba ở ngoài nước. Đến tháng 4 năm 2004, gần 700 tỷ đô la đã được lưu hành [1], trong đó hai phần ba vẫn còn ở nước ngoài [2]. Nước Mỹ là một trong một số quốc gia dùng đơn vị tiền tệ gọi là đô la. Một vài quốc gia dùng đô la Mỹ làm đơn vị tiền tệ chính thức, và nhiều quốc gia khác cho phép dùng nó trong thực tế (nhưng không chính thức) 1. các mệnh giá của đồng USD: a. tiền kim loại: 0,01 0,05 0,10 0,25 Abraham Lincoln Thomas Jefferson Franklin D. Roosevelt George Washington Tượng đài Lincoln Hành trình về hướng tây đuốc, nhánh cây sồi, cành ôliu Biểu tượng các tiểu bang 0,50 0,50 1 1 1 John F. Kennedy Benjamin Franklin Sacagawea Dwight Eisenhower Susan B. Anthony Dấu ấn của Tổng thống Hoa Kỳ Chuông Độc lập Đại bàng trắng đang bay Đại bàng trắng đáp trên Mặt Trăng Đại bàng trắng đáp trên Mặt Trăng b. tiền giấy 1 George Washington 2 Thomas Jefferson 5 Abraham Lincoln 10 Alexander Hamilton 20 Andrew Jackson 50 Ulysses S. Grant 100 Benjamin Franklin Đơn vị lớn hơn (không dùng nữa) 1$ 2$ Dấu ấn Hoa Kỳ Tuyên ngôn độc lập Tượng đài Lincoln Toà ngân khố Nhà Trắng Toà Quốc hội Toà Độc lập 5$ 10$ 20$ 50$ 100$ Ngoài ra trong lịch sử còn có những mệnh giá lớn hơn: 3. Cách nhận biết USD thật, giả Đối với các đồng USD mang các series năm phát hành từ 1996 đến nay, chữ cái đặc trưng và con số của NH nằm dưới dãy series số hiệu góc bên trái mặt trước của tờ bạc. Các loại USD phát hành trước năm 1990 không có ký hiệu bóng chìm, nhưng từ năm 1990 đến nay có thêm ký hiệu bóng chìm là ảnh chân dung tổng thống theo từng loại mệnh giá. Mỗi đồng USD đều có thêm dây bảo hiểm dạng chữ và số trên bề mặt. Dây bảo hiểm (DBH) được nhuộm màu phát quang, dưới ánh đèn cực tím sẽ phát sáng các màu khác nhau: 100USD phát màu đỏ, 50USD màu vàng, 20USD màu xanh lá cây... Tất cả các loại USD đều có các sợi tơ màu đỏ và xanh nước biển quyện trong giấy. Các sợi tơ màu bảo hiểm và tơ phát quang được đưa vào giấy trong quá trình chế tạo giấy (trước đây được thực hiện theo phương pháp rắc trên bề mặt giấy tiền khi còn ướt để các sợi tơ bám dính tự nhiên, hiện nay phương pháp này chỉ được những kẻ in tiền giả thực hiện). USD được in từ 3 loại mực: Mực từ tính, mực phát quang và mực phản ứng dung môi (mực tự huỷ, là loại mực được trộn thêm một số hoá chất tạo ra khả năng phản ứng khi tiếp xúc với các dung môi, sẽ tự huỷ các hoạ tiết để bảo vệ tờ giấy bạc trước việc tẩy, sửa các hoạ tiết trên tờ giấy bạc của bọn tội phạm). Ngoài ra, tờ USD thật còn có các đặc điểm bảo hiểm khác như có dải băng quang học, khi tờ bạc được quan sát dưới luồng sáng, trên bề mặt sẽ xuất hiện một dải băng rực rỡ lấp lánh với các hình hoa văn, con số mệnh giá và ký hiệu tiền tệ; các dòng chữ hay số siêu nhỏ in theo phương pháp intaglio có khả năng chống giả rất cao; phoi quang học chống giả hologram (là những tem nhiều lớp màu sắc và hình ảnh khác nhau trên cùng một diện tích được chế tạo một cách tinh vi từ bột kim loại và bột gốm, được gắn trên bề mặt tờ bạc để điểm định vị bằng phương pháp ép nóng nhằm tăng khả năng bảo vệ tờ giấy bạc. Các họa tiết này sẽ thay đổi nếu chuyển góc nhìn từ thẳng sang nghiêng và ngược lại)... Các loại máy đếm tiền hiện nay cho dù có gắn thêm các bộ phận phát hiện tiền giả nhưng không phải lúc nào cũng có thể phát hiện một cách chính xác các loại tiền giả, mà chỉ có thể nhận biết một cách đơn lẻ như tìm ra chất từ tính trong mực in bằng 1 đầu từ, phát hiện tiền giả qua độ phát sáng của tờ giấy bạc. Các máy có khả năng phân biệt tiền giả cao hơn cũng phải bó tay trước những đồng dollar siêu giả đang có hiện nay trên thị trường có hoá chất trong mực in, rất khó nhận biết. Do đó, cách phân biệt tiền giả tốt nhất và chính xác nhất là nên phát hiện những chi tiết giả không thể tái tạo được như ở tiền thật qua việc phân tích, nghiên cứu công phu. Ngoài việc quan sát mực in, sợi tơ bảo hiểm, hình dập nổi... trên tờ bạc, chúng ta có thể phân biệt tiền giả qua các đặc điểm sau: Tiền giả không được in bằng phương pháp intaglio nên các hoạ tiết không được khắc lõm, mà trơn nhẵn. Những tờ giấy bạc siêu giả thông qua công nghệ in màu laser hay in bằng phương pháp offset rồi cho axit ăn mòn sau bản in cũng tạo cảm giác mực nổi, nhưng bề mặt mực lại trơn chứ không rám, nháp khi sờ tay vào. ở tiền thật, nền mực của phương pháp intaglio được in nổi, cao trên bề mặt giấy và có màu tối, nếu in bằng phương pháp offset thì màu sắc tươi sáng và phẳng trên bề mặt giấy. Nếu in bằng phương pháp typo thì mực chìm trong lòng giấy, lì mặt, rạn mực và màu thẫm, không tươi... Trong khi đó, ở tiền giả phương pháp in thường sai, nên các đặc tính của intaglio và typo không có. Nếu tiền được in nhái phương pháp intaglio và typo, thường được tiến hành theo cách in offset khi tờ giấy giả đã được in xong, bọn tội phạm sẽ dùng một khuôn đúc có hoạ tiết tương tự, dập vào mặt sau tờ bạc đúng vào vị trí hoạ tiết ở mặt trước giống như dập dấu nổi lên chứng minh thư. Phương pháp này sẽ đạt được kết quả tạo hoạ tiết nổi như được hình thành qua phương pháp in intaglio. Để phân biệt tờ bạc siêu nhỏ được in tinh vi theo phương pháp này, chúng ta có thể quan sát bằng kính lúp, nếu thấy chúng được hình thành bởi nhiều các chấm màu nhỏ li ti thì chắc chắn đó là tiền giả. 4. sự lưu thông của đồng đôla Mỹ hiện nay: Thị trường quốc tế ưa chuộng đồng tiền nào? Báo cáo của Mỹ, Anh, Canada và Singapore cho thấy đồng đô la Mỹ vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong các giao dịch ngoại hối. Nhìn vào thị trường ngoại hối lớn nhất thế giới, và thị trường ngoại hối Singapore - một thị trường ngoại hối lớn ở khu vực Đông Nam Á, điều dễ nhận thấy là đồng đô la Mỹ liên quan đến hơn 70% số giao dịch giao ngay được thực hiện. Đương nhiên, các giao dịch giao ngay này không chỉ có giao dịch thương mại, mà còn có các giao dịch về đầu tư, đầu cơ, hỗ trợ thanh khoản... Nhưng số liệu giao dịch giao ngay có thể phản ánh ở một mức độ nhất định vai trò của đồng đô la Mỹ trong thanh toán quốc tế ở Anh và Singapore (những số liệu về hợp đồng phái sinh, bao gồm cả số liệu liên quan đến hoán đổi tiền tệ currency swap, hoán đổi ngoại hối - foreign exchange swap, hợp đồng kỳ hạn outright forward, quyền chọn - option, đều được loại bỏ). Các mệnh giá USD đang được lưu thông (Tính đến 31/12/2009 - Đơn vị: Tỷ tờ - Tỷ USD) $1 Số lượng Giá trị $2 5$ $10 $20 $50 $100 Tổng 6,6 $50010.000 0,0005 9,6 0,9 2,2 1,6 6,4 1,3 9,6 1,7 11,2 16,2 127,5 65,3 656,4 0,3 888,3 28,5 Đồng euro: 1. Lịch sử đồng EURO Euro (€; mã ISO: EUR), còn gọi là Âu kim là đơn vị tiền tệ của Liên minh Tiền tệ châu Âu, là tiền tệ chính thức trong 15 nước thành viên của Liên minh châu Âu (Áo, Bỉ, Bồ Đào Nha, Đức, Hà Lan, Hy Lạp, Ireland, Luxembourg, Pháp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Ý, Slovenia, Malta, Cyprus) và trong 6 nước và lãnh thổ không thuộc Liên minh châu Âu. Các đồng tiền kim loại euro cùng một mệnh giá giống nhau ở mặt trước, nhưng có trang trí khác nhau ở mặt sau, đặc trưng cho từng quốc gia phát hành. Euro là đơn vị tiền tệ của Liên minh Tiền tệ châu Âu, là tiền tệ chính th ức trong 13 nước thành viên của Liên minh châu Âu1 cùng 6 nước và lãnh thổ không thuộc Liên minh châu Âu. Đồng Euro có nguồn gốc từ thời kì đầu của Liên minh châu Âu và lịch sử kinh tế toàn cầu. Việc hòa nhập kinh tế thông qua liên minh thuế quan năm 1968 đạt được nh ững thành t ựu ban đầu, đồng thời sự sụp đổ hệ thống hối đoái Brettom Woods gây nên những giao động l ớn của tỉ giá hối đoái, làm cản trở thương mại. Năm 1970, thủ tướng Luxemburg, Pierre Werner đưa ra kế hoạch Werner nhằm chuẩn bị thành lập Liên minh Kinh tế và Tiền t ệ châu Âu với một đồng tiền chung trước 1980. Năm 1979, Hệ thống Tiền tệ châu Âu (European Currency Unit, ECU) ra đời. Năm 1988, ủy ban về liên minh kinh tế và tiền tệ dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Ủy ban châu Âu, Jacques Delors, đã soạn thảo báo cáo Delors bao gồm các quá trình thành lập Liên minh Kinh tế và Tiền t ệ châu Âu. Ngày 01/07/1990, việc lưu chuyển vốn được tự do hóa giữa các nước trong Liên minh châu Âu. Bước tiếp theo được khởi đầu vào ngày 01/01/1994: Viện Tiền t ệ châu Âu, tiền thân c ủa Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), được thành lập và tình tr ạng ngân sách quốc gia c ủa các nước thành viên bắt đầu được xem xét. Ngày 16/12/1995 Hội đồng châu Âu tại Madrid đã quyết định chọn tên "Euro", do bộ trưởng Bộ Tài chính Đức, Theodor Waigel, đề nghị. Việc này đã kết thúc các tranh cãi xoay quanh việc lựa chọn các "ứng cử viên" khác như Franc châu Âu, Krone châu Âu, Gulden châu Âu. Ngày 13/12/1996, các bộ trưởng Bộ Tài chính của EU đi đến thỏa thuận về Hiệp ước Ổn định và Tăng trưởng nhằm bảo đảm các nước thành viên giữ kỷ luật về ngân sách và qua đó b ảo đảm giá trị của tiền tệ chung. Bước cuối cùng của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu bắt đầu có hiệu lực cùng với cuộc họp của Hội đồng châu Âu năm 1998, xác định 11 quốc gia thành viên của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ theo các tiêu chuẩn hội tụ đ ược quy đ ịnh tr ước. Hy L ạp gia nhập vào Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu năm 2001. Ngày 01/01/1999 tỷ lệ hối đoái giữa Euro và các đơn vị tiền tệ quốc gia được quy định và Euro trở thành tiền tệ chính thức. Ngay ngày kế sau, các thị trường chứng khoán tại Milano (Ý), Paris (Pháp) và Frankfurt (Đức) đã định giá tất cả các chứng khoán bằng Euro. Trong thời gian chuyển tiếp kéo dài từ 2 đến 6 tháng tùy thuộc vào cụ thể từng quốc gia, đ ồng Euro và đồng tiền cũ tồn tại song song như là tiền tệ chính thức. Thời gian sau này các tiền quốc gia cũ không còn là tiền tệ chính thức nữa nhưng vẫn có thể được đổi lấy đồng Euro tại các ngân hàng quốc gia của các nước, tùy theo quy định của từng nước. 2. các mệnh giá của đồng euro: 5 UR 10 UR 20 UR 50UR 100 UR 200 UR 500 UR Ngoài ra còn một số đồng tiền kim loại như: 1ER: 2UR 1cent: 2cent ER 5 cent ER 10 cent ER 20cent ER 50 cent ER 3. cách phân biệt đồng EURO thật giả: Đối với đồng euro giấy, có tất cả 7 mệnh giá khác nhau là 5, 10, 20, 50, 100, 200, 500 euro. Chúng có một số đặc điểm sau: 1/ Các đồng euro được in trên một loại giấy đặc biệt, có thành phần cấu tạo chủ yếu là sợi bông, nó tạo cảm giác giòn chứ không mềm uột hay nhẵn nhụi. 2/ Như các đồng tiền khác, đồng euro có hình mờ in biểu tượng về các kiến trúc, mệnh giá đồng tiền và có thể nhìn từ hai mặt. Các hình mờ được tạo bằng cách thay đổi độ dày mỏng của đồng tiền trong các công đoạn sản xuất khác nhau. Có thể nhìn thấy những bộ phận khác nhau, một số có sắc màu nhạt hơn, một số đậm hơn những bộ phận xung quanh. 3/ Chỉ bảo mật được đưa vào đồng tiền khi sản xuất. Nếu nhìn qua ánh sáng có thể thấy một sợi chỉ chạy xuyên suốt chiều ngang đồng tiền, nhưng nếu nhìn kỹ trên sợi chỉ còn có các chữ euro và các con số chỉ giá trị đồng tiền (ở cả hai mặt). 4/ Góc trái trên của mặt trước đồng tiền có một số hình ảnh nhìn xuyên, gồm những dấu hiệu bất thường được in cả trước và sau. Khi đưa ra trước ánh sáng chúng kết hợp với nhau để tạo nên con số chính xác và hoàn hảo. 5/ Mặt trước trên, phía bên phải của những đồng mệnh giá 5, 10, 20 euro có một vạch 3 chiều (có chứa hình ảnh 3 chiều), khi lật hai mặt của đồng tiền có thể thấy ký hiệu đồng euro, con số mệnh giá màu sắc tươi sáng. Còn đối với đồng có mệnh giá 50, 100, 200 và 500 euro, cũng có vạch 3 chiều nhưng khi dịch chuyển đồng tiền có thể thấy con số chỉ mệnh giá cùng các công trình kiến trúc có màu sắc tươi. 6/ Đối với 4 đồng tiền có mệnh giá lớn nhất, các con số chỉ giá trị đồng tiền trên góc dưới bên phải của mặt trái các đồng tiền đều in bằng mực đổi màu. Nó có mầu tím khi nhìn thẳng, chuyển sang ôliu, hoặc thậm chí là nâu khi nhìn nghiêng. 7/ Đối với 3 loại đồng tiền mệnh giá thấp có một vạch ngũ sắc chỉ xuất hiện ở mặt trái, phát sáng dưới ánh sáng mạnh và có thể nhìn rõ ký hiệu euro và con số giá trị đồng tiền ở vạch ngũ sắc đó. Đối với tiền xu có tất cả 8 loại mệnh giá khác nhau 1, 2, 5, 10, 20, 50 cent và 1, 2 euro (1 euro = 100 cent). Các loại mệnh giá khác nhau về kích cỡ, trọng lượng, chất liệu, màu sắc, độ dày mỏng và cả rìa đồng tiền (giúp người khiếm thị nhận biết). Đồng tiền có cấu tạo đơn giản hơn tiền giấy, đối với 3 loại có giá trị thấp nhất có hình bản đồ với biểu tượng tượng trưng cho Liên minh châu Âu như một khối thống nhất từ nhiều quốc gia thành viên. Các loại tiền xu còn lại có biểu tượng của cả khối Liên minh châu Âu. 4: sự lưu thông của đồng EURO: Euro trong hệ thống tiền tệ toàn cầu Theo một bản nghiên cứu của Ngân hàng Trung ương châu Âu tỷ lệ của đồng Euro trong dự trữ ngoại tệ trên toàn cầu tăng từ 13% trong năm 2001 lên 16,4% trong năm 2002 và đến 18,7% trong năm 2003, cũng trong cùng thời gian này tỷ lệ của đồng Đô la Mỹ giảm từ 68,3% (2001) xuống 67,5% (2002) và trong năm 2003 còn 64,5%. Nói chung người ta tin rằng tầm quan trọng của đồng Đô la Mỹ như là tiền tệ dự trữ thế giới sẽ tiếp tục giảm và đồng Euro sẽ ngày càng quan trọng hơn trong chức năng này. Tầm quan trọng ngày càng tăng của đồng Euro cũng thể hiện qua một khía cạnh khác: Trong năm 1999 21,7% tất cả các giấy nợ quốc tế được tính bằng Euro, trong năm 2001 là 27,4% và trong năm 2003 đã là 33%. Năm 2004 đồng Đô la Mỹ đã chấm dứt vai trò là tiền tệ quan trọng nhất cho các loại trái phiếu và công trái với lãi suất cố định và lãi suất thả nổi (tiếng Anh: Floating Rate Notes): Trong cuối tháng 9 năm 2004 có trên 12.000 tỉ đô la trái phiếu và công trái quốc tế lưu hành trên toàn thế giới. Trong đó có 5.400 tỉ là đồng Euro, 4.800 tỉ là đồng Đô la Mỹ, 880 tỉ đồng Bảng Anh, 500 tỉ tiền Yen và 200 tỉ là đồng Franc Thụy Sĩ. Tỷ lệ của đồng Đô la Mỹ trong tổng số tiền gửi tại các tài khoản của các quốc gia OPEC giảm từ 75% trong mùa hè 2001 xuống còn 61,5% trong mùa hè 2004. Tỷ lệ tiền Euro tăng trong cùng khoảng thời gian từ 12% lên 20%. Trong năm 2003 tỷ lệ mua bán Euro trên các thị trường ngoại tệ là 25% so với 50% của đồng Đô la Mỹ và 10% cho hai loại tiền Bảng Anh và Yen Nhật. Đồng Euro vì vậy là tiền tệ quan trọng đứng thứ nhì hiện thời.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan