Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Mục lục
Mục
Trang
A.Lời nói đầu………………………………………………………………………2
B. Nội dung……………………………………………………………………….. 3
I. Sự hình thành và phát triển của nho giáo ………………………………………..3
1.Nho giáo, định nghĩa và sơ khai ………………………………………………………...3
2.Nho giáo qua các thời kì…………………………………………………………………3
2.1Nho giáo nguyên thủy…………………………………………………………..4
2.2.Hán Nho………………………………………………………………………..5
2.3.Tống Nho……………………………………………………………………….5
3.Sự phát triển của nho giáo ở Việt Nam…………………………………………...6
.II. Nội dung, tư tưởng của nho giáo………………………………………………..8
1. Tu thân…………………………………………………………………………...9
1.1.Tam cương……………………………………………………………………...9
1.2. Tam tòng………………………………………………………………………10
1.3. Tứ đức…………………………………………………………………………10
2.Hành đạo…………………………………………………………………………10
III. Ảnh hưởng của nho giáo đến lớp trẻ hiện nay………………………………....11
1.Nhân …………………………………………………………………………..…13
2.Lễ …………………………………………………………………………….…..13
3.Nghĩa ………………………………………………………………………...…..14
4.Trí…………………………………………………………………………...……14
5.Tín………………………………………………………………………………...14
6.Đối với phụ nữ……………………………………………………………………15
7.Tiểu kết…………………………………………………………………………...16
IV. Kết Luận………………………………………………………………………..18
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
1
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
V. Tài liệu tham khảo………………………………………………………………19
Bài tiểu luận triết học
Chủ đề :
“Ảnh hưởng của nho giáo đến thế hệ trẻ hiện nay”
A.Lời nói đầu
Khi chữ nho còn trong thời kì phát triển và hưng thịnh, các nhà nho được nhân dân kính
trọng, nho giáo rất phổ biến trong xã hội thì nho giáo lại càng được coi trọng. những tư
tưởng tu thân như tam cương, ngũ thường, tam tong tứ đức, rồi đến tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ được con người coi như một khuôn mẫu để sống và hành xử theo.
.
Ngày nay, nho giáo vẫn rất quan trọng, chỉ có điều không rõ ràng như trong thời phong
kiến. những đạo lí nho giáo đã được thế hệ trước truyền lạ cho thế hệ sau thong qua cách
giáo dục con cái của họ. Nhờ thế, nho giáo ngày càng ăn sâu vào ý thức của con người, đặc
biệt là người việt nam ta. chúng ta sống và làm việc theo một cái khuôn mà chúng ta không
hề hay biết, ấy là nho giáo. điều này chứng tỏ nho giáo quan trọng như thế nào trong xã hội
hiện nay.
Từ khi còn nhỏ, chúng ta đã được dạy rất nhiều điều. ví như, gọi dạ bảo vâng, nói năng
lễ phép với người trên, phải kính trên nhường dưới, phải có hiếu với ông bà, cha mẹ, phải
chăm lo học hành để sau này cha mẹ được nhờ. chúng ta tiếp nhận những thông tin ấy một
cách vô thức, tiếp nhận như một lẽ dĩ nhiên phải thế mà chúng ta không biết rằng những
điều chúng ta được dạy ấy không tự nhiên mà có.
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
2
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Những đạo lí ấy theo con người lớn lên và hằn sâu vào nếp nghĩ, trở thành một phần
trong cái bản ngã không thể thay đổi của con người. Những đứa trẻ được giáo dục cẩn thận
sẽ sống tốt hơn những đứa trẻ khác sau khi trưởng thành. Điều này cho ta thấy nho giáo
không chỉ quan trọng trong thời phong kiến mà còn rất cần thiết trong cuộc sống hiện đại
ngày nay. Những suy nghĩ lệch lạc hay đúng đắn là do người ấy tiếp nhận những kiến thức
lễ nghĩa như thế nào mà thôi
Ngày nay, thế hệ trẻ có rất nhiều tiến bộ trong tư tưởng. vì thế để họ không bị lệch lac
trong suy nghĩ, chúng ta cần có một cái nhìn tổng quan hơn, sâu sắc hơn về những nội dung
tư tưởng của nho giáo. vì thế em chọn chủ đề “ảnh hưởng của nho giáo đối với thế hệ trẻ
ngày nay” để trình bày trong bài tiểu luận đầu tay này.
B.Nội dung
I. Sự hình thành và phát triển của nho giáo
1. Nho giáo, định nghĩa và sơ khai
Nho giáo, còn được gọi là Khổng giáo, là một hệ thống đạo đức, triết lý và tôn giáo do
Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất phát triển ở các nước
châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, và Việt Nam. Những người thực hành theo các
tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho.
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu
Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm
551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền
bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho giáo.
Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca Mầu Ni, Giê-xu,...
người đời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng tử một cách trực tiếp mà chỉ được
biết các tư tưởng của ông bằng các ghi chép do các học trò của ông để lại. Khó khăn nữa là
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
3
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
thời kỳ "đốt sách, chôn Nho" của nhà Tần, hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời khiến
việc tìm hiểu tư tưởng gốc của Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đời
sau vẫn cố gắng tìm hiểu và hệ thống các tư tưởng và cuộc đời của ông.
2.Nho giáo qua các thời kì
Qua các thời kì, các triều đại Trung quốc, nho giáo đã phát triển cho phù hợp với tình
hình kinh tế, xã hội thời ấy, tên của nho giáo cũng được thay đổi cho phù hợp với nội dung.
Sự thay đổi, vận độn của nội dung ảnh hưởng đến hình thức: tên của nho giáo qua từng thời
kì. Và có một điều nữa là cái tên ấy luôn thay đổi chậm hơn rất nhiều so với sự thay đổi của
nội dung.
2.1Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có
Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc
bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất,
học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của
Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau
đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến
thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách
Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho
giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình
thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó
còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành
thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho
cần phải thực hành.
2.2.Hán Nho
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo
lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
4
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai
ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo
nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng
"lễ trị" để che đậy "pháp trị
2.3.Tống Nho
Trong đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận ngữ
và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường của
các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy
(thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh
Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương Tây gọi Tống nho là "Tân
Khổng giáo. Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố
"tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc
đào tạo quan lại và cai trị
Mỗi thời đại ta lại thấy nho giáo có một bước phát triển, có sự thay đổi rõ rệt để phù hợp
với nhu cầu của giai cấp thống trị. Nho giáo đã góp phần quan trọng trong đời sống tinh thần
của nhân dân Trung Quốc lúc bấy giờ
3.Sự phát triển của nho giáo ở Việt Nam
Vượt biên giới Trung Hoa, Nho giáo truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, hình
thành một vành đai văn hoá Nho giáo. Nho giáo khác Cơ đốc. Các giáo sĩ Cơ đốc di truyền
giáo, luôn trung thành với giáo lý. Còn Nho giáo đều được tiếp thu theo tình hình cụ thể của
mỗi nước. Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam đều đã cải tạo Nho giáo bằng mẫu thể văn hoá
bản địa của mình. Có nghĩa là Nho giáo Triều hoá, Nho giáo Nhật hoá, Nho giáo Việt hoá có
sự khác biệt về cấu trúc với Nho giáo Trung Hoa. Các phần tử có thể giống nhau song kiểu
cấu trúc khác nhau. Tất nhiên, nói chung vẫn có thể gọi tất cả đó là Nho giáo, và như vậy,
phạm trù Nho giáo mở rộng ra các nước trong khu vực thì lại càng mờ ảo về ranh giới.
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
5
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Mười thế kỷ đầu công nguyên, Nho học Việt Nam chưa thịnh, chưa hình thành tầng lớp
Nho sĩ nắm vai trò quan trọng trong xã hội. Thành phần trí thức ưu tú bấy giờ là những nhà
tu, đặc biệt là các cao tăng. Thông qua việc học chữ Nho để đọc kinh Phật, các sư tiếp thu
luôn Nho học. Thế nên, khi đất nước vừa độc lập, kể từ Ngô (939-965), Đinh (968-979), Lê
(980-1009), trí thức tài đức ra giúp triều đình là các đạo sĩ và thiền sư. Một số thiền sư có
công dạy các tục gia đệ tử trở thành nhân tài giúp nước, như sư Khánh Vân và sư Vạn Hạnh
lần lượt là thầy dạy Lý Công Uẩn; sư Trí ở núi Cao Dã là thầy của Thái úy Tô Hiến Thành,
Thái bảo Ngô Hòa Nghĩa...
Lễ tắc của Nho giáo được chắt lọc và Việt hóa, làm thành các nghi thức quan hôn tang tế,
và đạo nghĩa là nội dung tu thân tề gia, tiếp nhân xử thế. Tuy chịu ảnh hưởng hài hòa của cả
Nho Phật Ðạo, nhưng từ gia đình, thân tộc cho tới làng nước, ở đâu cũng thấy người Việt lấy
đạo đức Nho giáo làm chuẩn mực giao tiếp. Thậm chí cho tới ngày nay, trong việc kết hôn,
cúng giỗ, tang ma, hầu hết người theo các tôn giáo khác vẫn giữ những nét chính của nghi lễ
Nho giáo.
Nho học Việt Nam phát triển từ thế kỷ XI, sang đời Nguyễn thì suy. Nho học mở đường
xuất thân cho kẻ sĩ thông qua khoa cử; nhờ đó thúc đẩy văn học phát triển, văn hóa được
nâng cao. Không ít tiên Nho Việt Nam là tác gia, đi sâu vào triết Nho. Nhưng chiến tranh
liên miên, sách vở bị cướp, đốt mất quá nhiều, tư tưởng học thuật của tiên Nho Việt Nam
hầu như không còn lưu lại gì cho đời sau nghiên cứu. Nên nói đến Nho giáo Việt Nam, cái
nổi bật hình như không phải là tư tưởng triết học, mà lại là văn chương, khoa cử, và vai trò
chính trị của sĩ phu trong lịch sử.
Việc học hành thời xưa rất được coi trọng, vì vậy, năm 1076 vua Lý hân Tông mới cho
xây dựng Văn Miếu-Quốc Tử Giám, một trường được coi là trường đại học đầu tiên ở Việt
Nam và trên thế giới. Văn Miếu được xây dựng tháng 10 năm 1070, thờ Khổng Tử, các bậc
Hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo
cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Năm 1076, nhà Quốc Tử Giám được xây kề sau
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
6
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Văn Miếu, ban đầu là nơi học của các hoàng tử, sau mở rộng thu nhận cả các học trò giỏi
trong thiên hạ.
Suốt mười thế kỷ, triết học Nho giáo đã được các trẻ em mới cắp sách đến trường tiếp cận
qua những bài học vỡ lòng lấy từ các sách Ấu học ngũ ngôn, Tam thiên tự, Ngũ thiên tự,
v.v… Nhà giáo là các thầy đồ, thuộc tầng lớp sĩ phu, đứng đầu trong năm giai tầng xã hội: sĩ,
nông, công, thương và binh.
Dưới đây là một số hình ảnh về các khoa thi cũng như các hình ảnh về thi cử thời xưa
Trường thi ở Nam Định
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
7
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Lễ vinh quy của tiến sĩ
Bia khắc tên tiến sĩ qua các khoa thi
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
8
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Lễ xướng danh những người thi đậu
II. Nội dung, tư tưởng của nho giáo
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để
tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu
mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân tử = chỉ tầng lớp trên
trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau "quân
tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với
"tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể
được lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng đến trước tiên là những người cầm quyền).
Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi
tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo" (Đạo không đơn giản chỉ là
đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao
chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo
đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời
giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo
vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sơ
triết lí của Nho giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của nó.
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
9
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Nho giáo đã được nghiên cứu với tư cách là một hệ thống bao gồm nhiều tiểu hệ thống như:
1. Lễ chế, nghi thức phép tắc, quan niệm về Lễ.
2. Tư tưởng triết học.
3. Quan niệm trị thế.
4. Tư tưởng chính trị, kinh tế.
5. Lý luận về giáo dục, học vấn...
6. Luân lý...
1. Tu thân
Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức... để làm chuẩn mực cho
mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là lẽ
đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được tam cương,
ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an bình.
1.1.Tam cương: tam là ba, cương là giềng mối. Tam cương là ba mối quan hệ: quân thần
(vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (vợ chồng).
1. Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung
thành một dạ.
2. Phụ tử: Cha hiền con hiếu. Cha có nghĩa vụ nuổi dạy con cái, con phải hiếu
đễ và nuôi dưỡng cha khi cha về già.
3. Phu phụ: Chồng phải yêu thương và đối xử công bằng với vợ; vợ chung thủy
tuyệt Ngũ thường: ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều
phải hằng có trong khi ở đời, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
4.
Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
5.
Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
6.
Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
7.
Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
10
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
8.
Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
1.2Tam tòng: tam là ba; tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm:
"tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
1.Tại gia tòng phụ: người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha
2.Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,
3.Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con"
1.3Tứ đức: tứ là bốn; đức là tính tốt. Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có, là:
công - dung - ngôn - hạnh.
1.Công: khéo léo trong việc làm.
2.Dung: hòa nhã trong sắc diện.
3.Ngôn: mềm mại trong lời nói.
4.Hạnh: nhu mì trong tính nết.
2.Hành đạo
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung
của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Tức là phải
hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là
bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử
trong việc cai trị là hai phương châm:
Nhân trị. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi
người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói:
"Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người
khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
11
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà
làm gì?" (sách Luận ngữ).
Chính danh. Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người
phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời
không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh
Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con
ra con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng
được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ
Trên đây là những nội dung chính của nho giáo hay còn gọi là Khổng Giáo. Tuy nhiên,
trong tư tưởng nay fconf tồn tại khá nhiều mâu thuẫn, ấy chính là cái mâu th nội tại trong
nho giáo.
Mâu thuẫn đầu tiên là mâu thuẫn về thái độ đối với người dân. Văn hóa du mục
trọng sức mạnh, trọng người quân tử, lấy người quân tử để đối lập với kẻ tiểu nhân người dân thường. Trong khi văn hóa nông nghiệp lại coi trọng dân, lấy dân làm chủ,
"dân là chủ của thần".
Mâu thuẫn tiếp theo là mâu thuẫn giữa "lễ trị" (pháp trị) của văn hóa du mục với
"nhân trị" của văn hóa nông nghiệp. Khổng Tử nói nhiều đến "lễ trị", ông vận động
các nước chư hầu duy trì cái "lễ" của nhà Tây Chu: "Ta học lễ nhà Chu, hiện đang
ứng dụng; ta theo nhà Chu" (sách Trung Dung). Học trò thường được ông kể rằng:
"Nằm mộng thấy Chu Công". Nhưng dần dần, Khổng Tử chuyển từ "lễ" sang "nhân",
nhập "nhân" vào với "lễ" và còn đi xa hơn, coi "nhân" làm gốc của "lễ nhạc":
"Không có nhân thì lễ để làm gì? Không có nhân thì nhạc để làm gì?" (sách Luận
Ngữ).
Mỗi một sự viêc đều có những hạn chế, mâu thuẫn nhât định nội tai trong tự thân nó
nhưng chính cái sự mâu thuẫn ấy khiến cho nho giáo phát triển. mâu thuẫn trong triết học
một lần nữa lãi hứng tỏ sức thuyết phục của mình. Có mâu thuẫn mới có phát triển, mới
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
12
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
có những trăn trở suy nghĩ của thế hệ sau này kế thừa sáng tạo và thông minh hơn. Như
thế ta mới có một Khổng Tử thông tuệ, lỗi lạc sáng tạo thêm về khổng giáo; một Mạnh
Tử kế thừa và tạo nên một Khổng-Mạnh giáo được người đời dùng suốt 2000 năm qua.
Và để rồi ngày nay khi mà nho giáo vẫn còn chiếm một phần quan trọng trong đời sống
nhân dân thì người ta lại có những điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh của mình mà
điều này tôi sẽ trình bày kĩ hơn ở phần sau.
III. Ảnh hưởng của nho giáo đến lớp trẻ hiện nay
Ngày nay, nho giáo vẫn còn vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần trong xã hội
Việt Nam hiện nay. Tuy rằng không phải ai cũng dễ dàng nhận ra điều này. Nhưng thực
tế là nho giáo đã xâm nhập sâu và trong tiềm thức mỗi chúng ta. Như chính cái cách bạn
nói chuyện với ai đó, người ta dễ có cảm tình hơn với người ăn nói nhỏ nhẹ dễ nghe,
duyên dáng, dịu dàng. Hay một chàng trai dễ bị đánh đổ bởi một cô gái đảm đang trong
nội trợ gia đình. Tôi không dung từ tất cả nhưng hầu hết những đánh giá của chúng ta
trong đời sống hàng ngày đều dựa trên khuôn phép của nho giáo từ xa xưa. Và vô tình
chúng ta sử dụng những khuôn phép ấy để đánh giá tính cách một ai đó mà tự thân
không biết được rằng những khuôn phép ấy từ đâu mà có!
Con người hôm nay và con người hôm qua – con người của ngàn xưa – dường như
không khác nhau là mấy. Cởi bỏ lớp vỏ bọc văn minh vật chất, con người ấy, dẫu hình
hài có thanh tú mỹ lệ hơn con người ban sơ, nhưng nỗi khắc khoải vẫn còn nguyên vẹn.
Vẫn còn đấy niềm băn khoăn muôn thuở: con người, mi là ai? Một nhà thơ nào đó đã
từng òa khóc cho thân phận con người trong cảnh thương hải tang điền: «Ta là ai giữa
mùa thay đổi ấy?»
Người ta luôn khát khao được hoàn thiện bản thân, và cái hoàn thiện đến mức chânthiện-mỹ trong đạo phật ấy lại được lấy nền tảng là những lễ nghĩa trong nho giáo. Cũng
không có gì là kho hiểu bởi cả nho giáo và phạt giáo đều được truyền bá khá rộng rãi
khắp châu Á, đặc biệt là ở Trung Hoa và Việt Nam. Những lễ nghĩa ấy ăn sâu vào suy
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
13
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
ngĩ con người, người ta làm theo những quy tắc ấy bằng phản xạ, một cách vô thức như
thể một điều gì đó rất hiển nhiên.
Nho giáo có ảnh hưởng như thế đối với người đi trước, những người được sinh ra khi mà
nho giáo vẫn còn thịnh trị trong xã hội. và thời nay nó vẫn còn nguyên giá trị bởi con
người biết cách truyền lại cho con cháu cái gọi là truyền thống, cái gọi là những điều răn
dạy của người xưa.
Nho sĩ ngày trước thể hiên mình là người có học thức thường học thật giỏi rồi vinh
quy bái tổ chứ khong hề biết rằng cái quan trọng hơn của nho giáo nằm ở 5 chữ “nhân, lễ
nghĩa, trĩ, tín”. Đây chính là cốt lõi sâu xa của nho giáo.Cái cách con người đối xử với
nhau cũng không tách rời 5 chữ ấy.
nhưng một bộ phận không nhỏ các bạn trẻ bị bạn bè rủ rê lôi keo theo con đường sa ngã
khiến cho suy nghĩ lệch lạc và có cái nhìn không mấy thiện cảm đối với các bậc sinh
thành. Điều này rất nguy hiểm cho đời sống tinh thần các bạn, những suy nghĩ ấy sẽ bóp
chết các bạn trong một ngày không xa.
Tuy nhien chúng ta cũng không nên nghĩ rằng đó là tất cả bộ mặt của lớp trẻ hiên nay,
vẫn còn rất nhiều những tấm gương hiếu thảo, hiếu học, tâm gương giúp đỡ bạn vượt
khó, tấm gương vì bạn quên mình. Như vậy những tấm gương ấy, những suy nghĩ cao
đẹp ấy vẫn còn, và còn rất nhiều trong xã hội hiện nay. Chúng ta có cơ sở thực tiễn về
việc những hi vọng rằng thế hệ trẻ ngày nay còn giữ được rất nhiều những đức tính tốt
mà theo quan niệm của nho giáo thì đây là những lễ nghĩa.
1.Nhân
Đối xử với nhau bằng chữ nhân chính là dung cái tâm để nói chuyện, để xử sự với
nhau. Nếu họ cứ có chút mâu thuẫn gì với nhau là đem nhau ra là hành xử như luật rừng
không chút lương tâm thì ấy không được.người ta gọi là những người như thế là vô giáo
dục, vô học. vì vậy, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng rất cần có được chữ nhân trong tâm.
Con người ngày nay càng cần phát huy hơn nữa chữ tâm ấy. và chúng ta khogn khỏi ngạc
nhiên với những tấm ồng hảo tâm từ mọi miền tổ quốc cứu đói cho bà con vùng lũ lụt,
ủng hộ người nghèo mà ít ai làm được.
Với thế hệ trẻ ngày nay thì sao, họ là những thanh niên tình nguyện ra sức học tập,
bên cạnh đó họ còn tham gia vào các hoạt động tình nguyện giúp đỡ cộng đồng. Họ
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
14
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
khônhững miền quê nghèo khó nhất của tổ quốc để giúp đỡ nhân dân nơi đây. Họ cống
hiến sức trẻ, lòng nhiệt huyết của mình vào các việc làm tình nguyện. họ không ngại khó
khăn gian khổ để đi, để đến những vùng miền xa xôi của tổ quốc, làm tình nguyện. tấm
lòng ấy mới đáng quý biết bao. Cái chữ tâm trong tim khi rực cháy sẵn sàng làm bất cứ
điều gì có thể giúp dược cho người khác. Khát khao được cống hiến, khát khao được
sống những ngày có ý nghĩa của lướp trẻ đã như ngọn đuốc soi đường dẫn lối cho họ làm
những điều đúng đắn nhất.
2.Lễ
Ngày xưa, người ta đối với nhau bằng những lễ giáo phong kiến tưởng chừng như
khô cứng nhưng thực ra cũng rất bền vững. ví như quan hệ vợ chồng, lúc nào cũng phải
“kính nhau như khách”. Có một đôi người phản đối. nhiều ý kiến tán thành. Vợ chồng
nhiều khi cứ quen quá thành ra không quý nhau nữa. vợ chồng nói với nhau những câu
thô lỗ cục cằn, vi l vợ chồng nên không biết nói lời cám ơn, xin lỗi thông thường chúng
ta vẫn nói với bạn bè hay chính những người không quen biết. đó chính là cái mà chúng
ta nên xem lại mình.
Hay đối với cha mẹ, rất nhiều bậc con cái vào nhà không hoi rcha mẹ. khi cha mẹ ốm
cũng chẳng hỏi han lấy một câu cho tử tế. trong khi chúng ta sốt sắng lo cho người khác
thì người mà chúng ta nên lo nhất lại đang lo lắng cho chúng ta mặc dù mái tóc ấy đang
bạc đi, tám thân ấy đang ngày càng tiều tụy. có phải chăng lớp trẻ hiện nay đang mắc
phải căn bệnh thờ ơ với chính người thân xung quanh???
3.Nghĩa
Chữ nghĩa ngày xưa được hiểu là làm việc công bằng, không có sự thiên vị cho bất
kì ai, thế nên mới có câu “thiên tử mắc tội xử ngang thường dân”. Điều này cho thấy chữ
nghĩa được triều đình phong kiến rất coi trọng. hay như các quan tham ô trong triều cũng
cần phải diệt trừ tận gốc. ta liên tưởng tới thời đại ngày nay, khi mà mọi chuyện làm ăn
đều khó khăn, những kiểu luồn lách sẽ nhanh hơn cách đi vào đường cổng chính.
Giới trẻ ngày nay thì sao, họ nghĩ gì về việc này?
4.Trí
Kẻ trí là kẻ khôn ngoan, biết suy xét điều phải trái, biết minh triết bản thân trong
cảnh nguy nan, biết phân biệt kẻ xấu người tốt để xử lý vấn đề sao cho hợp lí nhất. Nếu
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
15
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
có lỡ giao du với kẻ xấu thì phải tuyệt giao với họ nhưng không nói xấu cho họ. Điều
này răn người ta nên chọn bạn mà chơi, phải biết kẻ tốt người xấu, tuy nhiên cũng
khoogn nên nói xấu sau lưng người khác tránh hạ thấp uy tín bản thân.
5.Tín
Bậc quân tử vì chữ Tín mà hành xử. Tín là tin mình, tin người. Nhờ chữ Tín đó mà
thành Người. Vì tự tin vào mình nên dù ai không biết tài đức của mình, mình cũng không
buồn không oán. Tự tin vào tài đức của mình, càng ngày càng trau dồi, để một mai kinh
bang tế thế, bấy giờ người biết mình cũng không muộn. Vì có tin nhau nên việc mới
thành tựu, người mà không tín thì không biết ra thế nào.
Trong công việc kinh doanh ngày nay cũng vậy, nếu dùng người mà không tin thì
không thể đạt được hiệu quả lớn nhất. và như thế thì không thể thu phục được lòng
người. Nếu là người biết tin ở người, thì sẽ được người khác tin ở mình và đạt được
thành công là điều ắt đến.
Biết được điều này, những doanh nhân trẻ tuổi đã biết cách dùng lòng tin để thu
phục lòng người. nếu đã không tin thì không dùng,dã dung thì phải tin. Và bằng cách
này, rất nhiều doanh nhân thế hệ 8x đã có được những thành công nhất định từ việc biết
nhân tố con người là nhân tố quan trọng bậc nhất trong một công ty. Con người cũng
chính là nhân tố quan trọng nhất trong việc trị quốc thời xưa, và cho đến nay, đảng ta
vẫn giữ được đường lối lãnh đạo “lấy dân làm gốc” của nho giáo.
6.Đối với phụ nữ
Tư tưởng “Tam tòng, tứ đức” đã thấm sâu vào ý nghĩ của phụ nữ thời xưa. Những lễ
giáo phong kiến đã kìm hãm những tư tưởng muốn vượt lên của người phụ nữ. Chính vì
thế mà trong lịch sử có rất nhiều những nhà thơ nữ bày tỏ sự bất mãn của mình trong
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
16
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
những tác phẩm văn chương, ví như Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, hay các nữ anh
hùng Bà Trưng, Bà Triệu,…
Nhưng phụ nữ ngày càng được coi trọng trong xã hội, họ tham gia nhiều hơn vào các
hoạt động xã hội, vào bộ máy quản lí nhà nước, vào các lĩnh vực mà trước giờ chỉ có
nam giới được tham gia,…Không chỉ thế, phụ nữ không còn là người chỉ biết nghe lời
nữa, họ có những quan điểm riêng và họ có thể đưa ra bàn bạc với chồng. Phụ nữ ngày
càng có tiếng nói trong gia đình. Pháp luật bảo vệ hơn cho người phụ nữ bằng luật Bình
đẳng giới. nhờ luật này mà các cuộc bạo hành giảm hẳn trong những năm gần đây. Phụ
nữ nhờ thế ỷ lại, càng ngày càng quá đáng ức hiếp những ông chồng một cách thậm tệ,
thật là khó chấp nhận.
Tuy rằng Đạo Khổng giáo có những hạn chế đối với phụ nữ nhưng những chuẩn mực
đặt ra cho người con gái thì vẫn còn nguyên giá trị. Người con gái ngày nay, được xã hội
bảo vệ nhưng không vì thế mà làm mất đi cái truyền thống. vẫn là tứ đức nhưng tứ đức
trong thời hiện đại không chỉ bó hẹp trong gia đình nữa bởi người phụ nữ thông minh
biết cách hòa hợp cái hiện đại và cái truyền thống. Vẫn là công,tức nữ công gia chánh,
người phụ nữ ngày nay biết cách kết hợp các món ăn sao cho đầy đủ chất nhất, biết
những thức ăn tốt, không tốt để chăm sóc cũng như ngăn ngừa bệnh tật cho chồng con.
Tuy rằng không phải lúc nào họ cũng có thể nấu cơm cho cả nhà nhưng chắc chắn họ
biết cách bảo vệ sức khỏe hàng ngày cho cả gia đình.
Vẫn là dung, nhưng cái đẹp của người phụ nữ hiện nay không chỉ là cái đẹp đơn sơ
chất phác nữa. Có câu “không có người con gái xấu, chỉ có người con gái không biết làm
đẹp”. Nếu như người con gái thời xưa e lệ trong tà áo tứ thân hay tà áo dài duyên dáng
thì bây giờ họ có rất nhiều kiểu dáng váy áo để phù hợp với hình dáng mà vẫn mang đậm
tính truyền thống. Ánh mắt, nụ cười như rạng rỡ hơn với một chút phấn trang điểm, bờ
môi, đôi má hồng đẹp hơn dưới ánh nắng. Sắc đẹp ấy không phải là giả tạo, nó làm cho
khuôn mặt vốn đã đáng yêu lại càng thêm tươi tắn mà không làm mất đi cái vẻ đẹp vốn
có. Người con gái biết làm đẹp là người biết tôn trọng mình và những người xung
quanh.
Nếu như ngày xưa một người con gái ngoan phải là gọi dạ bảo vâng, không được
tham gia vào những chuyện của gia đình, phải hết sức nhẫn nhịn, cha mẹ đặt đâu con
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
17
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
ngồi đấy, thì bây giờ mọi chuyện đã hoàn toàn khác. Con cái, dù là trai hay gái đều có
quyền được quyết định lấy số phận của mình. Có rất nhiều cô gái có những tài năng đặc
biêt như ca hát theo như quan niệm cũ gọi là xướng ca vô loài, không được gia đình chấp
nhận, nhưng những cô gái ấy không từ bỏ giấc mơ của mình, quyết tâm theo đuổi mục
đích, đã thuyết phục gia đình để có thể làm những điều mình mong muốn.
Lời nói của người con gái vẫn cần nhẹ nhàng, dịu dàng, nhưng cũng có lúc cần đanh
thép đối với những kẻ buông lời lả lơi. Lời nói thể hiện trình độ văn hóa của người nói.
Như vậy một người con gái dược học hành tử tế sẽ có một cách nói hấp dẫn đặc biệt đối
với người khác. Ấy là sự hấp dẫn của tri thức. lời nói có lúc cương, lúc nhu, cái quan
trọng làm nên nét đẹp trong cách sử dụng ngôn từ của lời nói là nói đúng lúc, đúng chỗ,
nói đúng và nói thật. Người con gái hiện đại thật sự hiểu những điều dạy tron gnho giáo
sẽ biết xử trí ra sao.
Không chỉ đẹp trong phong thái, cách nói năng, đi đứng, đẹp trong hình thức, người
con gái thông minh thời hiện đại luôn biết cách ứng xử sao cho phù hợp nhất, thông
minh nhất. Đối với người trên, luôn kính trọng; đối với anh chị em luôn ân cần giúp đỡ,
đối với bạn bè nhiệt tình, chân thành…
Tuy rằng người phụ nữ tham gia vào nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội mất khá
nhiều thời gian nhưng vẫn biết sử dụng thời gian còn lại cho việc chăm lo gia đình. Đặc
biệt khi xã hội ngày càng phát triển theo xu hướng kinh tế thị trường, người con gái
nhiều khi quên mất mình là con gái và sẽ phải chăm lo cho một gia đình sau này, họ
không chú ý đến việc nữ công gia chánh. Tuy nhiên vẫn còn nhiều người con gái còn giữ
được những nét truyền thống, có sức hấp dẫn đực biệt đối với nam giới, điều này làm nên
nét duyên dáng đặc biệt của người phụ nữ phương đông nói chung và người phụ nữ Việt
Nam nói riêng.
7. Tiểu kết
Nho giáo có rất nhiều những luân lí mà giới trẻ chúng ta nói riêng mà người Việt
Nam nói chung, ta có thể học tập, vận dụng vào đời sống hàng ngày để sống tốt hơn. Tuy
nhiên, nho giáo cũng có một số mặt hạn chế nhất định khiến cho Khổng Tử lúc bấy giờ
rất băn khoăn. Như vấn đề
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
18
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Xã hội nam quyền trọng nam khinh nữ khiến cho nữ giới mất đi tiếng nói trong xã hội
trong hàng nghìn năm. Nhưng người đời sau đã biết cái sai của người trước nên luôn kế
thừa có tính sáng tạo để có thêm cái mới, cái riêng của mình trong cái xưa cũ cha ông để
lại
IV. Kết luận
Nho giáo chiếm một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của người xưa từ hàng
nghìn năm nay. Và cho đến tận ngày nay, khi chúng ta cùng tìm hiểu về sự ảnh hưởng
của nho giáo đối với lớp trẻ thì nho giáo vẫn còn nguyên giá trị, có khác chăng chỉ là nét
văn hóa của con người Việt Nam được hòa quyện vào cùng nho giáo-nho giáo Việt Nam.
Chắc chắn rằng cho đến mãi sau này nho giáo vẫn là một kim chỉ nam, một chuẩn mực
về cách ứng xử của con người.
Loài Người luôn có khát vọng hướng tới những giá trị nhân văn cao đẹp. Những giá
trị đó phải mang tính chất nhân loại chung, phải hướng tới chân-thiện-mỹ. Đó vừa là điều
kiện cần thiết, vừa là mục đích tối cao của sự phát triển trong bối cảnh nhân loại đã bước
vào thiên niên kỉ thứ 3 với một thế giới ngày càng phẳng. Hơn lúc nào hết, con người
càng phải đề cao giá trị chung đó, hướng tới hòa bình, hợp tác, chuyển từ đối đầu sang
đối thoại trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh giữa các quốc gia, các dân tộc, cùng
chung sức giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Từ khi còn nhỏ, em đã được mẹ dạy cho rất nhiều những điều mà một đứa trẻ nên
hay không nên làm, và đặc biệt là một người con gái thì cần có những đức tính gì cần
thiết cho mai sau. Cho đến bây giờ, khi em dã rời xa vong tay cha mẹ, xa rời những lời
dạy bảo của mẹ, em mới thấm được một phần nào những lời dạy ấy,khi mà ngoài kia
cám dỗ chất đầy…Là một nữ sinh viên của trường đại học kinh tế quốc dân, sông và học
tập trong một môi trường sinh viên năng động bậc nhất ở Hà Nội, đôi lúc em bị cuốn
theo cái guồng quay của cuộc sống, của công việc học hành mà quên mất mẹ, cha, gia
đình, quên mất việc nữ công gia chánh, quên mất mục tiêu chính trong công việc tình
nguyện của mình. Em sống và làm việc vì chữ nhân, lễ, nghĩa mà đôi khi lại quên mất
chữ trí, tín. Thỉnh thoảng phải xem xét lại những đạo lí của nho giáo, để có thể sống cân
bằng trong mọi việc mà vẫn đúng với đạo lí lẽ thường.
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
19
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Để có thể hoàn thành bài tiểu luân này, em đã được sự giúp đỡ tận tình từ thầy Lê
Ngọc Thông. Em xin gửi lời cám ơn sâu sắc nhất tới thầy
V.Tài liệu tham khảo
1.Chiêm Bình, Tứ thư tường giải, Đài Loan, 1964.
2. Ngô Sĩ Liên...: Đại Việt Sử ký Toàn thư - Kỷ nhà Lê, "E. Books 1. TQ-KVD".
3.Nho giáo Trung Quốc: Nguyễn Tôn Nhan-Nhà xuất bản văn hóa thông tin và công ti
giáo dục và thời đại phát hành năm 2005.
4.Con đường tam giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỉ XIX,Lê Anh Dũng.
5.www.wikipedia.com
Đỗ Thị Mai Thanh – Marketing B – k50
20