Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ý thức pháp luật và việc giáo dục pháp luật cho thanh niên ở tỉnh long an hiện n...

Tài liệu ý thức pháp luật và việc giáo dục pháp luật cho thanh niên ở tỉnh long an hiện nay

.PDF
98
5
54

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------- NGUYỄN THÙY LINH Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ VIỆC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN Ở TỈNH LONG AN HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------- NGUYỄN THÙY LINH Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ VIỆC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN Ở TỈNH LONG AN HIỆN NAY Chuyên ngành : TRIẾT HỌC Mã số : 60.22.80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THẾ NGHĨA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thế Nghĩa. Các số liệu, kết quả nêu ra trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Người cam đoan Nguyễn Thùy Linh MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................ 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài...................................................... 3 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn ............................................................. 4 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ........................... 5 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................. 5 6. Kết cấu của luận văn ................................................................................ 5 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT, Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT ................................... 6 1.1. KHÁI LUẬN VỀ PHÁP LUẬT....................................................................6 1.1.1.Khái niệm pháp luật.....................................................................................6 1.1.2. Đặc điểm của pháp luật ..............................................................................8 1.1.3.Vai trò của pháp luật Việt Nam hiện nay ............................................. 11 1.2. Ý THỨC PHÁP LUẬT ................................................................................14 1.2.1. Khái niệm ý thức pháp luật ........................................................................14 1.2.2. Đặc điểm của ý thức pháp luật ............................................................ 18 1.2.3. Vai trò của ý thức pháp luật ................................................................ 26 1.3. GIÁO DỤC PHÁP LUẬT ..................................................................... 29 1.3.1. Khái niệm giáo dục pháp luật ............................................................. 29 1.3.2. Mục đích nhận thức về pháp luật ........................................................ 32 1.3.3. Vai trò của giáo dục pháp luật ............................................................ 38 Kết luận chương 1 ..............................................................................................41 Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN Ở TỈNH LONG AN HIỆN NAY....................................... 43 2.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM CỦA THANH NIÊN Ở TỈNH LONG AN. ......43 2.1.1. Những yếu tố tác động đến thanh niên ở tỉnh Long An hiện nay ..............43 2.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của thanh niên ở tỉnh Long An hiện nay ..........49 2.2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN Ở TỈNH LONG AN HIỆN NAY........................................................................................55 2.2.1. Những hình thức giáo dục pháp luật thanh niên ở tỉnh Long An ..............55 2.2.2. Kết quả và hạn chế của giáo dục pháp luật cho thanh niên ở tỉnh Long An cùng những nguyên nhân của chúng ...................................................................60 2.3. NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN Ở TỈNH LONG AN HIỆN NAY ......................................68 2.3.1. Nâng cao vai trò trách nhiệm của hệ thống chính trị trong công tác giáo dục pháp luật cho thanh niên ........................................................................ 68 2.3.2. Đổi mới hình thức và nội dung giáo dục pháp luật cho thanh niên ...... 71 2.3.3. Kết hợp giáo dục pháp luật với giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức và nâng cao trình độ văn hóa cho thanh niên ..................................................... 75 2.3.4. Kết hợp nhà trường với gia đình và xã hội trong công tác giáo dục pháp luật cho thanh niên ....................................................................................... 79 2.3.5. Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, thực hiện chế độ thưởng, phạt công bằng, công khai và minh bạch ...................................................... 81 Kết luận chương 2...............................................................................................85 KẾT LUẬN ................................................................................................ 87 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 89 1 MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, có tiềm năng hùng hậu; biết kế thừa tinh hoa truyền thống của dân tộc; của các thế hệ cha, anh và những thành quả cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Trong quá trình đổi mới đất nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực; mở rộng giao lưu quốc tế, thanh niên ta ngày nay có mặt mạnh cơ bản là trình độ học vấn cao, tầm nhìn rộng, nhạy cảm với thời cuộc, có khát vọng mau chóng đưa đất nước vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, luôn là một trong những lực lượng đi đầu trong việc thực hiện các mục tiêu chính trị của Đảng đó là: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đã và đang xuất hiện nhiều tài năng trẻ, nhiều tấm gương điển hình trong sản xuất, kinh doanh, bảo vệ chủ quyền và an ninh đất nước, trong học tập, trong hoạt động nghiên cứu khoa học – kỹ thuật, văn hoá nghệ thuật và thể thao, và trong công tác xã hội… Sự phát triển của thanh niên không những quan hệ đến vận mệnh và tồn tại của đất nước, mà còn ảnh hưởng đến tương lai của dân tộc. Vì vậy, “giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo thanh niên thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng, vừa chuyên” như lời Hồ Chủ tịch là nhiệm vụ cần thiết trong mọi thời đại và cấp bách trong tình hình hiện nay. Trong đó, giáo dục pháp luật, trang bị kiến thức pháp luật cho thanh niên là nhiệm vụ không thể thiếu trong việc bồi dưỡng, phát triển thanh niên Việt Nam. Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 2 tiếp tục khẳng định “xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam có ý thức chấp hành pháp luật”. Ý thức pháp luật sẽ là tiền đề quan trọng cho sự phát triển đất nước để từ đó hình thành lối sống tôn trọng pháp luật sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Qua mỗi thời kỳ lịch sử thì ý thức pháp luật cũng có sự phát triển tương ứng nhưng do tính bảo thủ, lạc hậu cố hữu của ý thức pháp luật trong một số giai đoạn lịch sử nhất định thì sự thay đổi để thích ứng với tồn tại xã hội mới của ý thức pháp luật Việt Nam rất chậm chạp, đôi khi là rào cản của sự phát triển. Một trong những phương thức, giải pháp để nâng cao ý thức pháp luật là giáo dục pháp luật. Hay nói cách khác, giáo dục pháp luật là phương tiện và con đường để hình thành ý thức pháp luật còn việc hình thành ý thức pháp luật là mục đích của giáo dục pháp luật. Long An là tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nằm chuyển tiếp giữa hai miền Đông và Tây Nam Bộ. Thành phố Tân An cách thành phố Hồ Chí Minh 47 km. Với hệ thống giao thông thủy, bộ khá thuận lợi, Long An được xem là cầu nối giữa thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh Tây Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm của phía nam. Thanh niên Long An là lực lượng đông đảo, xung kích trên mọi lĩnh vực, đã và đang giữ vai trò quan trọng trong phát triển tỉnh nhà. Tuy nhiên, Long An có địa giới giáp thành phố Hồ Chí Minh, các cụm khu công nghiệp ngày càng tăng, từ đó lực lượng thanh niên ngoài tỉnh đến sinh sống, học tập, lao động ngày càng nhiều và kéo theo các vấn đề xã hội phát sinh. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường dẫn đến tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm trong thanh niên. Một bộ phận không nhỏ thanh niên thiếu hụt kiến thức, bản lĩnh chính trị non kém dễ dàng sa ngã vào tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật. Vì vậy giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho thanh niên ở tỉnh Long An là việc làm bức bách và cần thiết hiện nay. 3 Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, tôi chọn đề tài: “Ý thức pháp luật và việc giáo dục pháp luật cho thanh niên ở tỉnh Long An hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài Ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật là vấn đề được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu như : Sự hình thành ý thức pháp luật và giải pháp nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta trong thời kỳ đổi mới của Đào Duy Tấn (Nxb. Chính trị quốc gia, 2003), Ý thức pháp luật của Nguyễn Minh Đoan (Nxb. Chính trị quốc gia, 2011), Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính của Lê Đình Khiên (Nxb. Chính trị quốc gia, 2002), Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở của Ngọ Văn Nhân (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011), Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở Việt Nam của Vũ Khiêu, Thành Duy (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000), Bàn về giáo dục pháp luật của PTS Trần Ngọc Đường – Dương Thanh Mai (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội ,1995), Giáo dục pháp luật trong nhà trường của Nguyễn Đình Đăng Lục (Nxb Giáo dục, 2006), Hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật của Nguyễn Tất Viễn (Nxb Tư pháp, 2006), Một số vấn đề về giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay của Nguyễn Đức Giao - Nguyễn Duy Lãm (Nxb. Thanh niên, 1997), luận án phó tiến sĩ có đề tài Giáo dục pháp luật cho học sinh trong nhà trường phổ thông ở nước ta hiện nay của Lê Quý Đình, luận án Tiến sĩ triết học có đề tài Lôgích khách quan của quá trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật ở Việt Nam của Nguyễn Thúy Vân, đặc biệt là quyết định số 2160/QĐTtg ngày 26/11/2010 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt đề án đề án tăng cường giáo dục pháp luật nhằm năng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011 – 2015. 4 Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu về giáo dục pháp luật được đăng tải trên các tạp chí “Một số đặc điểm của ý thức pháp luật Việt Nam” của Nguyễn Thúy Vân (Tạp chí triết học, số 5, 2000), “Mấy suy nghĩ về đổi mới ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thúy Vân (Tạp chí triết học, số 10, 2006), “Một số đặc điểm trong ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở nước ta hiện nay” của Ngọ Văn Nhân (Tạp chí triết học, số 4, 2006), “Giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay” của Đinh Thế Định – Nguyễn Văn Lục (Tạp chí giáo dục tháng 12/2010), “Quan hệ giữa giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức trong công tác giáo dục học sinh, sinh viên” của Phan Hồng Dương (Tạp chí giáo dục tháng 10/2011). Các công trình nghiên cứu trên chỉ đề cập đến những khía cạnh, những vấn đề có liên quan đến ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật, chưa có một công trình nghiên cứu nào về ý thức pháp luật và việc giáo dục pháp luật cho thanh niên ở một địa phương cụ thể nhằm đưa ra những giải pháp khả thi cho việc nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho thanh niên trong tình hình hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở làm rõ thực trạng giáo dục pháp luật cho thanh niên ở tỉnh Long An hiện nay, đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật thanh niên ở tỉnh Long An. Với mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu và làm sáng tỏ một số vấn đề pháp luật, ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật. - Phân tích, đánh giá thực trạng giáo dục pháp luật cho thanh niên ở tỉnh Long An đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho thanh niên ở tỉnh Long An trong tình hình hiện nay. 5 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận chủ đạo của luận văn là các quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và nhà nước ta về ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật. - Phương pháp luận chung cho luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp cụ thể có liên quan để nghiên cứu: khảo sát, thống kê, lôgích và lịch sử, phân tích và tổng hợp, xin ý kiến chuyên gia, khái quát hóa … 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo có giá trị cho sinh viên, học viên chuyên ngành triết học, chính trị, chủ nghĩa xã hội. Luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan trong toàn tỉnh để hoạch định chủ trương, chính sách giáo dục pháp luật cho thanh niên trên địa bàng tỉnh Long An một cách thích hợp và có hiệu quả. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn gồm 2 chương 6 tiết 6 Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT, Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT 1.1. Khái luận về pháp luật 1.1.1. Khái niệm pháp luật Pháp luật đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử xã hội loài người, đã từng có nhiều trường phái, học giả đưa ra rất nhiều luận điểm và khái niệm khác nhau về pháp luật và giải thích nguyên nhân hình thành pháp luật cũng rất khác nhau và thậm chí đối lập nhau. Điển hình là một số trường phái sau đây đã giải thích và pháp luật theo quan điểm của họ như sau: - Trường phái luật tự nhiên cho rằng: pháp luật là thói quen bẩm sinh của con người, là mệnh lệnh của thượng đế, chứ không phải gắn với đời sống xã hội. - Trường phái luật tại lịch sử nhân sinh thì cho rằng: pháp luật cũng giống như ngôn ngữ, tiếng nói của con người, nó phát sinh, phát triển cùng với sự phát sinh và phát triển của lịch sử loài người, nó tồn tại mãi mãi với con người. - Trường phái luật do tâm lý lại quan niệm rằng: pháp luật là sản phẩm của cảm giác con người, người ta cảm thấy cần thiết phải đối xử như thế nào đối với mọi người xung quanh và những người có liên quan. Tư tưởng chính của những người này về luật pháp có thể khái quát như sau: pháp luật nảy sinh trong đời sống tinh thần của mỗi con người, trong tự giác và trong cách hình dung của con người về quyền hạn và trách nhiệm. - Trường phái xã hội học pháp luật, xuất phát từ chủ nghĩa thực dụng cho rằng: pháp luật chính là thực tiễn có lợi, hợp pháp là những gì có lợi, hay pháp luật được tạo ra không phải bởi nhà nước. Các quy phạm pháp luật tồn 7 tại không cần đến nhà nước, mà thực chất nhà nước chỉ phát hiện ra các quy phạm tồn tại một cách tự phát trong đời sống xã hội trên cơ sở đoàn kết và thể hiện các quy phạm này dưới các hình thức đạo luật. Pháp luật không phải là công cụ của nhà nước, không thể hiện ý chí của ai, mà chỉ phản ánh sự đoàn kết của các nhóm xã hội. Triết học Mác – Lênin ra đời đã phê phán các quan điểm của các trường phái trên đây có những điểm chung là thiếu cơ sở khách quan của thực tiễn lịch sử, phủ nhận các quan hệ giai cấp. Các quan điểm trên khi nhận định về pháp luật không có sức thuyết phục, bởi thiếu tính biện chứng khoa học và cơ sở thực tiễn. Theo Mác, trong sản xuất xã hội, giữa người với người hình thành các quan hệ sản xuất nhất định. Tổng thể các quan hệ sản xuất đó hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội. Cơ cấu kinh tế đó là nền tảng cụ thể để xây dựng một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị. Pháp luật chỉ xuất hiện trên cơ sở các quan hệ kinh tế đó phát triển đến một trình độ nhất định; pháp luật sẽ phát triển và thay đổi theo sự phát triển và thay đổi của quan hệ kinh tế. Trong quan hệ đó pháp luật không thể cao hơn chế độ kinh tế là cơ sở kinh tế của nó, khi đã hình thành pháp luật có tác động trở lại rất mạnh mẽ đối với chế độ kinh tế. Đồng thời chủ nghĩa Mác - Lê nin cũng xác định rằng: khi xã hội phát triển sẽ kéo theo sự phát triển, biến đổi của các quan hệ xã hội, đặt ra nhu cầu cần có những quy tắc xử sự phù hợp. Trước đòi hỏi đó, nhà nước với tư cách là tổ chức quyền lực đại diện cho giai cấp thống trị, đã tiến hành xây dựng hệ thống các quy tắc xử sự cho mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bằng cách thức đó, pháp luật trở thành hệ thống các quy tắc luật lệ điều chỉnh hành vi của mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội. Những qui tắc đó thể hiện ý chí của nhà nước, phản ánh lợi ích của giai cấp thống trị và các nhu cầu trật tự, ổn định 8 hay vận động có định hướng của xã hội. Chúng được nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của quyền lực nhà nước. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng pháp luật ngày càng trở thành công cụ đắc lực của nhà nước để thực hiện sự thống trị giai cấp, để thiết lập nền trật tự xã hội. Từ những luận điểm trên có thể định nghĩa pháp luật như sau: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội; là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật, các giai cấp cầm quyền luôn tạo cho pháp luật một khả năng thích ứng, làm cho nó tựa hồ như thể hiện ý chí và lợi ích của đông đảo quần chúng trong xã hội. Bất cứ giai cấp thống trị nào cũng dùng pháp luật làm phương tiện để thực hiện đường lối chính trị và mục tiêu lý tưởng của giai cấp mình. 1.1.2. Đặc điểm của pháp luật Pháp luật là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị (bản chất giai cấp) Học thuyết Mác – Lê nin về nhà nước và pháp luật lần đầu tiên trong lịch sử đã lý giải một cách đúng đắn và khoa học về bản chất của pháp luật. Pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp; ra đời từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, vì vậy pháp luật luôn mang tính giai cấp sâu sắc. Khi nghiên cứu về pháp luật tư sản, Mác và Ăngghen đã đi đến kết luận: “pháp luật của các ông chẳng qua chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật, cái ý chí mà nội dung là do các điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định” [59, tr58]. Như vậy, ý chí của giai cấp thống trị thể hiện trong pháp luật không phải là ý muốn chủ quan của một cá nhân, một nhóm người nào trong giai cấp 9 thống trị mà nó cũng bị quy định một cách khách quan do lợi ích kinh tế của giai cấp đó quyết định. Vì vậy, khi nói pháp luật là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị cũng có nghĩa là khẳng định tính giai cấp của pháp luật. Pháp luật là những chuẩn mực được xã hội thừa nhận (quy phạm phổ biến, bản chất xã hội của pháp luật) Trước hết, pháp luật do nhà nước – đại diện chính thức cho toàn thể các thành viên trong xã hội – ban hành; do đó nhà nước không thể phủ nhận hoàn toàn mà không ghi nhận ở một liều lượng nào đó ý chí của các tầng lớp khác trong xã hội ngoài giai cấp thống trị. Chính vì vậy, thừa nhận tính giai cấp không có nghĩa là khước từ việc nhìn nhận giá trị xã hội của pháp luật. Đối với pháp luật xã hội chủ nghĩa, tính xã hội càng đậm nét thêm khi lợi ích của giai cấp cầm quyền và đông đảo các tầng lớp xã hội trùng hợp với nhau. Ngoài ra, pháp luật còn đóng vai trò là công cụ chính thức hóa những phương thức xử sự hình thành trong xã hội và được số đông ủng hộ như những chuẩn mực cần được ghi nhận. Ở phương diện này, pháp luật rất gần với những giá trị cao quý trong xã hội mà bản thân ngữ nghĩa của từ “pháp luật” phần nào đã nói lên như là sự công bằng, công lý, minh bạch... Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung Pháp luật luôn là những khuôn mẫu xử sự, là thước đo cho các hành vi cách xử sự của con người đối với nhau. Những khuôn mẫu xử sự đó được gọi là quy phạm (theo nghĩa Hán – Việt: quy có nghĩa là thước đo, phạm có nghĩa là khuôn mẫu). Trong các mối quan hệ xã hội, con người luôn bị chi phối bởi các quy phạm xã hội như đạo đức, phong tục, tập quán, tôn giáo, điều lệ của các tổ chức...trong đó có cả các quy phạm pháp luật; đòi hỏi con người phải dựa vào các quy phạm đó để xác định hành vi của mình là phải làm gì, được làm gì, không được làm gì. 10 Tuy nhiên, so với các quy phạm xã hội khác, quy phạm pháp luật có phạm vi điều chỉnh rộng rãi, bao quát hơn. Bởi vì việc tuân thủ các quy phạm đạo đức sẽ tùy thuộc vào từng lớp người với các yếu tố về lứa tuổi, vốn văn hóa, hoàn cảnh kinh tế, địa vị xã hội, dân tộc, giới tính... khác nhau; đối với các quy phạm về phong tục tập quán sẽ tùy thuộc vào giới hạn lãnh thổ và thế hệ; các quy phạm về tôn giáo tùy thuộc vào tính ngưỡng của mỗi người; còn điều lệ sẽ tùy thuộc vào mỗi tổ chức khác nhau... Trong khi đó, pháp luật là toàn bộ các quy phạm do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của nhà nước, không phụ thuộc vào sự nhìn nhận của từng cá nhân hoặc của bất cứ nhóm quan hệ xã hội nào. Chính điều đó đã đem lại cho pháp luật vị trí ưu thế vượt trội so với các quy phạm xã hội khác, và đó cũng chính là một thuộc tính của pháp luật – tính quy phạm phổ biến. Tính quy phạm phổ biến của pháp luật còn được hiểu là tính chất bắt buộc chung; tức là mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội bắt buộc phải thực hiện mọi quy định của pháp luật hiện hành không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người đang hành động. Pháp luật do nhà nước đặt ra và được nhà nước bảo vệ Xét về bản chất, pháp luật phải luôn thể hiện ý chí của giai cấp thống trị; nhưng bản thân ý chí giai cấp thống trị chưa phải là pháp luật, muốn trở thành pháp luật thì giai cấp thống trị phải thông qua hoạt động của nhà nước với những phương cách do luật định để biến ý chí của mình thành những điều khoản, những văn bản và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương ứng, rõ ràng và chuẩn xác. Nếu như các quy phạm xã hội khác được đảm bảo thực hiện bằng sức ép của dư luận, cộng đồng, bằng cưỡng chế về mặt tinh thần hoặc thông qua cảm nhận chủ quan và không có một bộ phận nào đại điện chính thức cho bộ máy cầm quyền đứng ra làm nhiệm vụ bảo vệ chúng; thì pháp luật được nhà 11 nước đảm bảo thực hiện bằng các cơ quan và công cụ chuyên trách với các phương pháp cả thuyết phục lẫn cưỡng chế. Tuy nhiên, cần tránh xa việc đánh đồng pháp luật với trừng phạt, phải xác định mục tiêu trên hết của pháp luật là ngăn ngừa, giáo dục, cải tạo, thiết lập trật tự xã hội; trấn áp chỉ là biện pháp cuối cùng nếu như các biện pháp khác không phát huy tác dụng. Pháp luật mang tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức Đặc trưng cơ bản của pháp luật là đòi hỏi phải xác định một cách rõ ràng, chuẩn xác những nội dung của nó bằng các điều khoản, văn bản quy phạm pháp luật. Nếu không đáp ứng được yêu cầu này sẽ dẫn đến tình trạng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng pháp luật đã ban hành, tạo ra tâm lý xem thường pháp luật, làm vô hiệu hóa pháp luật, thậm chí làm cho pháp luật tác động ngược lại khi những kẻ hở của nó bị lợi dụng. 1.1.3. Vai trò của pháp luật Việt Nam hiện nay Pháp luật – công cụ thực hiện đường lối chính sách của Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trước hết và chủ yếu bằng cách vạch ra đường lối chính sách cho từng giai đoạn phát triển của đất nước trên cơ sở phân tích khoa học tình hình thực tế và vận dụng sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê nin vào từng hoàn cảnh thực tế đó. Vì vậy, Đảng phải có những phương pháp thích hợp và khoa học làm cho đường lối, chính sách của Đảng đi vào thực tế cuộc sống; trở thành ý chí, nguyện vọng, hành động không chỉ của giai cấp công nhân, không chỉ của đảng viên mà phải là của toàn thể nhân dân, của toàn thể xã hội. Đảng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội cho nên đường lối chính sách của Đảng phải được cụ thể hoá thành pháp luật nhà nước, việc thực hiện đường lối chính sách đó cũng phải bằng hoạt động của nhà nước và thông qua nhà nước. Như vậy, pháp luật là sự biểu hiện dưới hình thức nhà nước các 12 đường lối, chính sách của Đảng; là công cụ chủ yếu để tổ chức thực hiện nhằm làm cho đường lối, chính sách của Đảng trở thành hiện thực trong cuộc sống. Pháp luật – công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động Pháp luật quy định cụ thể và đảm bảo đầy đủ trong thực tế nguyên tắc “mọi quyền lực trong nước đều thuộc về nhân dân”. Nhân dân phải là người thực sự xây dựng nên nhà nước của mình, tham gia vào các công việc của nhà nước và kiểm tra sự hoạt động của các cơ quan nhà nước. Pháp luật cũng quy định rõ nghĩa vụ trung thành và phục vụ nhân dân một cách tận tụy của cơ quan nhà nước và công chức nhà nước trong việc thực hiện công vụ; chống thái độ vô trách nhiệm, hách dịch, cửa quyền; bài trừ nạn quan liêu, tham nhũng; ngăn ngừa một số công chức nhà nước biến thành lớp người đặc quyền, đặc lợi. Mặt khác, mỗi công dân khi thực hiện quyền làm chủ, thực hiện các quyền tự do dân chủ phải trong khuôn khổ pháp luật qui định. Pháp luật phải ghi rõ các quyền và nghĩa vụ công dân, đòi hỏi mỗi công dân phải có thái độ chăm lo đến lợi ích chung của tập thể và của xã hội, làm tròn nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và đối với Tổ quốc... Đối với những người không tự giác thì phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế, bất cứ vi phạm nào cũng phải bị xử lý thích đáng theo đúng luật. Pháp luật – công cụ quản lý của nhà nước Pháp luật do nhà nước đặt ra và bảo vệ, nhưng cũng phải thấy rằng nhà nước nào cũng cần phải có pháp luật để thực hiện vai trò quản lý của mình đối với xã hội. Khi quản lý xã hội, nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau, nhưng công cụ cơ bản và bao trùm nhất vẫn là pháp luật. Không thể có được một sự quản lý, cai trị của nhà nước mà lại không có pháp luật. Nhà nước sử dụng pháp luật không chỉ nhằm trừng trị, trấn áp, cưỡng chế để giữ trật tự cho xã hội có lợi cho giai cấp thống trị; mà còn sử dụng 13 pháp luật như một công cụ quan trọng để cải tạo các quan hệ xã hội, xây dựng và điều hành mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật để mở đường cho các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan. Vì vậy, ngày nay pháp luật không chỉ bó hẹp ở chức năng cưỡng chế, trừng trị, mà quan trọng hơn nữa nó còn là công cụ hướng dẫn, khuyến khích, thúc đẩy, điều chỉnh sự phát triển của xã hội, đặc biệt trong sự phát triển nền kinh tế đất nước. Với ý nghĩa đó, pháp luật của nhà nước ta hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đáp ứng yêu cầu đó, pháp luật phải tạo nên một môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động tự do kinh doanh phát triển, tạo cho mọi công dân có nhiều cơ hội khác nhau để làm ăn, sinh sống kinh doanh theo pháp luật, bảo vệ các quyền và sở hữu hợp pháp, các nguồn thu nhập hợp pháp. Mặt khác, pháp luật cũng tạo điều kiện để nhà nước có thể thực hiện được vai trò của người điều hành nền kinh tế thị trường, hướng nó phát triển theo các mục tiêu đã định, khắc phục và hạn chế những mặt trái vốn có của nền kinh tế thị trường. Pháp luật cũng là công cụ để nhà nước kiểm soát các hoạt động kinh doanh, trừng trị mọi hành vi làm ăn phi pháp, thực hiện sự công bằng trong sản xuất và phân phối. Như vậy, nhà nước ta cũng như bất kỳ nhà nước nào điều phải sử dụng pháp luật là một công cụ chủ yếu để thực hiện vai trò quản lý của mình. Do vậy, việc quản lý bằng pháp luật cũng là một đặc trưng của việc quản lý nhà nước. 14 1.2. Ý thức pháp luật 1.2.1. Khái niệm ý thức pháp luật Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội được phát sinh và hình thành cùng với ý thức chính trị của các giai cấp trong xã hội. Ý thức pháp luật là một hiện tượng xã hội phức tạp, có nội hàm gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình cảm, lòng tin… là sự phản ánh tồn tại xã hội một cách chủ động, tích cực và sáng tạo bởi con người. Con người sống trong một thế giới khách quan vô cùng phong phú và đa dạng bao gồm nhiều yếu tố cấu thành như: môi trường tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, phương thức sản xuất, điều kiện dân cư…. Để tồn tại và cải tạo thế giới khách quan, con người phản ánh nó thông qua các hình thái ý thức xã hội, trong đó có ý thức pháp luật. Như đã phân tích ý thức pháp luật là một hiện tượng xã hội phức tạp. Do đó có rất nhiều quan niệm khác nhau về ý thức pháp luật dưới những góc độ nghiên cứu khác nhau. Có quan niệm cho rằng: “Ý thức pháp luật là tổng hợp những tư tưởng, quan điểm pháp luật và tâm lý pháp luật. Hay nói cụ thể hơn, là tổng hợp những nhận thức, những hiểu biết quan điểm pháp lý, những tình cảm pháp luật, cùng với sự tôn trọng và thói quen chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật”. Quan niệm này nhấn mạnh cơ cấu của ý thức pháp luật gồm tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật [56, tr.235]. Một số quan niệm khác lại thu hẹp cơ cấu của ý thức pháp luật chỉ nhấn mạnh mặt tri thức của pháp luật mà không đề cập đến tâm lý pháp luật như: “ Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm và quan niệm thịnh hành trong xã hội thể hiện mối quan hệ thông qua sự hiểu biết của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi 15 xử sự của con người cũng như trong hoạt động của cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội” [8, tr 229]. Tổng hợp những yếu tố hợp lý của các quan niệm nêu trên có thể rút ra định nghĩa ý thức pháp luật: “Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội bao gồm tổng thể những học thuyết, tư tưởng, tình cảm, quan điểm của con người đối với pháp luật, thể hiện sự hiếu biết, đánh giá của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có về tính hợp pháp hay không hợp pháp của cá nhân, cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội”. Định nghĩa trên chỉ rõ nguồn gốc của ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội. Ý thức pháp luật ra đời, tồn tại và phát triển từ nhu cầu khách quan của đời sống xã hội, khi xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định khi mà các công cụ như đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo … không còn đủ khả năng quản lý và duy trì trật tự xã hội có hiệu quả thì xã hội cần phải có một công cụ mới là pháp luật để tạo lập một xã hội có trật tự kỉ cương, ổn định và phát triển vừa vì lợi ích của giai cấp thống trị và vì lợi ích của toàn xã hội. Từ nhu cầu khách quan đó của đời sống xã hội con người phản ánh (nhận thức) tồn tại xã hội và hình thành ở họ những tư tưởng, quan điểm, quan niệm về sự cần thiết phải điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật và điều chỉnh chúng như thế nào cho có hiệu quả nhất. Ý thức pháp luật phản ánh những điều kiện và quan hệ vật chất, chính trị, xã hội, lịch sử. Nó bao gồm tri thức, tư tưởng, quan niệm, quan điểm, tình cảm, niềm tin pháp lý. Ở trình độ cao ý thức pháp luật hình thành nên các tư tưởng lớn, học thuyết về nhà nước và pháp luật. Có thể nói, khách thể phản ánh của ý thức pháp luật có phạm vi rất rộng lớn, đa dạng và phức tạp. Nó bao gồm: các quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội quan trọng có tính phổ biến cần điều chỉnh bằng pháp luật; hệ thống pháp luật hiện hành; các tài liệu ấn phẩm và thông tin pháp lý; tình trạng pháp chế; công tác tổ chức thi hành và áp dụng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan