Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ý thức phái tính trong truyện ngắn nguyễn thị thu huệ...

Tài liệu ý thức phái tính trong truyện ngắn nguyễn thị thu huệ

.PDF
111
392
106

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 NGUYỄN THỊ TRANG Ý THỨC PHÁI TÍNH TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Lý Hoài Thu HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Với lòng kính trọng sâu sắc và tình cảm chân thành tôi xin trân trọng cảm ơn: Phòng sau đại học trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 cùng các thầy cô giáo đã trực tiếp giảng dạy và góp ý cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Lý Hoài Thu – người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này. Tôi cũng vô cùng cảm ơn những tình cảm tốt đẹp của người thân, gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã luôn dành cho tôi, động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Đó chính là nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn này. Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng chắc chắn luận văn không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp quan tâm đến đề tài này. Người viết luận văn Nguyễn Thị Trang LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Trong quá trình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu, tham khảo thành quả khoa học của các tác giả khác với sự trân trọng và biết ơn, nhưng những nội dung tôi nghiên cứu không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Hà Nội, ngày tháng 11 năm 2016 Người viết luận văn Nguyễn Thị Trang MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3 3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 8 4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 8 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 9 6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 9 7. Đóng góp mới.............................................................................................. 10 8. Bố cục luận văn ........................................................................................... 10 Chương 1. Ý THỨC PHÁI TÍNH VÀ VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI ............................................. 11 1.1. Giới thuyết về phái tính và nữ quyền ....................................................... 11 1.1.1. Những quan niệm về phái tính và ý thức phái tính ................... 12 1.1.2. Ý thức phái tính và sự xuất hiện của Chủ nghĩa nữ quyền ......... 14 1.2. Ý thức phái tính và vấn đền nữ quyền trong văn học Việt Nam thời kì đổi mới ................................................................................................................... 17 Chương 2. Ý THỨC PHÁI TÍNH VÀ HÀNH TRÌNH TÌM LẠI BẢN NGÃ TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ ................... 25 2.1. Ý thức về thiên tính nữ............................................................................. 25 2.1.1. Ý thức về vẻ đẹp ngoại hình ....................................................... 25 2.1.2. Ý thức về vẻ đẹp tâm hồn ........................................................... 29 2.1.2.1. Người phụ nữ với khao khát kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc ..... 29 2.1.2.2. Người phụ nữ với bi kịch về tình yêu, hôn nhân gia đình ....... 35 2.1.2.3. Nhân vật người phụ nữ tự vấn cuộc đời mình ......................... 45 2.2. Vấn đề về tình dục như một phương thức thể hiện bản ngã .................... 52 2.3. Cái nhìn về một nửa thế giới bên kia ....................................................... 57 2.3.1. Người đàn ông không tôn trọng tình yêu .................................... 58 2.3.2. Người đàn ông tham lam, ích kỉ ................................................. 61 Chương 3. NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN Ý THỨC PHÁI TÍNH TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ ............................................. 64 3.1. Không gian, thời gian nghệ thuật ............................................................. 64 3.1.1. Không gian, thời gian hiện thực đời thường ............................... 66 3.1.2. Không gian, thời gian tâm tưởng ................................................ 71 3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................. 73 3.2.1. Ngôn ngữ người kể chuyện........................................................ 73 3.2.2. Ngôn ngữ nhân vật ...................................................................... 77 3.2.2.1. Khai thác triệt để ngôn ngữ độc thoại nội tâm ........................ 78 3.2.2.2. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật đậm chất dung tục đời thường ....................................................................................................... 81 3.2.2.3. Sử dụng câu văn ngắn dồn nén thông tin ................................ 84 3.3. Giọng điệu ................................................................................................ 89 3.3.1. Giọng thâm trầm, sâu lắng .......................................................... 91 3.3.2. Giọng khinh bạc, xót xa ............................................................. 92 KẾT LUẬN .................................................................................................... 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 98 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Có thể nói, từ sau đổi mới 1986, văn học Việt Nam đã đạt được những thành công trên nhiều lĩnh vực, thể loại, đặc biệt là truyện ngắn. Một trong những yếu tố làm nên sự phong phú, đa dạng của văn học giai đoạn này chính là sự xuất hiện ngày càng nhiều các cây bút nữ. Bên cạnh những cây bút kỳ cựu như: Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, nối tiếp Nguyễn Huy Thiệp, là sự xuất hiện của lớp nhà văn trẻ với lối viết mới mẻ, tràn đầy tâm huyết đã thổi vào nền văn học nước nhà một luồng sinh khí mới, với những tên tuổi như: Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Võ Thị Hảo, Đỗ Bích Thúy,... hòa chung vào dòng chảy đó là Nguyễn Thị Thu Huệ với tư cách là một nhà văn nữ có cá tính độc đáo và cách viết khá mới lạ. Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ là một gương mặt tiêu biểu của văn xuôi nữ sau đổi mới, một cây bút có duyên trong lĩnh vực truyện ngắn. Ngay từ những tác phẩm đầu tiên chị đã nhanh chóng xác lập được vị trí của mình trên văn đàn. Thu Huệ chỉ viết khi câu chuyện đã đầy ắp trong tim óc cần hiện diện ra thành câu chữ, và khi đó chị viết như “lên đồng”, ý tưởng tuôn trào như không kịp nghĩ. Tuy vậy, hơn hai mươi năm cầm bút, Nguyễn Thị Thu Huệ cũng đã sở hữu bảy tập truyện ngắn được dư luận chú ý: Cát đợi (1992), Hậu thiên đường (1994), Phù thủy (1997), 21 truyện ngắn (2001), Nào ta cùng lãng quên (2003), 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2010) và gần đây nhất là Thành phố đi vắng (2012). Chị cũng là nữ nhà văn gặt hái được nhiều thành công và đã nhận được rất nhiều giải thưởng có uy tín: đạt giải nhì cuộc thi truyện ngắn của Hội văn học nghệ thuật Hà Nội (1986); giải nhì cuộc thi truyện ngắn Tác phẩm tuổi xanh báo Tiền phong (1993); giải nhất cuộc thi truyện ngắn Nxb Hà Nội (1994), cùng năm đó chị cũng đạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức và nhận tặng thưởng Hội 2 Nhà văn với tác phẩm Hậu thiên đường. Năm 2012, chị được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn dành cho tập truyện ngắn Thành phố đi vắng. Với những tập truyện đặc sắc của mình, nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ đã góp phần làm nên diện mạo khởi sắc của nền văn xuôi đương đại Việt Nam. Qua những trang viết của chị, có thể nhận ra một tư duy khá sắc sảo và sở trường nắm bắt những cái mới, thời sự của cuộc sống đương đại. Phần lớn tác phẩm của chị đều thể hiện cái nhìn nhạy bén, phản ánh các vấn đề gay gắt của cuộc sống hiện đại, khai thác những góc khuất “thế giới bên trong” con người. Sáng tác của Thu Huệ góp phần làm rõ những nét mới mẻ trong quan niệm nghệ thuật về con người cá nhân, cá thể, con người nhiều chiều trong “tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Trong đó nhân vật phụ nữ được đặc biệt quan tâm. Đó là những con người hiện đại dám sống thực với mình. Họ có thể là những người đàn bà từng trải, bao dung với con cháu; những người mẹ, người vợ lo toan cho gia đình và phấn đấu cho sự nghiệp; những cô gái háo hức vào đời; những người phụ nữ khát khao hạnh phúc, tìm kiếm tình yêu… Đằng sau mỗi người phụ nữ bao giờ cũng ẩn chứa nhiều điều mà không phải lúc nào họ cũng muốn bộc lộ, chia sẻ. Để làm được điều này, nhà văn phải có quan niệm mới mẻ về hiện thực cuộc sống và con người, cũng như có sự táo bạo trong cách viết, cách xử lý vấn đề. Đây là những yếu tố quyết định làm nên những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ. Việc nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ lâu nay đã có một vài chuyên luận, nhưng đi sâu tìm hiểu vấn đề về ý thức phái tính trong truyện ngắn của chị vẫn còn những khoảng trống. Chính vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn Ý thức phái tính trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ làm đối tượng nghiên cứu, với mong muốn góp một cách nhìn khẳng định những 3 thành tựu của truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ và vị trí của chị trong đời sống thể loại nói riêng và đời sống văn xuôi đương đại Việt Nam nói chung. 2. Lịch sử vấn đề Tiếp cận các tác phẩm văn học từ lý thuyết phái tính là vấn đề không mới nhưng còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu và làm sáng rõ. Như Nguyễn Thị Bình trong bài viết Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ đương đại [31]: “…chúng tôi dùng cách gọi “ý thức phái tính” để chỉ một dạng thức nữ quyền được nhận diện qua sáng tác văn xuôi của một số nhà văn nữ”, “Ý thức nữ quyền có thể xem như biểu hiện mạnh nhất, tự giác nhất của ý thức nữ tính”. Trong phần tìm hiểu lịch sử vấn đề chúng tôi sẽ trình bày lịch sử nghiên cứu của ý thức phái tính. Ở nước ngoài, việc nghiên cứu phái tính và nữ quyền trên thế giới được chia làm ba giai đoạn. Những lý thuyết tiên phong là học thuyết phân tâm học của S.Freud với “mặc cảm Ơđip” và sau đó là sự thay thế bằng học thuyết cấu trúc và hậu cấu trúc của Lacan.Theo Lacan, “dương vật biểu trưng cho quyền lực tính dục”. Tiếp đó là tác phẩm Một căn phòng cho riêng mình (A room for one’s own) (1929) của Virginia Woolf, tác phẩm được coi như “sách vỡ lòng” của phê bình nữ quyền. Nhờ Woolf mà các tác giả nữ ngày nay có những khái niệm gợi mở về cách suy nghĩ thông qua người mẹ, về ý kiến của đàn bà, và về tinh thần song giới (dung hòa cả hai giới tính). Nhiều quan điểm lý thuyết mâu thuẫn của tư tưởng nữ quyền đương đại bắt nguồn từ trí tưởng tượng đột phá vượt giới hạn của Woolf và những xung đột sáng tạo của bà. Phong trào phê bình nữ quyền bắt đầu thịnh hành từ thập niên 70 của thế kỷ XX. Từ đây, những vấn đề quan trọng của chủ nghĩa nữ quyền được hình thành và phát triển. Tác giả tiêu biểu là Doris Lessing với công trình The Golden Notebook (Cuốn sổ tay vàng). Tác phẩm được coi như tuyên ngôn của chủ nghĩa nữ quyền: “Các nhà hoạt động nữ quyền có thể coi 4 Cuốn sổ tay vàng như là tiên phong cho cái nhìn của thế kỷ XX về quan hệ nam – nữ”. Chủ nghĩa nữ quyền tiếp tục phát triển trong các thập niên tiếp theo. Nó là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu tiếp tục khai triển, trong văn học, điện ảnh và cả các loại hình nghệ thuật khác. Ở nước ta, phái tính được xem như một tiêu chí có trọng lượng để khu biệt sáng tác của cây viết nam và cây viết nữ. Trong những cuộc đấu tranh đòi bình đẳng giới, trong phong trào đòi giải phóng phụ nữ, người ta nhắc rất nhiều đến phái tính và phái tính trong văn học luôn được đưa ra như một minh chứng cụ thể, một khí giới đắc lực. Cũng như phái tính, phái tính trong văn thơ nữ là một đề tài tương đối mới mẻ cho nên rất hiếm có công trình nghiên cứu trọn vẹn về vấn đề này. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu cũng đã chú ý đề cập ít nhiều. Tác giả Châm Khanh khi nghiên cứu Phụ nữ và văn chương đã đặt ra một vấn đề bức bách “Thông thường, bằng kinh nghiệm, ai cũng biết nam giới và nữ giới khác nhau trong rất nhiều phương diện, từ cách ăn, cách mặc, cách giải trí đến cảm xúc, cách suy nghĩ và cách ứng xử trong cuộc sống… Nếu giữa hai phái tính có một sự khác biệt sâu rộng như vậy thì trong lĩnh vực văn chương chắc hẳn họ cũng rất khác nhau. Mọi người đều có thể đồng ý một cách dễ dàng là một cây bút nữ hẳn phải viết khác một cây bút nam. Thế nhưng, chỉ đồng ý điều này không chưa đủ, vấn đề là chúng ta phải tìm ra những điểm khác biệt cụ thể giũa hai phái tính trong khía cạnh sáng tác văn học” và đi đến kết luận: “Đây có lẽ không phải là một công việc dễ dàng”. Năm 1990, bài viết “Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn” (Tạp chí Văn học, số 5), nhà nghiên cứu Trương Chính đã bước đầu thể hiện những kiến giải của mình về ý thức nữ quyền trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn. Bài viết chủ yếu nhìn nhận vấn đề nữ quyền trên phương diện nội dung tư tưởng. 5 Năm 1996, trên Tạp chí Văn học số 6, trong chuyên mục Trao đổi ý kiến đã thực hiện cuộc bàn luận của các nhà nghiên cứu (Lại Nguyên Ân, Đặng Anh Đào, Phạm Xuân Nguyên, Vương Trí Nhàn, Đặng Minh Châu,…) về sáng tác của các cây bút nữ trên nhiều phương diện: điểm mạnh và điểm yếu của các nhà văn nữ; phụ nữ với nghề văn; gương mặt những cây bút nữ; đóng góp của những cây bút nữ; tiềm năng của những cây bút nữ,… Đặc biệt, các nhà nghiên cứu đã tập trung bàn luận nhằm lý giải hiện tượng nở rộ sáng tác của các nhà văn, nhà thơ nữ. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một cuộc trao đổi ngắn, các ý kiến đưa ra chỉ mang tính chất khơi gợi, chưa đào sâu phân tích vấn đề nữ quyền một cách thấu đáo. Sau đó bài Suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn sĩ của Phương Lựu hướng sự chú ý về phái tính ở khía cạnh bản thể sáng tạo – nữ giới. Theo Phương Lựu, diện sống “không được sâu rộng” của nữ giới quy định “mầu sắc tự truyện” và đề tài chủ yếu của họ là tình yêu. Quan điểm này tìm ra được nét khái quát nhất của văn học nữ đương thời nhưng tự thân nó không có được tính khu biệt rõ ràng. Năm 2000, chuyên đề Tình yêu, tình dục và phái tính trong văn học đi đầu và cũng là chuyên đề tập trung hơn cả về phái tính. Với bài Phụ nữ và văn chương, Châm Khanh vừa đặt lại vấn đề của Phan Khôi nhưng lần này, phụ nữ được đưa lên vị trí hàng đầu. Tác giả tỏ ra ngần ngại trước một vấn đề quan trọng: Cách viết của phụ nữ so với nam giới có gì khác? Sự khác biệt lớn nhất thực chất là vấn đề nữ quyền. Hoàng Ngọc Tuấn viết Dục tính trong văn chương và vấn đề đạo đức, Nguyễn Hoàng Đức viết Nữ giới, nữ văn sĩ và văn giới, Nguyễn Hữu Lê với Tình dục trong văn học Việt Nam dưới cách nhìn của đạo lý hồn nhiên và của đạo lý học thuyết , Đỗ Minh Tuấn với Thúy Kiều và khát vọng giải sex… đều đề cập đến cuộc giải phóng phụ nữ, giải phóng tình dục. Đàn bà có quyền phát biểu khát vọng dục tính của mình. Thậm chí, có những nhà văn nữ đã xây dựng những tiểu thuyết trong đó đàn 6 bà sử dụng đàn ông như công cụ phục vụ dục tính. Hoàng Ngọc Tuấn chỉ ra thái độ trả thù phái tính ấy chỉ là hệ quả của tinh thần phản kháng bồng bột thời kỳ đầu, về sau, các nhà văn nữ càng ngày càng tỏ ra sáng suốt và bình tĩnh hơn trước vấn đề giải phóng ý thức phụ nữ khỏi những ràng buộc phái tính và dục tính để suy nghĩ đến những ý nghĩa rất bình thường trong cuộc sống: những ý nghĩa về bản thân, hạnh phúc, gia đình, phái tính, trách nhiệm, tình yêu, chiến tranh, tự do, đạo đức… Đấy mới là mảnh đất màu mỡ bộc lộ phái tính. Ngoài ra, có những bài nghiên cứu dẫn nhập rất chi tiết lý thuyết về chủ thuyết phụ nữ, văn học nữ quyền, hoặc cũng đang trong quá trình tìm tòi như: Lí luận phụ nữ: Từ Simone de Beauvoir dến Judith Butler của Đặng Phùng Quân, Nữ quyền luận của Nguyễn Hưng Quốc, Dày dày đúc sẵn một tòa… văn chương của Đinh Từ Bích Thúy, Tiếng cười của nàng Medusa của Mary Klages…Với tính chất khơi mở, những nghiên cứu ấy góp phần gợi hướng tìm hiểu ý thức phái tính nhưng chưa chủ định nghiên cứu cụ thể vấn đề phái tính trong văn thơ nữ Việt Nam. Nghiên cứu về vấn đề phái tính cũng có một số công trình là luận án, luận văn đề cập ý thức phái tính như: Luận án tiến sĩ Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại (qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu) của Nguyễn Thị Thanh Xuân đã hệ thống và lý giải một cách cơ bản về lý luận phái tính và nữ quyền trong văn hóa và diễn ngôn văn học, chỉ ra được những biểu hiện phái tính trong văn xuôi của các cây bút nữ, lý giải sự phát triển của ý thức phái tính là do hệ quả của quá trình dân chủ hóa xã hội và văn học; Luận văn thạc sĩ Ý thức phái tính trong sáng tác văn xuôi nữ từ sau 1975 (Nguyễn Thị Thu Huệ, Trần Thùy Mai, Y Ban, Phạm Thị Hoài, Đỗ Hoàng Diệu) của Phạm Thị Thu Huyền tại trường Đại học Đà Nẵng, đã xác định nội hàm thuật ngữ ý thức phái tính và vận dụng nó 7 vào tìm hiểu trong một số sáng tác của các nhà văn nữ tiêu biểu sau 1975; Luận văn thạc sĩ Dịch và vận dụng tiểu luận The signification of the phallus của J. Lacan vào nghiên cứu bản sắc giới trong tác phẩm của M. Duras của Ngô Thị Thanh tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, chủ yếu giới thiệu, làm rõ một số phương diện của lý thuyết phân tâm học Lacan – lĩnh vực còn chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam trên phương diện bản sắc giới; Luận văn thạc sĩ Về một đặc điểm tư duy thơ nữ gần đây: Ý thức phái tính (qua Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Vi Thùy Linh) của Nguyễn Thị Hồng Giang tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, trình bày khái niệm phái tính, đưa ra những biểu hiện phái tính trong thơ nữ Việt Nam qua một số tác giả tiêu biểu, khẳng định ý thức phái tính là một đặc điểm của tư duy thơ nữ gần đây… Không chỉ trong các công trình nghiên cứu mà ngay cả thế giới mạng đã đề cập tới vấn đề phái tính, như trang web văn học tienve. org đã dành hẳn một chuyên mục Việt số 04.2000 để nói về : “Tình yêu, tình dục và phái tính trong văn học”. Các bài viết trong chuyên mục này như “Phái tính trong ngôn ngữ và văn học” (Phan Việt Thủy), Văn tự và phái tính (Tú Ân), Chuyện hiếp dâm và vấn đề phái tính trong văn học Việt Nam (Nguyễn Hưng Quốc), Phụ nữ và văn chương (Châm Khanh), Dục tính hay đỉnh tháp của văn chương (Nguyễn Hoàng Đức), Dục Tính trong văn chương và vấn đề đạo đức (Hoàng Ngọc Tuấn), Tình dục trong văn học Việt Nam dưới cách nhìn của đạo lí hồn nhiên và của đạo lí học thuyết (Nguyễn Hữu Lê)… đều đề cập đến vấn đề phái tính. Trong lời mở đầu cho chuyên mục này, Thư tòa soạn có nhấn mạnh: “Về phái tính dường như chưa bao giờ thực sự được nghiên cứu tại Việt Nam. Một số công trình đã in về các nhà thơ hay các nhà văn nữ, thường có tính chất xã hội học, tuy nhiên hiếm có ai liên hệ những đặc điểm ấy với vấn đề phái tính, chẳng hạn: nam và nữ viết khác nhau ra sao? Khác đến 8 chừng mực nào?Những sự khác biệt ấy có dính líu gì đến những sự khác biệt về sinh lí của nam và nữ…”. Nhìn chung những bài viết trên đã khái quát những nội dung chung nhất về ý thức phái tính qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuy nhiên, qua khảo sát chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào đi sâu tìm hiểu về ý thức phái tính trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ. ơTrên cơ sở tiếp thu ý kiến, kết quả của người đi trước, cùng với sự đánh giá, kiến giải riêng của mình, chúng tôi triển khai đề tài: “Ý thức phái tính trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ”. 3. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc khảo sát các sáng tác truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ, người viết muốn làm rõ nét riêng độc đáo trong văn của chị dưới góc độ ý thức phái tính. Có thể nhận ra rằng, những đặc sắc nghệ thuật của các nhà văn nữ đều có dấu ấn nữ tính, nhưng ý thức phái tính không đồng nhất với nữ tính. Đó là sự tự giác về nữ quyền. Đề tài này giới hạn ở phạm vi về vấn đề phái tính. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn giải quyết những nhiệm vụ sau đây: - Xác định nội hàm khái niệm ý thức phái tính. - Tìm hiểu sự ảnh hưởng sâu sắc của ý thức phái tính tới sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ. - Khẳng định vị trí của Nguyễn Thị Thu Huệ trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại. 9 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Những biểu hiện của ý thức phái tính trong sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ về mặt nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật biểu hiện. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn khảo sát trên phạm vi các tập truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Thị Thu Huệ, như: - Cát đợi (Nhà xuất bản Hà Nôi – 1992) - Hậu Thiên Đường (Nhà xuất bản Hội nhà văn – 1993) - Phù thủy (Nhà xuất bản văn học – 1995) - 21 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ( Nhà xuất bản Hội nhà văn – 2001) - 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ( Nhà xuất bản văn học – 2006) - Thành phố đi vắng ( Nhà xuất bản Trẻ - 2012) 6. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài luận án, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau đây: 6.1. Phương pháp lịch sử phái sinh: Nhằm nhìn nhận lại quá trình biểu hiện của ý thức phái tính và vấn đề nữ quyền trong tiến trình văn học. 6.2. Phương pháp hệ thống trong việc hệ thống hóa những quan điểm về phái tính, sự vận động và biểu hiện của ý thức phái tính trong nền van học Việt Nam đương đại. 6.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu: giữa các tác phẩm văn học với các tài liệu về nhân chủng học, văn hóa học, tôn giáo, triết học, và giữa các tác phẩm của nhà văn, hay với sáng tác của các nhà văn khác….nhằm tìm ra mối tương quan giữa hoàn cảnh, xã hội, nền tảng văn hóa, lịch sử đã tác động 10 như thế nào đến văn học trong phạm vi biểu hiện của ý thức phái tính trong sán tác của Thu Huệ cũng như một số tác giả nữ cùng thời. 6.4. Phương pháp phân tích – tổng hợp: được sử dụng trong quá trình phân tích những đặc điểm mang màu sắc phái tính. 6.5. Phương pháp liên ngành: làm cơ sở phương pháp luận cho đề tài nghiên cứu, trong đó có Lý thuyết về giới (Giới học), Tâm lý học, Ngôn ngữ học. Phương pháp tiếp cận liên ngành sẽ giúp chúng tôi thấy được bản chất tư tưởng, thẩm mỹ của tác phẩm, tiến tới việc phân tích, lý giải những sáng tác của Thu Huệ. 7. Đóng góp mới Luận văn đã chọn một góc nhìn nhằm phát hiện ra sắc diện mới trong sáng tác của Thu Huệ, làm nổi bật chân dung và cá tính sáng tạo của chị trong dòng văn xuôi nữ đương đại. Đồng thời luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm đến vấn đề phái tính trong văn xuôi nữ đương đại Việt Nam. 8. Bố cục luận văn Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn được triển khai thành 3 chương: Chương 1: Ý thức phái tính và vấn đề nữ quyền trong văn học thời kì đổi mới Chương 2: Ý thức phái tính và hành trình tìm lại bản ngã trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện ý thức phái tính trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ Cuối cùng là danh mục Tài liệu tham khảo. 11 Chương 1 Ý THỨC PHÁI TÍNH VÀ VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI Khi trình bày luận văn chúng tôi chọn từ “phái tính” thay cho từ “giới tính” vì theo quan niệm của chúng tôi, nó mang ý nghĩa tổng quát hơn. Khái niệm phái tính xoáy vào sự khác biệt về giới tính. Phái tính chỉ sự liên kết giữa giới và những bản tính đặc trưng cho từng phái riêng biệt. Ý thức về phái tính trở thành một nội dung quan trọng trong đời sống thế giới hiện đại. Trong chương này, nội dung trọng tâm mà chúng tôi hướng đến là sự khẳng định ý thức phái tính như một đặc điểm tư duy trong sáng tác nữ gần đây. Để khẳng định được điều đó, chúng tôi phải tìm ra một cơ sở lý luận và thực tiễn cho vấn đề này. Cơ sở lý luận là những quan niệm về phái tính trong tiến trình lịch sử nhân loại. Thực tiễn của nó chính là sự xác lập ý thức phái tính trong đời sống và trong văn học, văn học thế giới nói chung cũng như văn học Việt Nam nói riêng. Đôi khi, lý luận và thực tiễn đan cài nhau. Sự khảo cứu của chúng tôi trong chương này chỉ là một trong những lối đi vào vấn đề ý thức phái tính. 1.1. Giới thuyết về phái tính và nữ quyền Người ta có thể trình bày về phái tính trên các bình diện triết học, đạo đức học, sinh học, xã hội học, tâm lý học… rồi đến văn học. Chúng tôi, bằng cách tổng hợp các bình diện ấy, nhìn nhận phái tính và ý thức phái tính qua tiến trình vận động của nó. Từ những quan niệm có tính truyền thống về phái tính đến sự nổi dậy của ý thức phái tính, cuối cùng là một ý thức mới về phái tính. Trong hệ thuật ngữ liên quan đến phái tính, chúng tôi tạm đưa ra công thức dịch: Phái tính = phái (gender) + giống/giới/giới tính (sex). Như vậy, phái nam = nam giới (the male sex) + masculinity (tính nam/bản tính nam); phái nữ = nữ giới (the fair sex) + femility (tính nữ/bản tính nữ). Đến nay, 12 trong từ điển tiếng Việt cũng như một số từ điển ngoại ngữ khác không hề có một thuật ngữ nào với hàm nghĩa khái quát như thế. Mặc dù vậy, phái tính và ý thức phái tính đã, đang và vẫn sẽ luôn hiện hữu trong mọi lĩnh vực của đời sống con người. 1.1.1. Những quan niệm về phái tính và ý thức phái tính Theo Kinh thánh, Thượng Đế sáng tạo ra thế giới trong vòng 7 ngày với đủ biển cả, ao hồ, sông suối, chim muông. Trong ngày thứ 7, Người nghĩ thêm ra một loài động vật mà Người cho là “sẽ hoàn hảo nhất trong các loại động vật”. Và chàng Adam xuất hiện từ đó. Để tránh cho Adam khỏi buồn bã nơi vườn Địa Đàng, Thượng Đế đã dùng một “cái xương sườn thừa của ông Adam” (do thiếu nguyên liệu!) để tạo nên con người thứ hai là Eva làm bạn đồng hành. Mắc lỗi lầm do ăn “trái cấm” ở vườn Địa Đàng, Adam và Eva bị Đấng tối cao đày xuống mặt đất, bắt sống cuộc sống như những sinh vật khác (sẽ phải tự kiếm ăn, sẽ già đi, sẽ bị bệnh tật rồi trở về với cát bụi). Và hình phạt lớn nhất mà Thượng đế đặt lên Eva là hàng tháng sẽ phải mất đi một lượng máu từ trong cơ thể, sẽ phái mang nặng, đẻ đau,… Với những suy tư trên phương diện triết học, đại triết gia Aristote xác quyết rằng đàn bà tự bản chất đã thấp kém hơn đàn ông. Aristote cho rằng đàn bà chỉ là vật chất, phát triển một cách bừa bãi, hỗn loạn nếu không có đàn ông, nhờ có những hạt giống của họ, mang đến cho các vật chất này hình thái, mặt mũi: “Giống cái (female) là giống cái do thiếu thốn các đặc tính nào đó; chúng ta nên xem bản tính giống cái như bị đau buồn vì sự khiếm khuyết tự nhiên” [1, tr.321]. Kể từ sau Aristote, có rất nhiều triết gia, thần học gia, trí thức, văn sĩ,… đã lặp đi lặp lại ý kiến trên như thể là một định đề toán học hay một định luật hóa học, vật lý. Chính vì là “phần phụ”, “phần thừa ra” từ thân thể Adam nên 13 các Eva luôn ở thế lệ thuộc, phải phục tùng đàn ông, trở thành “phái yếu” (the weaker sex). Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, một nửa nhân loại tự mệnh danh là “phái mạnh” (the stronger sex) đã xây dựng một mô hình xã hội theo sở thích, nhu cầu và quyền lợi của riêng mình. Dĩ nhiên, trong cái trật tự và khuôn khổ của một xã hội theo “hình ảnh người đàn ông” này thì không có chuyện bình quyền về phái tính. Phụ nữ luôn là người chịu nhiều thiệt thòi, bị chèn ép, khinh miệt và bị bóc lột. Ở phương Tây, tín đồ Do Thái không bao giờ khởi đầu một nghi lễ phụng tự khi xung quanh chưa hội đủ bảy người đàn ông mặc dù có sự hiện diện của cả trăm ngàn người phụ nữ tại đó. Còn ở Pháp, chỉ cách đây vài thế kỷ, người phụ nữ thượng lưu vẫn còn bị cột chặt trong cái “vòng đai trinh tiết”; và thậm chí ở một nước dân chủ tiên phong như Hoa Kỳ thì quyền bầu cử của phụ nữ cũng chỉ được áp dụng từ đầu thể kỷ XX mà thôi. Sự phân biệt phái tính không chỉ tồn tại trong tư duy và trong đời sống xã hội mà còn được thể hiện ngay trong ngôn ngữ. Nền văn hóa phương Tây được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là nền văn hóa gia trưởng, trọng nam. Nền văn hóa ấy được thể hiện rất rõ qua cấu trúc ngôn ngữ thông qua các cặp đối lập. Người ta có thể thấy ngay một sự thật hiện hữu là ngôn ngữ chỉ phụ nữ phái sinh ngay trên bề mặt, kết cấu ngôn ngữ chỉ nam giới. Trong tiếng Anh, chữ “man” vừa có nghĩa là đàn ông vừa có nghĩa là nhân loại. “Man” là gốc, từ đó nảy sinh ra nhánh “woman” (đàn bà); Mr (ông) là gốc, từ đó nảy sinh ra Mrs (bà); và cuối cùng, “male” (nam) phái sinh “female” (nữ). Như vậy, khởi nguồn từ cặp nam – nữ, trong ngôn ngữ châu Âu hình thành những cặp đối lập tương ứng như trật tự - hỗn loạn, hiển ngôn – im lặng, hiện diện – vắng mặt, nói – viết, sáng – tối, lành mạnh – nguy hại, thuần lý – phi lý,… trong đó tất cả những mỹ từ đều thuộc về đàn ông, dành cho đàn ông. 14 Quan niệm trọng nam khinh nữ theo thời gian, dần ăn sâu vào tâm thức người dân phương Đông. Thực tế, Nho giáo không chỉ biến phụ nữ thành món đồ sở hữu của phái nam, trở thành những “con ở” không công mà còn hạ thấp phẩm giá, năng lực của người phụ nữ bằng những quy định hà khắc: không cho phép phụ nữ đi học, tham gia Khoa cử và đặc biệt là không thể làm quan. Và như vậy, sự nông nổi, thấp kém, ngu muội, dốt nát của đàn bà không phải là do yếu tố cá nhân mà nằm sâu ở vấn đề “phái tính”. Sự phân biệt phái tính cũng được thể hiện rất rõ trong ngôn ngữ phương Đông. Nền văn hóa Âm – Dương này coi những gì thuộc Dương là đàn ông, còn những gì thuộc Âm là phụ nữ. Những cặp từ phái sinh tương ứng như mặt trời- mặt trăng, ngày – đêm, nóng – lạnh, lửa – nước, chủ động – bị động,… cũng chính là kết quả của lối tư duy thống trị bởi nam giới. 1.1.2. Ý thức phái tính và sự xuất hiện của Chủ nghĩa nữ quyền Các quan niệm truyền thống cho rằng: thứ nhất, phụ nữ là kẻ phái sinh, lệ thuộc và phục tùng đàn ông. Ngay cả trong ngôn ngữ, hệ thống văn hóa tượng dương vật lấy đàn ông làm trung tâm. Thứ hai, tính nữ được quy định bởi đặc điểm giống phái. Trong một xã hội, phái nam được xã hội hoá thành nam tính, trong khi phái nữ được dạy bảo thành nữ tính. Sự định hướng giới tính như thế càng gắn chặt người nữ trong vị thế kẻ thứ yếu. Thứ ba, Mỹ học về phụ nữ nhiều khi là hình thức của sự khổ hạnh. Thực tế cho thấy trong nền văn hóa phụ quyền, cái đẹp về thể xác, tâm hồn của họ đều bị quy định bởi quan niệm của nam giới. Trước sự mất tự chủ hay là sự bị tước đoạt vị thế xã hội ở mọi phương diện như thế, giới nữ đã nổi dậy. Sự nổi dậy của ý thức phái tính gắn liền với chủ nghĩa nữ quyền (Féminisme, Feminism). Tuy vậy, giới nữ không chỉ tranh đấu cho nữ quyền, cái mà họ hướng đạt nhất là bản thể của mình, bản thể được sống với tất cả sự tự do giới tính. Hai biểu hiện cơ bản nhất của ý 15 thức phái tính - nữ chính là ý thức về bản thể - nữ và ý thức về diễn ngôn của phái nữ. Về mặt bản thể - nữ, Simone de Beauvoir trong tác phẩm Giới thứ hai nhận ra Người ta không phải bẩm sinh là đàn bà, mà trở thành đàn bà (On ne nait pas femme, on le devient). Điều ấy có nghĩa những sự khác biệt sâu sắc của hoàn cảnh phụ nữ không thể nào trực tiếp làm cho phụ nữ trở thành lệ thuộc vào đàn ông, mà do sự tham gia của yếu tố văn hóa, và do chính ý thức cá nhân trên con đường đến với sự tự do. Về mặt diễn ngôn của phái nữ, Hélène Cixous trong bài viết Nụ cười của Méduse tuyên bố một lối viết có sự hợp nhất: Sexts = sex + texts, hàm ý phụ nữ hiện hữu về mặt tình dục, thể xác cũng như về mặt văn bản. Bởi theo Cixous, chỉ có cách viết ấy, giới nữ mới bảo đảm cho mình một chỗ đứng trong xã hội. Khi ý thức phái tính bước qua giai đoạn đòi được khẳng định bản tính của mình, Chủ nghĩa nữ quyền đã cam kết sự tái hội nhập nam tính và khẳng định mọi người đều có khả năng phát triển tất cả những đặc điểm ưu trội 8 của tính nam và tính nữ. Tính ái nam ái nữ hay là sự hội nhập phái tính được đẩy đi xa hơn bằng vấn đề đồng tính. Như vậy, đàn ông có thể giả tính dục nữ và đàn bà có thể giả tính dục nam. Và như thế, câu hỏi về phái tính có trở nên mất ý nghĩa? Chúng tôi cho rằng có thể đấy cũng là câu hỏi quan trọng được đặt ra, nhưng hiện tại, ý thức phái tính trong văn học vẫn đặc biệt quan trọng và thú vị, nó cần thiết để mở ra con đường đi tới những diễn ngôn sáng tạo của văn chương. Như chúng tôi đã đề cập ở trên, những quan niệm mang tính truyền thống về phái tính ở cả phương Đông và phương Tây đã khiến cho người phụ nữ trở thành kẻ lệ thuộc. Tư tưởng phụ nữ là “phái yếu”, là “kẻ phụ thuộc”, là những kẻ dốt nát, ngu muội và “khó dạy” không phải chỉ là “cái tròng” mà chế độ nam quyền gắn vào cổ những người phụ nữ, mà đôi khi do chính người phụ nữ công nhận, tự đặt nó lên cổ mình. Không phải ngẫu nhiên mà ở trên tận thiên đàng, những người phụ nữ phương Tây vẫn không dứt ra khỏi
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất