Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ý niệm về người phụ nữ trong một số truyện ngắn tiêu biểu của nguyễn minh châu...

Tài liệu ý niệm về người phụ nữ trong một số truyện ngắn tiêu biểu của nguyễn minh châu

.DOC
107
350
141

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH ---------&---------- NGUYỄN THỊ THUÝ ANH Ý NIỆM VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN TIÊU BIỂU CỦA NGUYỄN MINH CHÂU CHUYÊN NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC MÃ SỐ : 60.22.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Lê Đình Tường Vinh - 2009 1 LỜI CẢM ƠN Luận văn này được hoàn thành nhờ sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS. Lê Đình Tường, sự góp ý chân thành của các thầy giáo phản biện, các thầy cô giáo trong bộ môn ngôn ngữ và bạn bè đồng nghiệp. Nhân đây cho phép chúng tôi được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến tất cả các quý thầy cô và các bạn bè đồng nghiệp, đặc biệt là thầy giáo Lê Đình Tường – người đã trực tiếp hướng dẫn và động viên chúng tôi thực hiện và hoàn thành luận văn với một hướng đi khá mới mẻ này. Do đề tài luận văn được tiếp cận với một hướng khá mới nên chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, vì vậy rất mong được sự góp ý chân thành của quý thầy cô và các bạn! Vinh, tháng 12 năm 2009 Tác giả luận văn 2 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu 2. Lịch sử vấn đề 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Đóng góp của Luận văn 6. Bố cục của Luận văn PHẦN NỘI DUNG Chương 1: MỘT SỐ GIỚI THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Một vài đặc điểm về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu 1.1.1. Vài nét cơ bản về truyện ngắn 1.1.2. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu 1.1.2. Thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu 1.2. Ngữ pháp chức năng - cơ sở để phân tích ngôn bản 1.2.1. Ngữ pháp chức năng 1.2.2. Cú là đơn vị nghiên cứu 1.2.3. Hai siêu chức năng cơ bản của cú 1.2.3.1. Chức năng phản ánh 1.2.3.2. Chức năng liên nhân 1.3. Các quy tắc hội thoại 1.3.1. Khái niệm hội thoại 1.3.2. Các quy tắc hội thoại 1.4. Tri nhận 1.4.1. Khái niệm tri nhận 1.4.2. Ý niệm Tiểu kết 3 Chương 2: Ý NIỆM VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ QUA NGÔN NGỮ CỦA NGƯỜI KỂ CHUYỆN 2.1. Ngoại hình rất đặc trưng của các nhân vật nữ 2.1.1. Ngoại hình của người con gái trong chiến tranh 2.1.2. Ngoại hình người phụ nữ sau chiến tranh 2.1.3. Sự khác nhau trong ý niệm về ngoại hình của hai người phụ nữ 2.2. Ý niệm về phẩm hạnh và tính cách của người phụ nữ 2.2.1. Nguyệt – người con gái có vẻ đẹp nhân cách hoàn hảo 2.2.1.1. Nguyệt – người con gái đẹp trong cái nhìn của các nhân vật khác 2.2.1.2. Nguyệt - cái đích hướng tới trong câu chuyện của chị em Lãm 2.2.1.3. Nguyệt – người con gái bình tĩnh, tự tin, dũng cảm và có trách nhiệm 2.2.1.4. Nguyệt – tình yêu và sự cảm phục trong Lãm 2.2.2. Người đàn bà trong “Chiếc thuyền ngoài xa” với sự cam chịu 2.2.2.1. Hành động, cử chỉ của người đàn bà 2.2.2.2. Thái độ, cảm xúc của người đàn bà 2.3. Các nhân vật nữ với những tình yêu đặc biệt 2.3.1. Nguyệt và hành trình đến với một tình yêu lãng mạn giữa bom đạn chiến tranh 2.3.2. Tình yêu con và niềm khát khao hạnh phúc gia đình của người đàn bà hàng chài 2.3.3. Ý niệm chung về tình yêu của hai người phụ nữ Tiểu kết Chương 3: Ý NIỆM VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ QUA NGÔN NGỮ CỦA CHÍNH HỌ 3.1. Sự tinh tế trong cách xưng hô của những người phụ nữ 3.1.1. Cách xưng hô của Nguyệt thể hiện quan hệ liên cá nhân phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp 4 3.1.2. Sự thay đổi cách xưng hô của người đàn bà hàng chài gắn với sắc thái tình cảm và mục đích giao tiếp 3.2. Các quy tắc hội thoại và việc thể hiện sự sắc sảo, lịch sự trong ngôn ngữ của các nhân vật nữ 3.2.1. Vẻ đẹp trong ngôn từ của Nguyệt 3.2.1.1. Các tham thoại của Nguyệt đảm bảo quy tắc luân phiên lượt lời 3.2.1.2. Các tham thoại của Nguyệt có tính liên kết cao với câu chuyện của Lãm 3.2.1.3. Các tham thoại của Nguyệt luôn có tính cộng tác 3.2.1.4. Các tham thoại của Nguyệt thể hiện sự tôn trọng thể diện người nghe 3.2.2. Sự đúng mực trong ngôn ngữ người đàn bà hàng chài 3.2.2.1. Các tham thoại của người đàn bà thể hiện sự khiêm tốn, thậm chí có phần tự ti 3.2.2.2. Các tham thoại của người đàn bà luôn đảm bảo quy tắc luân phiên lượt lời 3.2.2.3. Các tham thoại của người đàn bà hàng chài có tính liên kết cao 3.2.2.4. Các tham thoại của người đàn bà luôn thể hiện sự cộng tác cao 3.3. Các hành động lời nói trong tham thoại của các nhân vật nữ 3.3.1. Các hành động lời nói và việc thể hiện nhân cách của Nguyệt 3.3.1.1. Các hành động lời nói chủ yếu của nhân vật Nguyệt 3.3.1.2. Tính lịch sự 3.3.1.3. Sự tự tin và lòng dũng cảm 3.3.1.4. Tinh thần trách nhiệm cao trong công việc 3.3.1.5. Lòng vị tha, bao dung, độ lượng 3.3.2. Các hành động lời nói thể hiện sự sắc sảo và thấu hiểu lẽ đời của người đàn bà hàng chài khốn khổ 3.3.2.1. Các hành động lời nói chủ yếu trong ngôn ngữ người đàn bà hàng chài 5 3.3.2.2. Các hành động lời nói phù hợp với hoàn cảnh và mục đích giao tiếp 3.3.2.2. Các hành động lời nói thể hiện sự sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời Tiểu kết Kết luận Tài liệu tham khảo Phụ lục 6 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu 1.1. Phụ nữ là một trong những chủ điểm được quan tâm và có được dấu ấn đặc biệt trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, một trong những nhà văn đã để lại nhiều tác phẩm đặc sắc viết về đề tài chiến tranh cũng như cuộc sống đời thường của con người sau khi hòa bình lập lại. Người phụ nữ trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu mỗi người một cuộc sống, một số phận với ngoại hình, tuối tác khác nhau nhưng đó là những con người luôn khát khao được sống, được yêu, những con người giàu nghị lực, giàu lòng vị tha và sẵn sàng hy sinh. Những phẩm chất ấy luôn luôn được khẳng định và đề cao cả trong gian khổ của chiến tranh, khi tất cả sống và lao động vì độc lập và thống nhất đất nước hay khi hòa bình lập lại, những con người suốt ngày chỉ lo “cơm ăn, áo mặc” cho cuộc sống bình thường; những phẩm chất đó luôn luôn được thừa nhận và đề cao từ những vị thế nhìn khác nhau: Dù là từ vị thế của một chàng trai đang yêu và khao khát được yêu, dù là từ vị thế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh luôn gọi người đàn bà mới ngoài bốn mươi (hàm ý coi khinh) là mụ. Sự thay đổi và không thay đổi trong ý niệm của Nguyễn Minh Châu về người phụ nữ là vấn đề thú vị và hấp dẫn, là vấn đề cần nghiên cứu kỹ hơn để góp phần xác định năng lực phản ánh hiện thực của “hiện tượng văn học”, của người đi tiên phong trong sự nghiệp đổi mới văn học ở Việt Nam. 1.2. Trong thực tiễn nghiên cứu tác phẩm văn học, đặc biệt là trong dạy học ngữ văn ở trường phổ thông, nhiều khi người ta vẫn nặng về bình giảng, hiểu tác phẩm trên cơ sở cảm thức chủ quan mà ít chú ý đến những nguyên tắc cơ bản về phân tích ngôn bản. Theo M.Haliday, “việc đánh giá ngôn bản, phân tích ngôn bản giúp người ta có thể xác định ngôn bản có hiệu quả hay không có hiệu quả so với mục đích cụ thể của nó” (Halliday, tr.15). Và thực sự nhiều nghiên cứu đã lấy ngữ pháp chức năng làm cơ sở 7 để phân tích ngôn bản. “Phân tích ngôn bản mà không dựa vào ngữ pháp thì hoàn toàn không phải là phân tích mà chỉ thuần túy là một bài bình giảng về ngôn bản hoặc là một yêu cầu phải được thực hiện đối với một tập hợp các khế ước phi ngôn ngữ nào đó” (Halliday, tr. 28). Do vậy, ngữ pháp chức năng cùng với lý thuyết về ngữ dụng học được chúng tôi chọn làm cơ sở để xác định ý niệm của Nguyễn Minh Châu về người phụ nữ trong hai truyện ngắn đã và đang được dạy-học ở chương trình phổ thông trung học: Mảnh trăng cuối rừng và Chiếc thuyền ngoài xa. 1.3. Đề tài “Ý niệm về người phụ nữ trong một số truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu” góp phần cụ thể hoá lí thuyết ngữ pháp chức năng và ngữ dụng học trong phân tích chủ điểm cụ thể của ngôn bản, đồng thời góp phần xác định phương pháp dạy thích hợp đối các tác phẩm văn chương trong nhà trường, trong đó có một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu. Mặt khác, đề tài còn cho thấy quá trình nhà văn đi tìm “cái hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người”, đặc biệt trong tâm hồn người phụ nữ. 2. Lịch sử vấn đề Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam trong chiến tranh và đặc biệt là trong thời kì đổi mới. Đã có rất nhiều cuộc hội thảo và hàng trăm công trình nghiên cứu lớn nhỏ bàn về tác phẩm, con người Nguyễn Minh Châu - người được đánh giá là “tiên phong” trong sự nghiệp đổi mới của văn học nước nhà. Đề tài người phụ nữ trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu là một vấn đề khá thú vị, nó thể hiện rất rõ cái nhìn sâu sắc, đôn hậu của nhà văn về cuộc đời và con người trong mọi giai đoạn sáng tác. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về đề tài này còn chưa nhiều và chưa xứng đáng với vị thế của nó trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu. 8 Trên phương diện phê bình văn học, hầu như chỉ có một số công trình, bài viết về đề tài này như “Ấn tượng về nhân vật nữ của Nguyễn Minh Châu” của tác giả Nguyễn Thị Minh Thái; “Nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu” – khoá luận tốt nghiệp của Đào Thị Mai (Đại học Vinh); hay đi cụ thể vào từng nhân vật như bài viết của Nguyễn Văn Bính: “Vẻ đẹp nhân vật Nguyệt và nghệ thuật xây dựng nhân vật Nguyệt của Nguyễn Minh Châu”… Còn lại, hình ảnh người phụ nữ chỉ được các tác giả đề cập một phần trong những bài viết về vấn đề con người nói chung trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu. Chẳng hạn trong bài viết “Đường tới cỏ lau”, tác giả Chu Sơn đã nói về vẻ đẹp “mẫu tính” của người phụ nữ; hay tác giả Ngô Thảo bàn về số phận các nhân vật nữ trong bài “Đọc những tác phẩm mới của Nguyễn Minh Châu”… Với các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, đã có một số tác giả đi sâu nghiên cứu, như Lê Thị Sao Chi với công trình: “Ngôn ngữ độc thoại của nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu” (Luận văn thạc sĩ - Đại học Vinh), Nguyễn Thị Thu Hằng với “Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu” (Khoá luận tốt nghiệp - Đại học Vinh), Trần Thị Thuỳ Linh với “Khảo sát từ ngữ rào đón trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu”…Riêng về đề tài người phụ nữ, chỉ có một vài công trình nghiên cứu trên phương diện ngôn ngữ học, cụ thể như: “Đặc điểm lời thoại nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu” – luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Thị Hiền (Đại học Vinh). Tuy nhiên, theo nghiên cứu của chúng tôi thì chưa thấy công trình nào đi theo hướng tiếp cận của ngữ pháp chức năng và đi sâu phân tích ngôn ngữ một vài tác phẩm cụ thể để khảo sát sự giống và khác nhau trong ý niệm về người phụ nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975. Việc vận dụng lý thuyết ngữ pháp chức năng để phân tích ngôn bản hiện nay đã trở trành một xu hướng và đã được chứng minh bởi tính khoa học và hiệu quả của nó. Điều đó đã gợi ý cho chúng tôi thực hiện đề tài “Ý niệm về người phụ nữ trong một số truyện 9 ngắn tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu” trên cơ sở lý thuyết ngữ pháp chức năng – một cách tiếp cận nội dung văn bản văn học trên cơ sở ngôn ngữ học. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Ý niệm vê người phụ nữ của Nguyễn Minh Châu được phản ánh trong rất nhiều trong tiểu thuyết cũng như truyện ngắn của ông; tuy nhiên chúng tôi chỉ chọn Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng” và người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” để khảo sát. Và ý niệm này được Nguyễn Minh Châu thể hiện qua: - Ngôn ngữ cũng như góc đánh giá của những người kể chuyện: (i) Nguyệt được phản ánh qua ngôn ngữ và quan điểm của Lãm, người chiến sĩ lái xe đang tìm hiểu Nguyệt, (ii) Người đàn bà hàng chài qua ngôn ngữ và lăng kính của người nghệ sỹ đi tìm ảnh. - Ngôn ngữ của chính Nguyệt và người đàn bà trong giao tiếp với người kể chuyện và với những người xung quanh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Hai người phụ nữ đều được Nguyễn Minh Châu phản ánh qua cách nhìn của các nhân vật trong truyện ngắn. Luận văn chỉ tập trung khảo sát các biểu đạt ngôn ngữ trong phạm vi câu và những câu có tham thể chỉ Nguyệt (trong Mảnh trăng cuối rừng) và người đàn bà hàng chài (trong Chiếc thuyền ngoài xa), những câu có cái biểu đạt liên quan đến họ và các tham thoại được hai người phụ nữ sử dụng trong giao tiếp với những người xung quanh. Những số liệu do nhân vật kể chuyện cung cấp được nghiên cứu chủ yếu trên bình diện phản ánh thông qua các sự tình và vai nghĩa. Số liệu về ngôn ngữ của phụ nữ được nghiên từ các bình diện khác nhau của ngữ dụng như hành động lời nói, tình liên kết, lịch sự trong hội thoại… 10 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành đồng thời các phương pháp nghiên cứu sau: 4.1. Thống kê, phân loại - Thống kê tất cả những câu có các biểu thức quy chiếu người phụ nữ làm tham tố trong hai truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu (Ví dụ: Nguyệt, cô, cô gái…; Người đàn bà hàng chài, người đàn bà, mụ…). - Ở những câu là ngôn ngữ nhân vật người kể chuyện, chúng tôi phân loại câu theo nghĩa biểu hiện của khung vị ngữ (gồm vị từ làm trung tâm và các tham tố của nó), sau đó tiếp tục chia nhỏ thành các nhóm câu theo vai nghĩa (Chẳng hạn: những câu có tham tố “Nguyệt” làm hành thể; những câu có tham tố “Nguyệt” làm đích/mục tiêu…). - Ngôn ngữ của Nguyệt và người đàn bà được khảo sát từ cách sử dụng ngôn từ, trong đó có các loại hành động lời nói (trần thuật, cầu khiến, hỏi, từ chối, van nài…); cách nhân vật tuân thủ các quy tắc hội thoại (Quy tắc liên kết, quy tắc luân phiên lượt lời, quy tắc cộng tác…) để từ đó xác định đặc điểm, bản chất của từng nhân vật. 4.2. Phân tích, tổng hợp - Tiến hành phân tích tư liệu trên cơ sở các số liệu đã thống kê, phân loại (tần số lặp lại của các vai nghĩa, các loại chức năng phản ánh của câu, các hành động lời nói, các trường nghĩa…). - Từ sự phân tích tư liệu, rút ra ý niệm về người phụ nữ trong từng truyện ngắn nói riêng và về người phụ nữ nói chung trong từng giai đoạn sáng tác của Nguyễn Minh Châu. - Ý niệm chung của Nguyễn Minh Châu về phụ nữ qua hai truyện ngắn. 4.3. So Sánh - So sánh sự giống và khác nhau trong ý niệm về người phụ nữ của Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975 qua hai truyện ngắn. 11 5. Đóng góp của Luận văn - Đã có rất nhiều cách tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ở góc độ lí luận văn học cũng như ngôn ngữ học, với đề tài này chúng tôi muốn đưa ra một hướng tiếp cận mới trên cơ sở phân tích ngôn bản của ngữ pháp chức năng. - Phân tích ngôn ngữ hai truyện ngắn cụ thể để thấy được sự giống và khác nhau trong ý niệm về người phụ nữ của Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975 (hình thức, đạo đức, bổn phận, trách nhiệm…). Qua đó thấy được sự khách quan, sự tinh tế và trải nghiệm của Nguyễn Minh Châu trong phản ánh hiện thực cuộc sống. 6. Bố cục của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận văn có ba chương. - Chương 1: Một số giới thuyết liên quan đến đề tài - Chương 2: Ý niệm về người phụ nữ qua ngôn ngữ của người kể chuyện - Chương 3: Ý niệm về người phụ nữ qua ngôn ngữ của chính họ 12 CHƯƠNG I MỘT SỐ GIỚI THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Một vài đặc điểm về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu 1.1.1. Vài nét cơ bản về truyện ngắn Truyện ngắn là “thể tài tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội” (1, tr.359). Với tư cách một thể tài tự sự, truyện ngắn hiện đại, cũng như truyện dài, truyện vừa hiện đại, đều ít nhiều mang những đặc tính của tư duy tiểu thuyết. Tuy nhiên, khác với truyện dài, truyện vừa - vốn là những thể tài mà quy mô cho phép chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường nhằm khắc họa một hiện tượng, phát hiện một đặc tính trong quan hệ con người hay trong đời sống tâm hồn con người Truyện ngắn thường ít nhân vật và nhân vật trong truyện ngắn ít khi trở thành một thế giới hoàn chỉnh, một tính cách đầy đặn, mà thường là một nhát cắt trong cuộc đời, nó hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người. Cốt truyện của truyện ngắn thường có giới hạn về thời gian, không gian; nó có chức năng nhận ra một điều gì sâu sắc về cuộc đời, về con người. Chi tiết và lời văn là những yếu tố quan trọng cho nghệ thuật viết truyện ngắn. Lời kể và cách kể chuyện là những điều được người viết truyện ngắn đặc biệt chú ý khai thác và xử lí, nhằm đạt hiệu quả mong muốn. 1.1.2. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn có vị trí nổi bật trong giai đoạn văn học Việt Nam từ những năm 60 đến cuối những năm 80, và cho đến nay, những tác phẩm của ông vẫn có ý nghĩa thời sự trong đời sống xã hội và được nhiều người yêu thích. Ông sáng tác và thành công 13 trên nhiều thể loại như: tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, phê bình, trong đó truyện ngắn được xem là thể loại thành công hơn cả. Nhà văn Lê Lựu đã có lần nói rằng Nguyễn Minh Châu nhìn vào đâu cũng ra được truyện ngắn. Bởi vì truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu chú ý đến các đề tài của cuộc sống thường nhật. Ở sáng tác của Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn bộc lộ ra những đặc tính của một thể loại ưu việt, mở ra cho văn học những đề tài mới và vấn đề mới của đời sống, những hiện tượng nhân vật mới. Các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đào sâu thêm ý niệm của chúng ta về đất nước và con người Việt Nam trong từng thời kì lịch sử. Sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu có thể chia làm hai giai đoạn: trong và sau chiến tranh. Là thế hệ nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ vĩ đại của đất nước, những sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975 không thể không mang những đặc điểm của một nền văn học thời chiến – thời kì mà cảm hứng chủ đạo trong sáng tác là ca ngợi cuộc chiến đấu, đề cao cộng đồng, dân tộc và lịch sử. Có thể nói, chưa bao giờ những hình tượng tập thể, hình tượng nhân dân, hình tượng người lính hiện lên trong văn học đẹp đẽ đến thế. Trong những thành tựu chung ấy có phần đóng góp quan trọng của Nguyễn Minh Châu với những tác phẩm: Cửa sông, Dấu chân người lính, Lửa từ những ngôi nhà…Trong thời kì này, thành công của Nguyễn Minh Châu chủ yếu tập trung ở thể loại tiểu thuyết, tuy nhiên vẫn có những truyện ngắn đã để lại nhiều dấu ấn như: Những vùng trời khác nhau, Người mẹ xóm nhà thờ, Mảnh trăng cuối rừng, Bên đường chiến tranh…Sáng tác của Nguyễn Minh Châu trong những năm chiến tranh thường nghiêng về thể hiện cái cao cả, cái anh hùng và thiên về ca ngợi những vẻ đẹp trong chiến đấu. Nhân vật chủ yếu trong tác phẩm của ông là những người lính cách mạng, ở họ kết tinh những phẩm chất cao đẹp, anh hùng, lý tưởng “như những con chim đại bàng phải tìm đến những cánh rừng đại thụ”, 14 “tìm chỗ đặt chân trên các các mỏm núi đá cao”. Lý tưởng đó ta có thể bắt gặp trong hình ảnh nhân vật Lãm (Mảnh trăng cuối rừng) – một chàng trai đã dám trốn nhà đi bộ đội; nhân vật Nguyệt, người con gái vừa rời ghế trường phổ thông xung phong đi kiến thiết miền Tây; hay nhân vật Lữ trong Dấu chân người lính - người đã “từ bỏ trái hạnh phúc đã ửng hồng trong vườn nhà mình để cầm súng đi chiến đấu” (24, tr. 131)…. Sau chiến tranh, đất nước bước vào một thời kì mới, rất nhiều vấn đề nảy sinh trong xã hội thời hậu chiến, đặc biệt là vấn đề đạo đức con người. Điều đó đặt ra cho các nhà văn một yêu cầu bức thiết phải đổi mới văn học cả về mặt nội dung lẫn nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu là người đi tiên phong trong sự nghiệp đổi mới ấy. Trong một cuộc hội thảo tại tuần báo Văn nghệ, Nguyễn Minh Châu đã nói: “Cái đời sống hôm nay bắt tôi phải quan tâm (…). Những biểu hiện của lối sống, đạo đức và thậm chí là cả quan niệm sống của những người xung quanh ta – nhất là thanh niên – khiến chúng ta không thể không quan tâm và lo lắng (…). Thế là tôi quyết định xông vào cái mặt trận đạo đức này” (24, tr.176-177). Bằng tài năng nghệ thuật và bằng cái tâm đau đáu với đời, Nguyễn Minh Châu đã cho ra đời những tác phẩm có giá trị, nhất là ở thể loại truyện ngắn như: Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Đứa ăn cắp, Chiếc thuyền ngoài xa, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát…. Có thể nói, sau 1975, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã đạt đến đỉnh cao của thành tựu. Truyện ngắn của ông thường đề cập đến những vấn đề thường nhật của cuộc sống, những con người bình thường trong xã hội, nhưng qua đó bộc lộ được nhiều triết lý nhân sinh. Với những tác phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu đã đem đến cho người đọc một cách nhìn mới đối với hiện thực. Nhà văn nhìn vào cuộc sống bình thường hằng ngày với một mối quan tâm đặc biệt để phát hiện những vấn đề bên trong của nó. Có những vấn đề hằng ngày ta vẫn tiếp xúc, chứng kiến không biết bao lần mà không thấy gì đáng quan tâm thì ông nhìn thấy và thấy rất sâu xa. Chẳng hạn, với truyện ngắn Mẹ 15 con chị Hằng, nhà văn chỉ tâm tình kể về một bà mẹ bình thường với cả những khuyết tật bình thường của một người đàn bà nông dân cùng với cách cư xử của bà với con cái và cách cư xử của con cái đối với bà, nhưng qua những vấn đề tưởng như bình thường ấy nhà văn đã cho ta hiểu ra một thực tế. Hóa ra sự hi sinh quá âm thầm, nhẫn nhục gần như bản năng của người mẹ đôi lúc đã gây cho con cái trở nên ích kỉ… Sau 1975, khi đất nước đã thoát ra khỏi cuộc chiến tranh, thì vấn đề đạo đức con người lại là vấn đề nổi cộm. Những thói xấu, thói ích kỉ của chủ nghĩa cá nhân trong thời chiến đã bị lấn át bởi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thì nay có dịp bột phát. Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn nhìn ra sớm nhất và sâu sắc nhất vấn đề này. Vì vậy trong phần lớn truyện ngắn của nhà văn trong thời kì này là loại truyện luận đề - những luận đề về đạo đức, nhân văn, về tâm lí xã hội. Những chủ đề đạo đức, nhân văn ấy được nhà văn thể hiện qua chính những vấn đề chân thực của đời sống. Nhà phê bình Ngọc Trai đã nhận xét: “Anh có cái nhìn sâu sắc và toàn diện đối với con người và hiện thực. Dưới ngòi bút tài hoa của anh, cái hiện thực nhiều chiều, nhiều vẻ gợi sức liên tưởng thật xa rộng. Vì vậy các truyện ngắn của anh thường có thể gây cho bạn đọc nhiều cách tiếp cận, nhiều cách hiểu, cách giải thích khác nhau…” (24, tr. 216). Những truyện ngắn Bức tranh, Đứa ăn cắp, Sắm vai, Chiếc thuyền ngoài xa, Một lần đối chứng…thể hiện rất rõ những trăn trở, chiêm nghiệm của nhà văn về những vấn đề cuộc sống, đạo đức con người. Nhà văn Nguyễn Minh Châu ra đi khi sức viết của ông vẫn còn sung sức, khi trong ông vẫn còn biết bao trăn trở với cuộc đời. Mặc dù vậy, những gì ông để lại cho chúng ta ngày hôm nay cũng đủ cho thấy tầm vóc của một nhà văn có tâm và có tài. Ông xứng đáng được xem là người đi tiên phong trong việc đổi mới văn học những năm 80, là nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. 16 1.1.3. Thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu Văn học không thể thiếu nhân vật, vì đó chính là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nhân vật được sáng tạo ra, hư cấu ra để thể hiện sự đánh giá của nhà văn về giá trị con người, là cái nhìn của nhà văn đối với số phận con người. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu rất phong phú và đa dạng, trong đó các nhân vật nữ chiếm một vị trí khá quan trọng. Theo Nguyễn Thị Minh Thái thì: “những nhân vật đáng yêu nhất của Nguyễn Minh Châu là những nhân vật nữ. (…).Nguyễn Minh Châu có một cái nhìn ấm áp, đôn hậu, luôn chăm chút phát hiện những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam từ nhiều chiều, nhiều hướng, nhiều phía khác nhau. Trong bối cảnh chiến tranh lẫn bối cảnh đời thường, những nhân vật ấy đều đẹp. Và mỗi nhân vật là một phát hiện mới về hình tượng phụ nữ trong văn xuôi hiện đại” (24, tr. 164). Người phụ nữ hiện lên trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu có nhiều số phận khác nhau, tính cách khác nhau, nhưng đa phần đều mang những phẩm chất vô cùng đẹp đẽ. Đó là những con người dũng cảm trong chiến đấu, sống có lý tưởng như Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng), Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) – người con gái đã từ chối đi học nước ngoài, khoác ba lô vào Trường Sơn theo tiếng gọi của tổ quốc… Đó là những người phụ nữ có tấm lòng son sắt, thủy chung như Nguyệt – cô thanh niên xung phong luôn một lòng chờ đợi, thủy chung với người con trai cô chưa một lần gặp mặt; hay nhân vật Hạnh trong truyện ngắn Bên đường chiến tranh, một người phụ nữ ba mươi năm kiên nhẫn chờ đợi một người lính chưa hò hẹn, không một tin tức, chị chỉ biết làm nhà bên một con đường ra trận với hi vọng mỏng manh, rồi một ngày nào đó có thể người lính ấy sẽ qua đây dừng lại ngôi nhà này, và chỉ khi đã gặp lại anh trên đường lên phía bắc chị mới yên lòng cùng gia đình đi về một địa điểm khác... Đó là những người mẹ âm thầm hi sinh vì con cái, vì hạnh phúc gia đình như bà mẹ trong Mẹ con chị Hằng, hay người đàn bà hàng chài trong 17 Chiếc thuyền ngoài xa…, như nhận xét của Nguyễn Văn Hạnh: “Nguyễn Minh Châu viết về người đàn bà trong nhiều tư cách khác nhau nhưng anh đầy hào hứng và ưu ái khi viết về người đàn bà làm mẹ, người đàn bà luôn cảm nhận không chỉ bằng ý thức mà bằng bản năng, thiên chức làm mẹ, nền tảng của cuộc sống” (24, tr. 266). Nguyễn Minh Châu không phải không thấy những mặt trái, mặt tiêu cực ở người phụ nữ, nhưng ông ít đề cập đến mặt này, hoặc nếu có thì cũng là để làm nền để tôn lên cái vẻ đẹp ngầm ẩn bên trong tâm hồn họ - vẻ đẹp “mẫu tính” của người phụ nữ Việt Nam. Nguyễn Minh Châu luôn nhìn người phụ nữ bằng tâm hồn giàu tình yêu thương và cặp mắt đôn hậu. Ông luôn cố gắng đi tìm “hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người”, đặc biệt là người phụ nữ. Thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu vô cùng phong phú, mỗi nhân vật là một tấm gương phản chiếu bức tranh cuộc sống, bức tranh tâm hồn con người vô cùng đa dạng. Qua mỗi nhân vật, ta lại hiểu thêm một khía cạnh trong ý niệm về người phụ nữ của Nguyễn Minh Châu. Trong luận văn này, chúng tôi không có ý định tìm hiểu tất cả các nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu mà chỉ tìm hiểu ý niệm về người phụ nữ của nhà văn qua hai truyện ngắn tiêu biểu trước và sau 1975 (Mảnh trăng cuối rừng và Chiếc thuyền ngoài xa), và quan trọng hơn là cách nhà văn thể hiện ý niệm đó qua hệ thống ngôn ngữ. 1.2. Ngữ pháp chức năng – cơ sở để phân tích ngôn bản 1.2.1. Ngữ pháp chức năng Theo Cao Xuân Hạo, “ngữ pháp chức năng là một lý thuyết và một hệ phương pháp được xây dựng trên quan điểm coi ngôn ngữ như một phương tiện thực hiện sự giao tiếp giữa người và người” (19, tr.11). Nếu như ngữ pháp cổ điển và ngữ pháp cấu trúc luận chỉ chú ý nghiên cứu phần hình thức của ngôn ngữ, cố gắng khảo sát xem chúng được cấu tạo như thế 18 nào mà không chú ý tìm hiểu cách hoạt động của chúng trong khi thực hiện chức năng giao tiếp của mình; thì ngữ pháp chức năng “tự đặt cho mình nhiệm vụ nghiên cứu, miêu tả và giải thích các quy tắc chi phối hoạt động của ngôn ngữ trên các bình diện của mặt hình thức và mặt nội dung trong mối liên hệ có tính chức năng thông qua việc quan sát cách sử dụng ngôn ngữ trong những tình huống giao tế hiện thực không phải chỉ để lập những danh sách đơn vị và xác định những hệ thống và tiểu hệ thống đơn vị ngôn ngữ, mà còn để theo dõi cách hành chức của ngôn ngữ qua những biểu hiện sinh động của nó trong khi được sử dụng” (19, tr.15-16). Lý thuyết ngữ pháp chức năng ra đời với mục đích phục vụ phân tích ngôn bản, tức nhằm “góp phần để hiểu ngôn bản: phân tích ngôn ngữ giúp người ta có khả năng có thể chỉ ra tại sao và làm thế nào mà một ngôn bản có nghĩa như nó có”, đồng thời “việc đánh giá ngôn bản, phân tích ngôn bản giúp người ta có thể xác định ngôn bản có hiệu quả hay không có hiệu quả so với mục đích cụ thể của nó và lý do – mặt nào ngôn bản thành công và mặt nào thất bại hoặc ít thành công” (Halliday, tr.15). Ngữ pháp chức năng xác định câu là đơn vị cơ bản của ngôn từ, là những đơn vị tối thiểu có thể sử dụng trong giao tiếp, là những đơn vị nhỏ nhất trong đó các đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ (nhất là từ) có thể có được chức năng ngữ pháp. Những quy tắc xây dựng cấu trúc câu được ngữ pháp chức năng trình bày và giải thích trên cơ sở những mối quan hệ chặt chẽ giữa ngôn ngữ và tư duy trong việc cấu trúc hoá và tuyến tính hoá những sự tình được phản ánh trong một ngữ cảnh nhất định với sự tham gia của các nhân vật giao tiếp. Hầu hết các tác giả ngữ pháp chức năng đều quan niệm câu có ba chức năng cơ bản tương ứng với ba bình diện nghĩa: (i) Nghĩa biểu hiện, (ii) Nghĩa hoạt động và (iii) Nghĩa liên kết ngôn bản. Ba bình diện này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và nhiệm vụ của ngữ pháp chức năng chính là xác minh các mối quan hệ giữa ba bình diện. 1.2.2. Cú là đơn vị nghiên cứu 19 Vấn đề của ngôn ngữ học nói chung, ngữ pháp nói riêng là vấn đề nghĩa, và câu chính là đơn vị cơ sở để nghiên cứu nghĩa, còn cú là đơn vị cơ sở để nghiên cứu câu, nghiên cứu ngôn bản. Cho đến nay, cú chưa được các tác giả hiểu đồng nhất với nhau, có tác giả từng gọi nó là “mệnh đề”, là “kết cấu chủ - vị”. Trong ngữ pháp tiếng Việt, cú đã được nghiên cứu và sử dụng trong các công trình của nhiều tác giả như Nguyễn Hiến Lê, Lưu Vân Lăng, Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban…. Có một số quan niệm đã đồng nhất cú với câu, tuy nhiên trên thực tế, cú không tương đương với câu, và nó cũng không phải tương đương với nội dung mệnh đề. Nó là đơn vị vừa mang đặc trưng của mệnh đề vừa mang đặc trưng của câu. Hiện nay có ba loại định nghĩa cơ bản về cú: - Cú được đặt trong quan hệ với cú pháp: cú được coi là đơn vị cấu tạo câu. Nó là một cấu trúc bao gồm các thành phần câu như chủ ngữ, vị ngữ, và các thành tố khác như: trạng ngữ, bổ ngữ, định ngữ…Như vậy, câu đơn chỉ gồm một cú, câu kép bao gồm hai cú trở lên. Theo quan điểm này thì các thành phần của cú trùng với các thành phần của câu (Nguyễn Kim Thản 1962, Diệp Quang Ban 1989…) - Cú được đặt trong quan hệ với các kiểu tạo nghĩa: cú được nghiên cứu trong các quan hệ cú pháp, quan hệ ngữ nghĩa và cả trong hoạt động. Đơn vị này được các tác giả ngữ pháp chức năng xác định trên ba cấp độ: 1) chức năng cú pháp, 2) chức năng nghĩa học và 3) chức năng dụng học. - Cú được đặt trong quan hệ với nghĩa: cú được coi là đơn vị miêu tả các sự tình. Nó là một kết cấu có động từ làm trung tâm và các vai nghĩa xoay quanh nó. Cấu trúc của cú được hình thành xoay quanh mối quan hệ ngữ nghĩa giữa vị từ và thành tố của nó; mối quan hệ này có thể được gán cho ba mức độ của chức năng: ngữ nghĩa, cú pháp và ngữ dụng + Chức năng ngữ nghĩa được phân định trên khung cú pháp của cú dựa vào các vai nghĩa, các quan hệ của các thành tố như: tác thể, hành thể, nghiệm thể, đối thể….. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất