Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì: Vật chất
có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức có thể
tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người; vì vậy, con người phải tôn
trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.
Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên và xã
hội. Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải xuất phát
từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. V.I. Lênin
đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được
lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý
muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắcphải
bệnh chủ quan duy ý chí.
- Nếu ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn thì con người phải phát huy tính năng động chủ
quan.
Phát huy tính năng động chủ quan tức là phát huy vai trò tích cực của ý thức, vai trò tích cực của
nhân tố con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. ý thức
muốn tác động trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con
người thực hiện trong thực tiễn. Điều ấy có nghĩa là sự tác động của ý thức đối với vật chất phải
thông qua hoạt động của con người được bắt đầu từ khâu nhận thức cho được quy luật khách
quan, biết vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, phải có ý chí, phải có phương pháp để tổ chức
hành động. Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người những tri thức về bản chất quy luật
khách quan của đối tượng, trên cơ sở ấy, con người xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương
hướng hoạt động phù hợp. Tiếp theo, con người với ý thức của mình xác định các biện pháp để
thực hiện tổ chức các hoạt động thực tiễn. Cuối cùng, bằng sự nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình,
con người có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. ở đây ý thức, tư tưởng có thể quyết định làm cho
con người hoạt động đúng và thành công khi phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan, vì
đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác. Ngược
lại, ý thức, tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh
sai thế giới khách quan. Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai
trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan; đồng thời phải khắc phục bệnh bảo
thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại, ngồi chờ trong quá trình đổi mới hiện nay.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học quan trọng là “Mọi đường lối,
chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan“. Đất nước ta đang
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Đảng chủ trương: “huy động ngày
càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân vào công cuộc
phát triển đất nước”2, muốn vậy phải “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
07/04/2013 08:42 | 2,920 lượt xem
Chuyên đề 1:
Anh (chị) hiểu thế nào về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Rút ra ý nghĩa phương
pháp luận và liên đến quá trình hoạt động thực tiễn của bản thân? 60 phút
TRẢ LỜI:
NHẬP ĐỀ (Mở bài):
Thế giới xung quanh ta có vô vàn các sự vật hiện tương phong phú, đa dạng. Nhưng dù phong
phú và đa dạng đến đâu chăng nữa, chúng cũng chỉ thuộc một trong hai lĩnh vực: Vật chất và ý
thức. Vật chất theo quan điểm triết học Mác-Lênin, là tất cả những gì tồn tại bên ngoài độc lập,
không phụ thuộc vào ý thức của con người. Ý thức là sự phảnh ánh thế giới khách quan vào bộ óc
người trên cơ sở hoạt động thực tiển mang tính lịch sử – xã hội. Vật chất quyết định sự hình
thành và phát triển của ý thức.Vật chất là cái có trước,nó sinh ra và quyết định ý thức. Ý thức lẩn
phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội. Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh tích cực,tự giác, chủ động, sáng tạo thế giới khách
quan và bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn.
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”.
“Vật chất là một phạm trù triết học” Với tính cách là một phạm trù triết học, vật chất không tồn
tại cảm tính, nghĩa là nó không đồng nhất với các dạng tồn tại cụ thể mà ta thường gọi là vật thể.
Vật thể là cái có hạn, vật chất là vô hạn (không ai tạo ra và cũng không bị tiêu diệt).
Thuộc tính chung nhất của vật chất là “thực tại khách quan” tồn tại bên ngoài không lệ thuộc vào
cảm giác.
Vật chất “Đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chụp lại, chép lại, phản ánh”.
Vật chất tồn tại khách quan, nhưng không tồn tại trừu tượng mà tồn tại hiện thực qua các sự vật
cụ thể. Khi tác động vào giác quan thì gây nên cảm giác, chứng tỏ con người có khả năng nhận
thức được thế giới.
“ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.,hayý thức chỉ là hình ảnh của thế
giới khách quan được di chuyển vào óc người và cải biến đi”.
l Bản chất của ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người một cách năng
động, sáng tạo. Phản ánh có quy trình, theo trình tự:
Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh, có chọn lọc, có định hướng.
Mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Hiện thực hoá mô hình trong tư duy thông qua hoạt động thực tiễn.
l Phản ánh mang tính chất chủ động, tích cực, sáng tạo: Nó không phản ánh y nguyên mà phản
ánh có chọn lọc theo mục đích, yêu cầu của con người. Lênin viết “Ý thức không chỉ phản ánh
hiện thực mà còn sáng tạo hiện thực”
Vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó vật chất quyết định ý thức
và ý thức tác động trở lại với vật chất. Vật chất quyết định ý thức được thể hiện như sau:
Vật chất ( là cơ sở vật chất, điều kiện vật chất, quy luật khách quan…) là tiền đề, nguồn gốc cho
sự ra đời, tồn tại, phát triển của ý thức. Ví dụ: Như bộ óc người phát triển bình thường theo từng
giai đoạn của lứa tuổi sơ sinh, thiếu niên, trưởng thành...
Điều kiện vật chất . Ví dụ như: “Người ở nhà lầu suy ngĩ khác người ở lều tranh”. Khi cơ sở vật
chất, điều kiện vật chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi theo.
Cơ sở vật chất, điều kiện vật chất là nơi hình thành các công cụ phương tiện “nối dài” các giác
quan của con người để nhận thức thế giới. Ví dụ như: kính hiển vi, kính viễn vọng đã “ nối dài”
thị giác của con người. Tàu vũ trụ giúp con người tìm hiểu mặt trăng và các thiên thể khác
Vật chất biến đổi thì ý thức biến đổi theo. Ví dụ như: Cơ sở vật chất, điều kiện vật chất, môi
trường sống của con người không tốt, không đảm bảo thì nhận thức của con người bị hạn chế
nhiều mặt. Khi cơ sở vật chất, điều kiện vật chất, môi trường sống của con người tốt đảm bảo thì
nó giúp con người nhận thức tốt hơn.
Tóm lại, vật chất quyết định về nội dung, bản chất và khuynh hướng vận động, phát triển của ý
thức.
Ý thức tác động trở lại đối với vật chất:
Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào trong óc người, giúp con người hiểu được bản chất,
quy luật vận động phát triển của sự vật. Trên cơ sở đó hình thành phương hướng, mục tiêu và
những phương pháp, biện pháp thực hiện mục tiêu đó. Nghĩa là con người muốn thực hiện quy
luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy luật đó, phải có ý chí và phương pháp để tổ chức hành động. Vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo hoạt động của con người, có
thể quyết định làm cho con người hành động đúng hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở
những điều kiện khách quan nhất định.
Ví dụ: Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trong hoạt động thực tiễn, sự bộc lộ nhiều khả năng của sự vật, nhờ có ý thức, con người biết lựa
chọn khả năng đúng, phù hợp mà thúc đẩy sự vật phát triển và ngăn ngừa khả năng xấu làm ảnh
hưởng đến lợi ích của con người.
Ví dụ: Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định
mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế, nóng
vội muốn xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, vi phạm nhiều quy luật khách quan. Cương
lĩnh Đại hội VII đã chỉ rõ:"Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách
quan". Từ đó rút ra bài học quan trọng là: "Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát
từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan".
Ý nghĩa
Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức là cơ sở khách quan của nguyên tắc
phương pháp luận khoa học, giúp chúng ta: “Trong mọi suy nghĩ và hành động của con người
phải xuất phát từ hiện thực khách quan, đồng thời phát huy năng động, sáng tạo của nhân tố chủ
quan”. Chống chủ quan duy ý chí trong hoạt động thực tiển, nóng vội bất chat quy luật khách
quan.
Thường xuyên tổng kệt thực tiển, rút ra tri thức mới bổ sung lý luận. Chống chủ nghĩa giáo điều
và chủ nghĩa kinh nghiệm. Trong sinh hoạt hằng ngày của con người trước hết phải chú ý đến đời
sống vật chất mới chú y đến các lĩnh vực khác. Nhưng nếu tuyệt đối hóa vai trò vật chất sẽ rơi
vào chủ nghĩa duy vật tầm thường.
Theo nguyên tắc phương pháp luận này, mọi hoạt động nhận thức và thực tiển của con người chỉ
có thể đúng đắn, thành công và có hiệu qua khi và chỉ khi thực hiện đồng thời giữa việc xuất phát
từ thực tế khách quan, tôn trọng thực tế khách quan với phát huy tính năng động chủ quan,
chống chủ quan duy ý chí trong nhận thức và thực tiển. Điều đó đòi hỏi người học sinh trong học
tập phải tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và
truyền bá nó vào quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động. Mặt khác, phải tự giác tu
dưỡng, rèn luyện bản thân mình để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm,
nghị lực cách mạng để có sự thống nhất tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành
động.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trong nhận thức
và thực tiển đòi hỏi phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí; đó là những hành
động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm điểm
xuất…Đây cũng là quá trình chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem
thường lý luận, bảo thủ, thụ động, v.v…trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiển trong
học tâp,, lao động và cong tác của bản thân.
Kết luận
Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận thức cái đúng đắn
sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xét nguyên nhân vật chất, tồn tại xã hội_ để giải quyết tận
gốc vấn đề chứ không phải tìm nguồn gốc, nguyên nhân từ những nguyên nhân tinh thần
nào.“tính khách quan của sự xem xét” chính là ở chỗ đó. Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương
đối, tác động trở lại đối với vật chất, cho nên trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét
đến vai trò của nhân tố tinh thần.
Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách quan và giải quyết những
nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật. Đồng thời cũng phải nâng cao nhận
thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các nhân tố tinh thần, tạo thành sức mạnh tổng
hợp giúp cho hoạt động của con người đạt hiệu quả cao. Không chỉ có vậy, việc giải quyết đúng
đắn mối quan hệ trên khắc phục thái độ tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc
chủ quan, duy ý chí do tách rời vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức./
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Triết học Mác-Lênin khảng định:
Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức, là nguồn gốc của
ý thức. Óc người là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức, không có bộ óc người thì không thể
có ý thức.
Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ óc trong quá trình phản ánh thế giới
khách quan. Do vậy, bộ óc có ảnh hưởng trực tiếp đến phản ánh có ý thức của con người.
Thế giới khách quan là nguồn gốc của phản ánh có ý thức, quyết định nội dung của ý thức.
Tuy nhiên, ý thức có thể tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người:
Ý thức có tính năng động sáng tạo, cho nên thông qua hoạt động thực tiễn của con người có thể
tác động trở lại vật chất bằng cách thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một mức độ nào đó các điều kiện vật
chất, góp phần cải biến thế giới khách quan, các điều kiện khách quan.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất dù đến đâu chăng nữa vẫn phụ thuộc vào các điều
kiện vật chất. Cho nên, xét đến cùng, vật chất luôn quyết định ý thức.
Do vậy, từ quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận sau:
Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải tôn trọng quy luật khách quan,
xuất phát từ thực tế khách quan, hành động tuân theo quy luật khách quan. Không được lấy ý
muốn chủ quan thay cho điều kiện khách quan.
Thứ hai, phải thấy được vai trò tích cực của ý thức, tinh thần để sử dụng có hiệu quả các điều
kiện vật chất hiện có. Nghĩa là, phải biết động viên tinh thần, phát huy vai trò tích cực, chủ động,
sáng tạo của ý thức, tinh thần vượt khó vươn lên, v.v.
Thứ ba, tránh không rơi vào “chủ nghĩa khách quan” tức là tuyệt đối hoá điều kiện vật chất, ỷ lại,
trông chờ vào điều kiện vật chất kiểu “Đại Lãn chờ sung”, không chịu cố gắng, không tích cực,
chủ động vượt khó, vươn lên.
Thứ tư, cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, tuyệt đối hoá vai trò của ý thức, của ý chí, cho
rằng, ý chí, ý thức nói chung có thể thay được điều kiện khách quan, quyết định điều kiện khách
quan.
Toàn bộ ý nghĩa phương pháp này cũng là những yêu cầu của nguyên tắc (quan điểm) khách
quan. Vì vậy, chúng ta thấy, chính quan điểm của triết học Mác-Lênin về vật chất, ý thức về quan
hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận của nguyên tắc (quan điểm) khách quan.
.
Định nghĩa vật chất của LN. ý nghĩa khoa học
a. Định nghĩa vật chất của LN:
Hoàn cảnh ra đời của định nghĩa: Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 có
một loạt phát minh khoa học mang tính bước ngoặt ra đời như phát hiện ra tia
X, tia rơn gen, trường điện từ, học thuyết tiến hoá, định luật bảo toàn vật
chất và vận động, định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng... Những phát
minh khoa học này làm cho quan niệm siêu hình, máy móc về vật chất
vấp
phải mâu thuẫn khi không thể giải thích được các hiện tượng cho phát minh
khoa học mới. Lợi dung điều đó, chủ nghĩa duy tâm vật lý đi tới phủ định vật
chất, cho rằng vật chất biến mất, tiêu tan. Trong bối cảnh đó, khái quát những
thành tựu khoa học đương thời, LN đã đưa ra định nghĩa về vật chất.
Nội dung định nghĩa: Trong tác phẩm "Chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán", LN đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau:
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, đư
ợc
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Phân tích nội dung của định nghĩa:
+Trong định nghĩa vật chất này, LN chỉ rõ "vật chất là một phạm trù
triết học", nghĩa là vật chất được LN sử dụng với tư cách là phạm trù triết học
chứ không phải với tư cách là phạm trù của các khoa học cụ thể khác. Đã làm
phạm trù triết học thì nó mang tính khái quát, trừu tượng hoá cao, đồng thời
thể hiện thế giới quan và phương pháp luận triết học. Hơn nữa, phạm trù triết
học mang tính khái quát hoá rộng hơn so với phạm trù của các khoa học khác.
Điều này có nghĩa vật chất được hiểu theo nghĩa triết học khác với phạm trù
vật chất được dùng trong khoa học vật lý, hoá học, chính trị học...
+ Trong định nghĩa của mình, LN cũng nói rằng vật chất "được dùng để
chi thực tại khách quan", có nghĩa là vật chất có rất nhiều thuộc tính nhưng
thuộc tính cơ bản nhất, quan trọng nhất, thuộc tính cần và đủ để phân biệt cái
gì thuộc vật chất và cái gì không thuộc vật chất chính là thực tại khách quan.
Thực tại khách quan là sự tồn tại thực và khách quan, không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người và loài người. Những gì có thuộc tính Êy thì
Mua quảng cáo
2
thuộc về vật chất. VD: Quan hệ sản xuất là một phạm trù vật chất. Nhưng tình
yêu, truyền thống dân tộc lại thuộc phạm trù ý thức.
+ "... được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"
có nghĩa là thực tại khách quan (tức vật chất) có trước, còn cảm giác của con
người (tức ý thức) là cái có sau. Điều này cũng có nghĩa cảm giác của con
người (ý thức) có thể phản ánh được thực tại khách quan (tức vật chất). Hay
nói cách khác, thực tại khách quan không tồn tại trừu tượng mà thông qua các
dạng tồn tại cụ thể của mình và bằng cảm giác (ý thức) mà con người có thể
nhận thức được.
b. Ý nghĩa khoa học
Định nghĩa về vật chất của LN đã chống lại được cả quan điểm duy
tâm chủ quan và quan điểm duy tâm khách quan về vấn đề cơ bản của t
riết
học và về phạm trù vật chất.
Định nghĩa này đã giải quyết được vấn đề cơ bản của triết học trên cả
hai mặt" bản thể luận và nhận thức luận. Phái bản thể luận cho rằng vật chất
có trước, ý thức có sau. Phái nhận thức luận thì cho rằng ý thức tư duy, nhận
thức được vật chất.
Nội dung định nghĩa vật chất của LN đã khắc phục được tính trực
quan siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật
cũ, đồng thời kế thừa được những tư tưởng duy vật biện chứng về vật chất của
Mác Ăngghen.
Định nghĩa vật chất của LN là cơ sở thế giới quan khoa học và
phương pháp luận đúng đắn cho các nhà khoa học trong nghiên cứu thế giới
vật chất.
Định nghĩa vật chất của LN là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quan
điểm duy vật biện chứng trong lĩnh vực xã hội.
Định nghĩa này là một khuôn mẫu về định nghĩa khoa học, mở ra một
phương hướng mới cho định nghĩa trong logic biện chứng.
3
2. Nguồn gốc của bản chất của ý thức:
a. Nguồn gốc:
Theo triết học duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản phẩm
của quá trình phát triển của cả tự nhiên và lịch sử xã hội loài người. Nói khác
đi, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên: Triết học duy vật biện chứng chỉ ra rằng phản
ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Đó là năng lực giữ lại, tái hiện
lại của một hệ thống vật chất này những đặc điểm của một hệ thống vật chất
khác khi hai hệ thống vật chất đó tác động lẫn nhau. Tuy nhiên, do nội dung
và hình thức phản ánh phụ thuộc vào trình độ tổ chức của vật phản ánh và vật
được phản ánh nên, cùng với sự phát triển của thế giới vật chất, thuộc tính
phản ánh cũng phát triển từ thấp đến cao. Trong các dạng phản ánh thì ý thức
của con người là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất, còn
tổ
chức sống có dạng vật chất cao nhất là bộ não người. Tóm lại, não người và
sự phản ánh thế giới khách quan vào não người là nguồn gốc tự nhiên của ý
thức.
(Phải nêu được thuộc tính phản ánh của vật chất, chứng minh rằng đó là
thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Chỉ rõ nội dung và hình thức phản
ánh phụ thuộc vào trình độ tổ chức của vật được phản ánh và vật phản ánh.
Ngoài ra, cũng phải nói thêm về sự phát triển của thuộc tính... từ thấp đến cao
của vật chất).
Nguồn gốc xã hội:
Triết học duy vật biện chứng chỉ ra rằng chính lao động và ngôn ngữ là
hai nguồn gốc xã hội quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của
ý thức. Lao động đóng vai trò quyết định trong việc chuyển biến từ vượ
n
thành người, làm cho con người khác với tất cả các động vật khác, và cũng
chính lao động là cơ sở hình thành, phát triển của ngôn ngữ. Sự ra đời của
ngôn ngữ, tiếp đó, lại giúp con người phản ánh sự vật khái quát hơn, đ
ồng
thời thúc đẩy tư duy trừu tượng phát triển.
4
(Phải làm rõ vai trò của lao động và cùng với lao động là ngôn ngữ. Đó
là hai nguồn gốc xã hội trực tiếp nhất cho sù ra đời của ý thức của con người.
VD: quá trình chuyển biến vượn thành người).
Nh vậy, lao động và ngôn ngữ là "hai sự kích thích chủ yếu" để biến
bộ não vượn thành não người, biến phản ánh tâm lý động vật thành phản ánh
ý thức.
b. Bản chất của ý thức:
Triết học duy vật biện chứng cho rằng bản chất của ý thức là sự phản
ánh thế giới quan vào bộ não của con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn.
Nói nh LN, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới quan. Nghĩa là ý thức là
hình ảnh của sự vật trong bộ não người chứ không phải là bản thân sự vật đó.
ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não người.
Nghĩa là phản ánh ý thức phải dựa trên nhu cầu thực tiễn, do thực tiễn quy
định.
Phản ánh ý thức là tích cực, chủ động. Nghĩa là con người trên cơ sở
hoạt động thực tiễn chủ động tác động vào sự vật, hiện tượng làm cho chúng
bộc lộ thuộc tính, tính chất của mình. Qua đó, con người có hiểu biết về sự vật,
hiện tượng. Hơn nữa, con người còn biết vận dụng tri thức để nhận thức và
cải tạo thế giới khách quan.
Phản ánh ý thức luôn mang bản chất xã hội. Bởi lẽ ý thức luôn là sản
phẩm của sự phát triển của xã hội. Nếu con người tách rời xã hội thì sẽ không
có ý thức.
5
3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. ý nghĩa phương
pháp luận và liên hệ thực tiễn.
a. Quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Trước khi phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì phải hiểu rõ
hai phạm trù vật chất và ý thức.
Vật chất theo định nghĩa của LN là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác.
Còn ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển của cả tự
nhiên và lịch sử xã hội loài người. ý thức có cả nguồn gốc tự nhiên và nguồn
gốc xã hội.
Nói ý thức có nguồn gốc tự nhiên là vì phản ánh là thuộc tính chung
của mọi dạng vật chất. Tuy nhiên, do nội dung và hình thức phản ánh p
hụ
thuộc vào trình độ tổ chức của vật phản ánh và vật được phản ánh nên, cùng
với sự phát triển của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của vật phản ánh
và vật được phản ánh nên, cùng với sự phát triển của thế giới vật chất, thuộc
tính phản ánh cũng phát triển từ thấp đến cao. Trong các dạng phản ánh thì ý
thức của con người là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất và tổ
chức sống có dạng vật chất cao nhất của bộ não người. Nói tóm lại, não người
và sự phản ánh thế giới khách quan vào não người chính là nguồn gốc t
ự
nhiên của ý thức.
Nói rằng ý thức có nguồn gốc xã hội là vì lao động và ngôn ngữ là hai
nguồn gốc xã hội quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của ý
thức. Lao động đóng vai trò quyết định trong việc chuyển biến vượn thà
nh
người, làm cho con người khác với tất cả các động vật khác, đồng thời là cơ
sở hình thành và phát triển ngôn ngữ. Sự ra đời của ngôn ngữ, tiếp đó, giúp
con người phản ánh sự vật khái quát hơn, đồng thời thúc đẩy tư duy trừ
u
tượng phát triển.
6
* Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức được thể hiện nh
sau:
Vật chất có vai trò quyết định đối với ý thức:
+ Theo triết học duy vật biện chứng, vật chất có trước, ý thức có sau.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức.
+ ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ nóo và tổ
chức kết cấu của bộ nóo người. Điều này giải thớch tại sao con người có chỉ
số thông minh khác nhau. Người này nhận thức nhanh hơn người kia ha
y
ngược lại.
+ Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào bộ nóo của con người, là
hình ảnh của thế giới khách quan. Vì thế, thế giới khách quan là nguồn gốc
của ý thức, quyết định nội dung ý thức.
Ý thức tác động ngược trở lại vật chất trên cơ sở hoạt động thực tiễn
của con người.
+ Theo triết học duy vật biện chứng, ý thức có tính năng động, sáng tạo
nên thông qua hoạt động thực tiễn của con người có thể thúc đẩy hoặc kỡm
hóm ở một mức độ nhất định các điều kiện vật chất, góp phần cải biến
thế
giới khách quan. Nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan sẽ góp phần
thúc đẩy, cải tạo khách quan theo hướng tiến bộ. Ngược lại sẽ theo hướng tiêu
cực.
+ Ý thức thông qua hoạt động thực tiễn của con người trong một thời
điểm, không gian xác định có thể đóng vai trò quyết định đối với mối quan
hệ với vật chất. Tuy nhiên, xét đến cùng thì sự tác động trở lại của ý thức vào
vật chất vẫn phụ thuộc vào thế giới vật chất và điều kiện vật chất. Do vậy, vật
chất vẫn quyết định ý thức.
b. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tế.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
Vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức: Ý thức chỉ là sự phản
ánh thế giới khách quan vào trong bộ nóo người. Vì vậy, trong hoạt độn
g
7
nhận thức và hoạt động thực tiễn luôn luôn phải xuất phát từ thực tế kh
ách
quan, tôn trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật khách quan.
Nghĩa là phải có quan điểm khách quan trong hành động.
Do ý thức có tính độc lập tương đối, có thể tác động trở lại vật chất
thông qua ý thức của con người nên phải thấy được vai trò tích cực của ý thức
trong việc sử dụng có hiệu quả các điều kiện vật chất khách quan.
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, cần phải chống chủ nghĩa........
Tức là sự thụ động, ỷ lại vào điều kiện vật chất, không biết phát huy vai trò
tích cực của ý thức, tinh thần.
Cần phải chống bệnh chủ quan duy ý chí. Tức là tuyệt đối hoá vai trò
của ý thức, tinh thần, ý chí; không đánh giá đúng vai trò của các điều kiện vật
chất khách quan.
* Liên hệ thực tiễn: Trước thời kỳ đổi mới, chúng ta mắc bệnh chủ
quan duy ý chí, nhất là trong các vấn đề kinh tế và phát triển nông ngh
iệp.
Chúng ta đã xõy dựng các hợp tác xã khi chưa đủ điều kiện vật chất kỹ thuật,
trang thiết bị cơ sở hạ tầng. Chúng ta cũng đã tiến hành cải tạo công thương
nghiệp một cách chủ quan và triệt tiêu các thành phần kinh tế phi CNXH một
cách nóng vội. Tuy nhiên, từ khi thực hiện chính sách đổi mới đến nay, chúng
ta đã khắc phục những sai lầm trên. Bài học này cho thấy chúng ta phải biết
tôn trọng hiện thực khách quan. Làm gì cũng phải có lộ trình. VD: Tăng
lương là một điều tốt nhưng cũng cần phải thực hiện theo đúng lộ trình vì nếu
không sẽ gõy tác dụng ngược như làm gia tăng lạm phát. Tăng lương chỉ nên
thực hiện khi nó song hành với trình độ phát triển của nền kinh tế và trình độ
quản lý nhà nước.
8
4. Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, ý
nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tiễn.
a. Nội dung:
* Vị trí, vai trò của quy luật: Đõy là một trong 3 quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật. Quy luật này được LN gọi là hạt nhõn của ph
ép
biện chứng, nghĩa là nắm bắt được quy luật này sẽ là cơ sở để hiểu các quy
luật khác và hiểu được ngùôn gốc vận động, phát triển của mọi hiện tượng.
* Một số khái niệm:
Khái niệm về mõu thuẫn: mõu thuẫn là một phạm trù triết học chỉ sự
liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Mõu thuẫn được hình
thành bởi một cặp đối lập. Tuy nhiên, không phải bất kỳ mặt đối lập nào cũng
tạo thành mõu thuẫn. Chỉ những cặp mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật
hiện tượng, trong cùng một không gian và thời gian, về cùng một mối liên hệ
và thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau mới tạo thành mõu thuẫn. Ví dụ:
cực Bắc và cực Nam của nam chõm, đột biến và di truyền, đồng hoá và dị hoá.
Các mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng phát triển trái ngược
nhau, tồn tại trong cùng một sự vật và hiện tượng.
Thống nhất của các mặt đối lập: Theo triết học DVBC, thống nhất của
các mặt đối lập được hiểu theo 3 nghĩa sau.
+ Thứ nhất là các mặt đối lập làm tiền đề cho nhau tồn tại, không có
mặt này thì không có mặt kia và ngược lại. VD: không thày đố mày làm nên.
Có giáo viên thì có học viên và ngược lại. Có cầu ắt có cung... đồng hóa chỉ
có được khi có dị hoá. Dị hoá là cơ sở thúc đẩy đồng hoá và ngược lại.
+ Thứ hai, xét về một số phương diện nào đó, giữa hai mặt đối lập có
một số yếu tố giống nhau, tương đồng nhau, đồng nhất với nhau và vì v
ậy
chúng có thể chuyển hoá cho nhau. Ví dụ: tư bản và CNXH có điểm chung
nhau về lợi ích nên dù hai bên trái ngược nhau nhưng vẫn có sự hợp tác, cộng
tác. Trong đối tác có đối tượng và ngược lại.
+ Giữa hai mặt đối lập có trạng thái cõn bằng nhau, tác động ngang
nhau. Khi không đói, không no, có nghĩa là đồng hoá và dị hoá đang cõn bằng
nhau. Thời kỳ qúa độ là thời kỳ giằng co giữa CNXH và CNTB do không bên
9
nào đủ mạnh để lấn át, triệt tiêu bên kia. VN đang trong giai đoạn tạm thờ
i
của CN quá độ, cũn rất nhiều khó khăn.
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, bài trừ nhau,
phủ định nhau, là sự triển khai của các mặt đối lập. Đấu tranh giữa các mặt
đối lập là tuyệt đối. Cũn thống nhất giữa các mặt đối lập là tương đối vì nó chỉ
thống nhất ở một thời điểm nhất định, ở một số loại mõu thuẫn nhất định và
ngay trong sự thống nhất ấy cũng hàm chứa những yếu tố phá vỡ sự th
ống
nhất.
* Vai trò thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập đối với sự vận
động phát triển của sự vật.
Khi các mặt đối lập thống nhất với nhau thì làm cho các mặt cũn lại của
nó và các mặt đối lập phát triển từ từ, chậm chạp.
Khi các mặt đối lập phát triển đến mức chín muồi làm cho mõu thuẫn
trở nên gay gắt đòi hỏi các mặt đối lập phải được giải quyết. Nghĩa là hai mặt
đối lập đều biến đổi và khi đó mõu thuẫn được giải quyết. Khi mõu thu
ẫn
được giải quyết thì sự vật không cũn là nó nữa. Sự vật mới ra đời thay thế sự
vật đó.
Sự vật mới ra đời là sự thống nhất mới của các đối lập mới. Cứ như vậy,
các mặt đối lập trong sự vật mới lại đấu tranh với nhau...Như vậy, sự tác động
qua lại lẫn nhau của các mặt đối lập là nguyên nhõn chính và cuối cùng làm
cho sự vật vận động, phát triển. Túm lại, chớnh sự thống nhất và đấu tr
anh
của các mặt đối lập là nguồn gốc làm cho sự vật vận động, biến đổi và phát
triển. VD: học hết lớp 1 sẽ lên lớp 2 và cứ thế học tiếp lên các lớp cao hơn.
Điều đó có nghĩa học sinh luôn luôn phải cố gắng phấn đấu đáp ứng các yêu
cầu mới, cao hơn về trình độ, kiến thức, học thức...
* Phân loại một số mâu thuẫn: Thông thường phõn mõu thuẫn thành
mõu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và không
chủ yếu, đối kháng và không đối kháng.
Phải nêu rừ các cặp mõu thuẫn này và nêu ví dụ. VD: Mõu thuẫn giữa
các tầng lớp xã hội, giữa chủ nô và nô lệ, vô sản và tư sản là mõu thuẫn đối
10
kháng; mõu thuẫn giữa CNXH và CNTB là mõu thuẫn không đối kháng vì hai
bên có thể cùng tồn tại và bổ sung lợi ích cho nhau...)
b. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tế.
* í nghĩa phương pháp luận:
Nhận thức mõu thuẫn là khách quan phổ biến. Do vậy nhận thức mõu
thuẫn là cực kỳ quan trọng, không được né tránh mõu thuẫn mà phải nghiên
cứu nó.
Đối với hoạt động thực tiễn phải xác định đúng điều kiện chín muồi để
tỡm ra phương thức, phương tiện và lực lượng giải quyết.
Mõu thuẫn chỉ có thể được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi.
Do vậy không được nóng vội, chủ quan giải quyết khi chưa đủ điều kiệ
n.
Ngược lại, khi đã đủ điều kiện rồi thì không được bảo thủ, trì trệ, né tránh, lẩn
trốn giải quyết mõu thuẫn.
Giải quyết mõu thuẫn phải bằng con đường đấu tranh của các mặt đối
lập. Do vậy không được thoả hiệp khi giải quyết mõu thuẫn.
Mỗi một loại mõu thuẫn đều có vai trò, vị trí nhất định đối với sự vận
động, phát triển của sự vật. Do đó phải có sự phõn loại và giải quyết hợp lý
các mõu thuẫn.
* Liên hệ thực tế: Ở nước ta trước đây, thường có những biểu hiện
chưa đúng là nhấn mạnh thái quá hoặc tuyệt đối hoá mặt đấu tranh mà chưa
nhận thấy vai trò của sự thống nhất của các mặt đối lập. Cho nên bõy giờ cần
nhận thức lại là thống nhất của các mặt đối lập cũng có vai trò rất quan trọng
của quá trình phát triển, mặc dù chúng ta không phủ nhận vai trò đấu tr
anh
của các mặt đối lập.
Hiện tại có rất nhiều mâu thuẫn nổi lên ở nhiều lĩnh vực nên cần nhận
thức đầy đủ và giải quyết kịp thời. VD: Các cuộc bói công, biểu tình của công
nhõn, nông dõn phản đối chính sách của CP... Nếu không giải quyết đúng đắn,
kịp thời sẽ nảy sinh mõu thuẫn, bất ổn XH.
11
5. Phân tích sự thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất. Ý nghĩa
phương pháp luận và liên hệ thực tiễn.
a. Nội dung quy luật
Vị trí, vai trò của quy luật: Đõy là một trong 3 quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật. Quy luật này chỉ ra cách thức vận động, phát triển
của sự vật.
Phạm trù chất là lượng:
+ Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan
vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tớnh làm cho sự vật
là chính nó chứ không phải là sự vật khác. VD: Những thuộc tớnh căn bản để
tạo thành một vật dụng, ví dụ như chai nước, đúng là chai nước chứ khô
ng
phải là chai bia. Người ta không tắm hai lần trên một dòng sông...
Một sự vật có nhiều thuộc tớnh, do đó một sự vật cũng có nhiều chất
bởi lẽ chất là do thuộc tính cấu thành/cấu tạo nên. Thuộc tớnh cơ bản sẽ tạo ra
chất cơ bản của sự vật. VD: đồng hồ có những thuộc tớnh như trang sức, quà
tặng, chặn giấy, ném chuột... nhưng thuộc tính cơ bản là để xem giờ.
+ Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tớnh quy định khách
quan vốn có của nó nhưng là biểu thị về mặt lượng (cụ thể là biểu thị thành số
lượng, đại lượng, trình độ, quy mô, nhịp điệu, tốc độ...) sự vận động, ph
át
triển của sự vật. VD: sinh viên năm thứ nhất thì sinh viên là mặt chất, năm thứ
nhất là mặt lượng. Số 4 khi so sánh tương quan với các số khác thì là ch
ất,
nhưng khi nói ở góc độ là bốn số 1 cộng lại (định lượng) thì lại là lượng.
Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
+ Trong sự vật, chất và lượng thống nhất với nhau. Nghĩa là sự thay đổi
về lượng tăng lên và giảm đi chưa làm cho chất căn bản của sự vật thay đổi.
Sự thống nhất giữa chất và lượng này được thể hiện ở phạm trù "độ".
Nói
khác đi, độ là một phạm trù triết học chỉ khoảng giới hạn mà ở đó, sự thay đổi
của lượng (tăng lờn hoặc giảm đi) thì chưa làm chất căn bản của sự vật thay
đổi. VD: Độ của sinh viên là từ khi nhập học đến trước khi bảo vệ thành công
12
luận văn tốt nghiệp. Vì số môn học tăng lên qua các năm nhưng xét cho cùng
thì vẫn là sinh viên, chưa phải là cử nhõn. Độ của triệu phú là từ 1 triệ
u
999,9 triệu.
+ Lượng đổi dần dần đến chất đổi: Sự thay đổi về chất của sự vật bao
giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Sự thay đổi về lượng đến một tới
hạn nào đó sẽ lam cho chất căn bản của sự vật thay đổi.Điểm tới hạn mà sự
thay đổi về lượng đã làm cho sự thay đổi về chất diễn ra được gọi là "điểm
nút". VD: Điểm nút của sinh viên là chi chủ tịch hội đồng chấm luận văn công
bố sinh viên bảo vệ thành công luận văn tốt nghiệp.
+ Chất mới ra đời tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng mới: Chất
mới ra đời sẽ làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, tác động đến nhịp độ,
tốc độ, xu hướng vận động phát triển của sự vật. VD: Trình độ cao đọc được
các quyển sách có kiến thức cao hơn, nhiều hơn.
Các hình thức của bước nhảy: khi có sự thay đổi về chất diễn ra do sự
thay đổi về lượng trước đó làm tiền đề thì được gọi là bước nhảy. Thườ
ng
người ta chia thành bước nhảy đột biến (phản ứng nguyên tử) và bước nhảy
dần dần (giai đoạn quá độ của một cơ quan, tổ chức hay quốc gia); bước nhảy
toàn bộ (phá nhà và xõy lại hoàn toàn) và bước nhảy cục bộ (sửa từng phần,
nõng cấp nhà).
b. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tiễn.
* í nghĩa phương pháp luận:
Trong hoạt động thực tiễn cần phải chống các tệ phương hướng tả
khuynh, tức là tuyệt đối hoá bước nhảy về chất, không đánh giá đúng tác động
về lượng do nóng vội, chủ quan, dễ phiêu lưu, mạo hiểm.
Chống khuynh hướng hữu khuynh: Tức là không thấy được vai trò
thay đổi về chất, bước nhảy về chất mà chỉ nhấn mạnh, tuyệt đối hoá về lượng,
dẫn tới sự bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới.
Muốn giữ cho sự vật cũn là nó thì phải nắm được giới hạn độ của nó.
Trên cơ sở đó giữ cho sự thay đổi về lượng hoặc tăng lên, hoặc giảm đi nhưng
13
không vượt quá giới hạn độ. VD: Nhà sản xuất, kinh doanh muốn duy trì hoạt
động lõu dài thì phải chú trọng bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng, giữ h
oạt
động của các thiết bị điện tử trong giới hạn cho phép, nếu không sẽ gõy cháy,
hỏng...
Khi nhận thức sự vật thì phải nhận thức cả mặt chất và mặt lượng của
nó. Không được tuyệt đối hoá hoặc hạ thấp bất kỳ mặt nào.
* Liên hệ thực tiễn: Hiện nay nước ta đang ở thời kỳ quá độ lên
CNXH, nên chúng ta phải xõy dựng con người mới, nền văn hoá mới. Muốn
vậy phải tích luỹ về lượng, tức là xõy dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tích luỹ và
hình thành dần dần nhõn tố con người mới, XH mới.
Mặc dù phải tích luỹ về lượng nhưng trong hoạt động thực tiễn con
người phải tích cực, chủ động, sáng tạo để thực hiện bước nhảy về chất. Bước
nhảy về chất chỉ thực hiện được khi đã có thể chủ động tích lũy về lượng, tất
nhiên phải tuõn theo quy luật. VD: tiêu chuẩn về hộ nghèo thay đổi khi đã cơ
bản thực hiện được công tác xoá đói giảm nghèo.
14
6. Thế nào là sự phủ định biện chứng. Phân tích các đặc trưng của
phủ định biện chứng, ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tiễn.
a. Định nghĩa:
Phủ định là sự ra đời cái mới từ cái cũ và thay thế cái cũ. Do vậy có 2
loại phủ định.
+ Phủ định siêu hình: Đó là sự phủ định sạch trơn, sự phủ định phá huỷ
hoàn toàn cái cũ, sự phủ định không tạo tiền đề cho cái mới ra đời từ cái cũ và
lực lượng phủ định ở bên ngoài sự vật. VD: Việc tiêu thu trứng vịt lộn là phủ
định siêu hình.
+ Phủ định biện chứng: Trái ngược với phủ định siêu hình. Đó là sự tự
thõn phủ định, sự phủ định tạo điều kiện, tiền đề cho sự vật mới ra đời từ sự
vật cũ.
b. Đặc trưng của phủ định biện chứng: có những đặc trưng sau:
Thứ nhất là mang tính khách quan: Nguyên nhõn của sự phủ định nằm
trong chớnh bản thõn sự vật. Đó là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập trong bản thõn sự vật quy định. Hơn nữa, phương thức phủ định của sự vật
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người và loài người.
Phương thức phủ định của sự vật: có những loài rắn đẻ trứng, nhưng có
những loài đẻ con. Hoặc có những loài cõy phải nhờ vào ngoại cảnh như gió,
ong, bướm... để thụ phấn và sinh trưởng. Muốn phát triển XH thì các nh
à
hoạch định chính sách phải hiểu và tính được chu kỳ phát triển của xã hội, các
thành phần kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Không thể
đốt cháy giai đoạn. Không thể rút ngắn chu kỳ sinh trưởng của sự vật.
Thứ hai, phủ định biện chứng không phải là sự thủ tiêu, sự phá huy
hoàn toàn cái bị phủ định. Trái lại trong quá trình phủ định biện chứng, để dẫn
tới sự ra đời của cái mới, bao giờ cũng phải giữ lại những yếu tố tích cực clủa
cái bị phủ định. Nói khác đi, phủ định biện chứng có đặc trưng là mang tính
kế thừa. Nhờ sự kế thừa này mà những yếu tố tích cực của cái bị phủ
định
được chuyển vào cái mới, đồng thời loại bỏ những yếu tố không cũn phù hợp
của cái bị phủ định. Chính nhờ đặc trưng kế thừa này mà tạo ra sự liên hệ giữa
cái mới và cái cũ. Cái mới không ra đời từ hư vô mà ra đời từ cái cũ. Sự kế
15
thừa tạo ra tính liên tục trong sự phát triển của sự vật (giữa cái mới và cái cũ
không có hàng rào ngăn cách).
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Phủ định biện chứng với những đặc trưng của nó đã cho ta cơ sở lý
luận để hiểu được sự ra đời của cái mới. Cái mới luôn ra đời từ cái cũ, không
phải từ hư vô. Cái mới sẽ kế thừa những yếu tố tích cực của cái cũ. Nhưng do
cái mới khi ra đời bao giờ cũng non nớt, khó khăn trong phát triển nên chúng
ta phải ủng hộ cái mới hợp quy luật, phải tin vào sự phát triển, thắng lợi của
cái mới, đồng thời chống thái độ phủ định sạch trơn. VD: Hình thức học tại
chức không xấu nhưng do hình thức thực hiện kém nên không đem lại hi
ệu
quả và gõy ra phản ứng tiêu cực từ xã hội.
Trong đấu tranh với cái cũ, cái lạc hậu chúng ta phải biết sàng lọc, lấy
những cái tớch cực của cái cũ. Cái cũ nào không cũn phù hợp thì loại bỏ. Cái
cũ nào cũn phù hợp thì phải duy trì trong điều kiện mới. Cũng cần xem xét để
tỡm ra những cái cũ nào có thể cải tiến cho phù hợp với điều kiện mới. VD:
trong lễ hội thì phần hội luôn luôn có thể giữ lại. Tuy nhiên phần lễ thì
có
nhiều cái cũn lạc hậu, cần phải cải tiến. Cụ thể từ bỏ quan niệm trọng
nam
khinh nữ, coi thường lớp trẻ, từ bỏ các thủ tục rườm rà, cổ hủ.
Trong hoạt động thực tiễn vừa phải chống thái độ hư vô chủ nghĩa,
bảo thủ, trì trệ hẹp hòi, vừa phải chống thái độ thủ cựu, hoài cổ (không bám
giữ quan điểm cho rằng ngày xưa cái gì cũng hay hơn hiện nay). Phải có thái
độ đúng với quá khứ, với lịch sử (nếu kẻ nào bắn vào quá khứ bằng súng lục
thì sẽ bị tương lai bắn trả bằng đại bác).
VD1: người nông dõn đông nhất nhưng lại là những người nghèo nhất,
chịu nhiều thiệt thòi nhất (giá điện cao nhất, hạ tầng cơ sở kém nhất, ch
ịu
nhiều loại thuế nhất, giá nông sản thấp nhất...).
VD2: Cách dạy dỗ, giáo dục con cái. Khi một đứa trẻ ngã thì bố mẹ,
ông bà luôn tìm cách đổ lỗi cho khách quan, thay vì đó là sai sót của bản thõn.
Dần dần đứa trẻ khi lớn lên sẽ luôn có thái độ ỷ lại và tỡm cách đổ lỗi cho
SỰ VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ VẬT CHẤT
VÀ Ý THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRO
NG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI NỀN KINH TẾ
1. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào mối quan hệ biện
chứng giữa kinh tế và chính trị:
Nh- chóng ta đã biết vật chất và ý thức có quan hệ biện chứng với nhau.
Nhân tố vật chất giữ vai trò cơ sở quyết định, còn nhân tố ý thức có tác dụng trở
lại đối với nhân tố vật chất. Vai trò tích cực hay tiêu cực của ý thức chỉ được
trong một thời gian nhất định và điều kiện cụ thể vì thế giới vẫn tồn tại khách
quan và vận động theo quy luật khách quan đòi hỏi ý thức phải biến đổi phù hợp
với nó, nếu là tiêu cực ý thức sớm muộn cụng bị đào thải. Mặt khác ý thức là cái
có sau, là cái phản ánh hơn nữa vai trò cảu nó còn tuỳ thuộc vào mức độ chính
xác trong phản ánh hiện thực. Do vậy xét tàon cục ý thức vẫn là nhân tố thứ hai
bị quyết định, cần chó ý rằng vai trò của ý thức chỉ có được nếu nó thâm nhập
vào quần chúng và tổ chức xã hội. Nếu nh- chóng ta đưa nó vào điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể thì chúng ta có thể thấy rằng giữa kinh tế (biểu hiện của vật
chất) và chính trị(biểu hiện của ý thức) còng có mối quan hệ dàng buộc lẫn
nhau. Bởi vì chúng ta thấy rằng tình hình kinh tế của một nước là cơ bản quyết
định còn chính trị là cơ bản. Nếu kinh tế của một nước mà giàu mạnh nhưng
chính trị thì luôn bất ổn: đấu tranh giai cấp, tôn giáo, giữa các đảng phái khác
nhau của một quốc gia thì cũng không thể tồn tại lâu dài được, cuộc sống của
nhân dân sung tóc, đầy đủ nhưng luôn phải sống trong lo âu sợ hãi vì chiến tranh
và chết chóc. Do đó chính trị của một nước mà ổn định, tuy nhiều đảng khác
nhau nhưng vẫn quy về một chính đảng thống nhất đất nước và đảng này vẫn
đem lại sự yên Êm cho nhân dân, đất nước đó giàu mạnh cuộc sống nhân dân
Êm lo hạnh phóc, ngược lại nếu như đất nước đó nghèo cho dù chính trị ổn định
đến đâu thì cuộc sống của nhân dân cũng trở lên khó khăn và ắt sẽ dẫn đến đảo
chính sụp đổ chính quyền để thay thể một chính quyền mới đem lại nhiều lợi
Ých cho nhân dân hơn.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thay đổi theo từng hình thái kinh tế
chính trị xã hội. Trình độ tổ chức quản lý và tính chất hiện đại của nền sản xuất
sẽ là nhân tố quy định trình độ hiện đại và mức sống của xã hội. Sản xuất vật
chất còn nền tảng hình thành tất cả các quan hệ xã hội và đời sống tinh thần xã
hội. Hiện thức lịch sử đã chỉ ra răng mọi quan hệ của đời sống xã hội bao gồm:
quan hệ chính trị, nhà nước pháp quyền, đạo đức, khoa học, nghệ thuật tôn giáo,
... đều hình thành và biến đổi và phát triển gắn liền với cơ sở kinh tế và sản xuất
nhất định. Trong xã hội đó theo Mác quan hệ giữa người với người trong quá
trính sản xuất (quan hệ kinh tế)là quan hệ cơ bản nhất quyết định tất các quan hệ
cơ bản khác. Mét khi sản xuất phát triển cách thức sản xuất của con người thay
đổi, năng suất lao động tăng, mức sống được năng cao thì các mối quan hệ và
mọi mặt của đời sống cũng được thay đổi theo. Sản xuất vật chất hay kinh tế là
cơ sở đầu tiên quan trọng nhất tham gia vào quá trình phân hoá và hoàn thiện
chức năng của con người, thoả mãn nhu cầu của con người và xã hội. Sù phong
phú và đa dạng của những quan hệ vật chất, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
ký thuật và đời sống tinh thần trong quá trình sản xuất vật chất là cơ sở nảy sinh
sù phong phú và đa dạng trong sự phát triển thể chất năng lực và tinh thần của
con người.
Nguyên lý triết học Mác-Lênin là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và
ý thức đòi hỏi chúng ta phải xem xét tình hình các sự vật ( ở đây là nên kinh tế)
từ thực tế khách quan, tránh chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí, đồng thời phát huy
vai trò năng động sáng tạo của ý thức, phát huy nỗ lực hoạt động chủ quan trong
hoạt động của con người (như trong hoạt động kinh tế của nước ta, trong công
cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng đã rất chú trọng trong
việc đề cao yếu tố của con người, làm cho ý thức thay đổi mới thâm nhập vào cơ
sơ kinh tế, và động viên quần chúng).
2. Sù vận dụng mối quan hệ vất chất và ý thức trong công cuộc đổi mới
kinh tế của đảng cộng sản Việt Nam
Nh- chóng ta đã biết, sau khi giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước,
nền kinh tế Việt Nam còn nhiều nhược điểm. Cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém,
cơ cấu kinh tế nhiều mặt mất cân đối, năng xuất lao động thấp, sản xuất chưa
đảm bảo nhu cầu đời sống, sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ thực phẩm
cho nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp, hàng hoá cho xuất khẩu.
Trước tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ IV lại đề ra những chỉ tiêu kế
hoạch năm 1976-1980 quá cao và phát triển sản xuất vượt quá khả năng của nền
kinh tế. Đặc biệt là đã đề ra việc xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp
nặng, đặc biệt là cơ khí và đặt nhiệm vụ hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ
nghĩa ở miền Nam. Những chủ trương sai lầm đó cùng với cơ chế quản lý tập
chung quan liêu bao cấp đã tác động xấu đến nền kinh tế, ảnh hưởng không tốt
tới đời sống của nhân dân... Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế chỉ đạt
khoảng 50-60% mức đề ra, nền kinh tế tăng trưởng rất chậm chạp: tổng sản
phẩm xã hội tăng bình quân 1,5%, công nghiệp tăng 2,6%, nông nghiệp giảm
0,15%.
Đại hội Đảng lần thứ V cũng chưa tìm ra được đầy đủ những nguyên nhân
đích thực củ sự trì trệ trong nền kinh tế của nước ta và cũng chưa đề ra các chủ
trương chính sách và toàn diện về đổi mới, nhất là về kinh tế. Trong 5 năm
- Xem thêm -