Ý nghĩa ngôi nhà sàn của người dân tộc Thái
I. MỞ ĐẦU
Trải qua một quá trình hình thành lâu đời, trên lãnh thổ Việt Nam hiện
nay đã có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống tạo nên một bức tranh muôn màu
muôn vẻ về văn hóa dân tộc, trong đó có dân tộc Thái.
Thái là tên một dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Ở nước
ta, người Thái tập trung cư trú ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu và một phần Hoàng
Liên Sơn, ngoài ra lại còn sống ở miền Tây cao tỉnh thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh.
Dân tộc Thái thuộc nhóm các dân tộc nói tiếng Tày Thái, họ có mặt ở
Việt Nam từ rất lâu đời. Trong truyền thuyết dân gian về “Ải Lậc cậc”, người
Thái tổ có công sáng lập ra 4 cành đồng lòng chải lớn: Mường Thanh, Mường
Lò, Mường Tác, Mường Than đã nói rõ về quá trình ra đời của dân tộc Thái.
Người Thái nói riêng và các dân tộc nói tiếng Thày Thái nói chung không
chỉ cư trú trên lãnh thổ nước ta mà còn cư trú đông đúc ở nhiều nước láng giếng
khác trong khu vực như: Lào, Thái Lan, Nam Trung Quốc. Với tư cách là cư dân
bản địa của vùng này, người Thái đã có công lớn trong việc góp công sức mình
vào sự hình thành khu vực văn hóa dân tộc học Đông Nam Á, mà những thành
tựu được đúc kết là:
“Trồng lúa nước
Làm nhà sàn
Đúc trống đồng…”
Tây Bắc là mảnh đất “rũng vàng” của tổ quốc có thiên nhiên phong phú
đa dạng và giàu đẹp, có trong lịch sử oai hùng với chiến thắng Điện Biên Phủ
lừng lẫy năm châu, có cộng đồng cao dân tộc cần cù, sáng tạo với nền văn hóa
đa dạng như một bức tranh đẹp và mến khách. Tây Bắc là vùng đất ở hai bên bờ
0
sông Đà và sông Cả, phía đông là dải Hoàng Liên Sơn, phía tây có dãy núi sông
Mã. Giữa hai mạch núi là cả một cao nguyên rộng lớn, cao trung bình từ 600
đến 1000m.
Khí hậu Tây Bắc khắc nghiệt, hàng năm có thể chia làm 3 mùa, hanh,
sương, mưa. Mùa hanh từ tháng 10 đến tháng Giêng, mùa sương từ tháng 2 đến
tháng 5), mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 9. Những điều kiện tự nhiên địa hình đã
ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động kinh tế và đời sống văn hóa của người Thái
nói riêng và các dân tộc khác nói chung ở Tây Bắc.
Ở Tây bắc, người Thái sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Nghề
trồng trọt trên cạn (lúa, ngô, khoai, sắn, đậu…) chỉ đến hàng thứ 2 hái lượm, săn
bắn có ý nghĩa rất thực tiễn và góp phần vào bữa ăn hàng ngày. Người Thái nổi
tiếng về những sản phẩm độc đáo. Những tấm mặt “phà” dệt hoa văn tinh vi, đặc
sắc và những hình trang trí phong phú, đa dạng, sặc sỡ như rất hài hòa như in lên
đó hình ảnh của tự nhiên mà con người đang hướng tới khai phá.
Là cư dân sinh sống lâu đời ở Tây Bắc, người Thái đã cùng các dân tộc
khác sáng tạo ra nền văn hóa vật chất cổ truyền độc đáo:
“Ăn cơm nếp
Uống rượu cần
Mặc “Xửa cỏm”
Ở nhà sàn”
Trong phạm vi bài viết, chỉ tập trung làm rõ một phần nào một nét văn
hóa đặc trưng đó là: ngôi nhà sàn của người Thái ở Tây Bắc.
Nhà ở là một hiện tượng văn hóa vật chất. Nó tồn tại và phát triển cùng
với sự phát triển của xã hội loài người. Như tất cả các hiện tượng khác là một
hiện tượng lịch sử, một phạm trù lịch sử, sự biến đổi của nhà ở thường được quy
định bởi mối quan hệ giữa các yếu tố: môi trường địa lí, trình độ phát triển kinh
tế - xã hội, và tập quán dân tộc. Cư dân xã lạnh phương bản thường làm nhà
hầm trong đất để tránh độ ẩm cao, làm nhà sàn để ở mà tránh được ẩm thấp lại
1
vừa thoáng mát. Cũng là nhà ở, cùng tồn tại trong môi trường đị lí tự nhiên như
nhau, mỗi cư dân lại có một cách làm nhà khác nhau.
Người Nùng Thái làm nhà có kích thước chiều sâu về phía bên trong lớn
hơn chiều rộng ngang. Trong khi đó, người Thái lại làm nhà có kích thước rộng
ngang kéo dài ngôi nhà về phía hai bên đầu hồi, trong khi đó người Tày có thói
quen để bàn thờ ra ngay gian giữa nhà, người Nùng lại không như thế mà để ở
một góc sát vách trên của nhà.
Cuộc sống của một gia đình về cơ bản có hai mặt vật chất và tinh thần.
Ngôi nhà - một công trình kiến trúc, vừa là chức năng, vừa thỏa mãn nhu cầu vật
chất, vừa làm thỏa mãn nhu cầu tinh thần.
Ngôi nhà sàn của người Thái Tây Bắc, được xây dựng bằng sự khéo léo
của đôi bàn tay, từ quan niệm về cái đẹp trong truyền thống thẩm mỹ của dân
tộc, kỹ thuật làm nhà còn biểu hiện trình độ hiểu biết tự nhiên về môi trường
sống. Ngô nhà sàn còn là nơi chứng kiến những cái mới của đời người: sinh đẻ,
cưới xin, ma chay. Đây là nơi chứng kiến mọi sinh hoạt của mọi thành viên
trong gia đình suốt từ sáng sớm đến chiều tối. Chính dưới mái nhà sàn, quanh
bếp lửa hồng, thế hệ ông cha đã truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm lao
động, những quan hệ xã hội, con người cũng như tập quán dân tộc. Ngôi nhà
vừa là nơi học nghề, vừa là xưởng thủ công. Ngôi nhà vừa là nơi bảo tồn, kế
thừa, phát triển truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc.
II. LÀM NHÀ SÀN.
Công việc trước tiên của việc làm nhà sàn là chuẩn bị nguyên liệu. Sinh ra
ở vùng rừng núi Tây Bắc, nhà tự nó “may sắm” toàn những thứ mà thiên thiên
phú cho: gỗ, tre, nứa, lá… Việc chuẩn bị gỗ có thể kéo dài vài ba năm, có khi
dăm bảy năm trước khi dựng nhà. Còn tre, nứa, lá, cùng lắm là chuẩn bị trước
một mùa.
2
Rừng Tây Bắc có có lắm gỗ quý. Từ cây rừng đến cây làm nhà là cả một
quá trình chọn lọc, ở đây vừa thể hiện tập quán kinh nghiệm dân gian tích lũy
lâu đời, nhưng thể hiện trình độ nhận thức của con người về thiên nhiên, về khí
hậu, về giới thực vật. Người Thái thường đi rừng chặt cây làm nhà vào mùa khô.
Mùa khô người nông dân ít việc đồng áng, nhưng mùa khô cũng là mùa mà giới
thực vật vùng nhiệt đới có quá trình sinh trưởng chậm, lượng nước trong cây ít.
Chặt cây vào mùa này tránh được mọt đến mức tối đa.
Khi chọn cây làm nhà, người ta thường chọn cây to thẳng có lõi cứng,
chắc, không mọt như “mạy lỷ”, “mạy kén”, “mạy hái”, “Mạy phát xả”, “mạy thồ
lồ”. Tuy nhiên, ở đây có những kiêng kỵ nhất định. Đó là trường hợp đồng bào
không dùng cây tự chết khô, cây đổ và cây bị sét đánh để làm nhà. Họ quan
niệm rằng, những cây như vậy đã mang số phận không may, không còn hồn,
không còn sự sống. Dùng những cây đó làm nhà chả khác gì rước cái rủi vào
nhà. Thực ra cây tự chết, cây bị đổ thường có bệnh, độ bền kém nên mới tự chết,
tự đổ. Người Thái kiêng dùng một số cây sau đây để làm nhà: “Cọ giang mạy”
(cây sơn) - cây này thường gây ra ngứa, và một số người khi chạm phải thường
bị mẩn ngứa, nổi mề đay. “Có chả ướt” - loại cây lá to, dày có nhựa trắng, nhựa
dình vào người là bị rộp, khó chữa “Cọ mạy khẻ” - cây to, lá nhỏ, dài. Họ quan
niệm lấy cây này về làm nhà sẽ bị sét đánh (chưa có ý kiến nào lý giải thỏa đáng
về việc không dùng “mạy khẻ” làm nhà). Phải chăng nó liên quan đến những
kiêng kỵ thuộc về tín ngưỡng của đồng bào.
Làm nhà sàn tốn gỗ. Nhà sàn năm gian phải có sáu vì cột. Mỗi vì cột có ít
nhất là bốn cột: hai cột quân đỡ mái và hai cột giữa chỉ làm nhiệm vụ đỡ sàn chứ
không nhô lên giữa sàn nhà. Mỗi chiếc cột lại có ít nhất là bốn lỗ đục để lắp hai
xà ngang và hai xà dọc. Ở đỉnh mỗi cột quân lại phải lắp thêm quá giang dài,
nhưng nó không đỡ mái mà chỉ làm nhiệm vụ giữ hai cột quận công ngãng ra và
đỡ đầu dưới của kèo ngay sát đỉnh cột quân. Điều quan trọng nữa là quá giang là
mốc để phân chia các gian ngủ trong nhà… Gỗ còn được dùng để làm “xính
3
dua” (kèo) đỡ cho toàn bộ mái nhà, làm kéo và vui ở hai mái đầu hồi, làm đòn
tay bên chán, quản, làm cầu thang lên xuống nhà, làm cột chán…
Tre nứa ngút ngàn miền Tây cũng được đồng bào sử dụng rộng rãi với
khối lượng lớn để làm đòn tay, rui, mè, lát sàn, thưng phên xung quanh nhà, làm
lan can ở chán, ở quản.
“Nhà gianh tốn lạt” câu tục ngữ này cũng được phản ánh ở nhà sàn Thái.
Các loại lạt, dây chằng, người Thái thường dùng là “toóc may hang” (lạt giang),
“vai” (dây mây), “bún” (soong) và một số vỏ cây như “năng hu”, “năng cháu”.
Tất cả những thứ này đều sẵn có trong thiên nhiên, họ chỉ việc đi lấy về. Bảo
quản khô trên gác bếp, khi dùng đem ngâm nước cho mềm, dẻo, dễ buộc.
Cỏ gianh là thứ nguyên liệu cổ truyền dùng lợp nhà của cư dân miền núi.
Trước đây, cỏ gianh mọc tự nhiên nhiều. Khi cần, đồng bào lên núi cắt gianh,
phơi khô mang về lợp. Dần dần sau này, cỏ gianh ít, mọc thưa và cằn đi nên
người ta đã tìm cách tạo ra cho được những bãi gianh xanh tốt, để lấy gianh lợp
nhà.
Theo kinh nghiệm dân gian, vào những ngày cuối đông, đầu xuân, người
ta phát những bãi cỏ gianh mọc thưa và phơi gianh khô, sau đó đốt cháy toàn bộ.
Sau khi đốt như vậy, cỏ gianh mọc lên sẽ đều và tốt hơn. Người nào phát và đốt
bãi gianh nào, sẽ là chủ bãi gianh đó. Để làm nhà mới, có khi phải chuẩn bị mấy
bãi gianh liền. Những người sửa chữa nhà cũng phải chuẩn bị gianh theo cách
nhân tạo này. Do đó, hàng năm vào mùa xuân ở rừng Tây Bắc thường có nhiều
đám cháy do đốt bãi gianh và đốt nương. Từ những đám cháy này, có thể lan ra
thành những đám cháy rừng rất tai hại.
Tiếp theo “xau hẹ” (cột cái) người ta dựng “xau chảu xửa” (cột chủ nhà) ở
mái trên của nhà. “xau chảu xửa” do chủ nhà cùng với những người đến giúp
làm nhà dựng hộ. “Xau chảu xửa” là nơi trú ngụ linh hồn của chủ nhà - người
đứng đầu gia đình phụ quyền, người bố trong gia đình. Theo tập quán, “xau chảu
xửa” nhất thiết phải dựng sau “xau hẹ”. Ngoài ra, không có nghi thức gì đặc
biệt. “Xau hẹ” (cột cái) đỡ lấy “pai hướn mẹ” (mái cái) - mái dưới. Đối diện với
4
“xau hẹ” là “xau chảu xửa” (cột chủ nhà) đỡ lấy “pai hướn po” (mái đực) - mái
trên. Mối tương quan này phải chăng phản ánh mối quan hệ vợ chồng trong gia
đình, trong xã hội Thái là bền vững và sâu sắc.
Tiếp sau hai cột trên - cột cái (xau hẹ) và cột chủ nhà (xau chảu xửa”,
đồng
bào
dựng
tiếp
cột
thứ
ba
“xau
hoóng”,
“xau
hoóng”
tượng trưng cho tổ tiên, là nơi trú ngụ của tổ tiên - “phí hướn” (ma nhà).
Dựng xong ba cột đó, người ta dựng các cột khác và lắp xà ngang, xà dọc,
làm mái.
Nhà sàn Thái có bốn mái. Hai mái to chạy dọc theo chiều dài của nhà, hai
mái nhỏ che hai chái trà, ở các vùng khác nhau, có sự khác nhau ở hai mái nhỏ,
ở vùng Sơn La, hai mái nhỏ chủ yếu có hình cánh quạt cong; còn ở Lai Châu,
ngoài loại trên còn thêm loai hai mái nhỏ có hình cánh quạt thẳng.
Theo kết quả nghiên cứu điều tra, nhà sàn truyền thống là loại nhà sàn có
hai mái phẳng hình chữ nhật, hai mái nhỏ cong hình cánh quạt, úp che hai phía
đầu hồi. Trông toàn bộ mái nhà từ bên ngoài có hình dáng giống như mai con
rùa hoặc một chiếc thuyền úp. Bên trong mái nhà rất thoáng, cao, vì trong nhà
hoàn toàn không có cột. Một khoảng không gian rộng, lại được bếp lửa sưởi ấm
suốt ngày cho nên trong nhà giữ được không khí ấm áp thơm mùi khói bếp, khác
hẳn với môi trường bên ngoài. Nhà sàn đẹp, một phần quan trọng thể hiện cái
mái.
Tục ngữ Thái có câu:
“Khau cút tẻm lái bua
Xính dua têm lái én
Nhả ca vén tin con…
Nghĩa là: Khau cút hình hoa sen
Kèo chính hình đuôi én
Mái gianh xén cho bằng…
5
Do mái sàn có hình thù hơi đặc biệt (hình mai rùa, hình thuyền úp) nên
khi tìm hiểu chúng tôi thấy có những truyền thuyết liên quan gắn liền với lao
động phát triển của nó.
Trong nhà sàn Thái, người ta lưu ý đến cửa sổ (tủ chang). Nhà sàn nào
cũng có cửa sổ. Số lượng cửa sổ có thể khác nhau do số gian nhà ít nhiều khác
nhau.
Cửa sổ chỉ mở ở chính giữa gian và ở phía trước (phía dưới nhà) không
bao giờ mở cửa sổ ở phía sau (phía trên nhà). Mỗi gian, nếu mở, thì mở một cửa
sổ. Tổng số cửa sổ của nhà thường là số lẻ, để cộng với hai cửa chính luôn luôn
số lẻ, theo tập quán dân tộc. Cửa sổ nhà sản có hai cánh đóng mở. Người Thái
có tập quán làm cửa sổ sát sàn nhà, rộng khoảng 60cm, cao hơn một mét. Từ sàn
nhà lên khoảng 60cm, cao hơn một mét. Từ sàn nhà lên khoảng 60cm còn có
chấn song. Phần trên để trống. Trẻ em mới biết đi đứng bám cửa sổ nhìn ra
ngoài, không sợ ngã.
Như đã trình bày ở trên, nhà sàn Thái là lâu đài gỗ, tre, nứa, lá. Mọi thứ
nguyên liệu làm nhà đều là sản phẩm của địa phương, do thiên nhiên “sắm” cho.
Công cụ đề làm nhà là những dụng cụ quen thuộc, mà chúng ta vẫn gặp ở
các dân tộc, các vùng khác nhau. Đó là những chiếc cưa to, nhỏ các loại, những
chiếc đục các kiểu, các cỡ; những chiếc rìu và những con dao lao động hàng
ngày.
III. Ý NGHĨA CỦA NGÔI NHÀ SÀN CỦA NGƯỜI THÁI.
1. Thẩm mỹ, kiến trúc:
Ở người Thái: chặt, cưa, xẻ, đục, đẽo được áp dụng phổ biến. Đối với cây
ở trên rừng, người ta dùng kỹ thuật cưa hoặc chặt. Với cây có địa thế xung
quanh bằng phẳng, rộng, đủ để hai người đứng kéo cưa thường áp dụng kỹ thuật
cưa. Với cây mộc ở những nơi có địa thế mấp mô chật hẹp, đồng bào thường
dùng chiếc rìu để chặt. Cây rừng tự nhiên thường dài, ngắn khác nhau, nhưng
6
khuôn khổ nhà lại đòi hỏi độ dài của từng loại cây theo quy cách. Kỹ thuật cưa
được áp dụng để cắt cây làm cột, cây làm xà và các loại cây gỗ đúng vào những
việc khác nhau. So với chặt, cưa đạt độc chính xác cao hơn, chuẩn hơn. Cây
rừng càng to tuổi thọ càng lớn, độ bền càng cao, nhưng khi sử dụng để làm nhà
lại phải xẻ ra theo cỡ vừa phải. Đối với cây to quá cỡ đồng bào dùng kỹ thuật xẻ
để tách chúng thành những tấm gỗ có hình dạng và kích thước theo đúng ý định
sử dụng của chủ. Xà ngang, xà dọc, quá giang thường được xẻ từ những cây gỗ
to. Một cây có thể xẻ được nhiều cây xà. Kỹ thuật đục được sử dụng đục lỗ
xuyên cột nhà để lắp xà ngang, xà dọc. Đục lỗ tòn ở quá giang và xà để lắp đỉnh
cột quận. Khi làm cửa sổ, việc tập trung, lắp các chấn song và một số hình chạm
trổ khác cũng đ kỹ thuật đục kết hợp đẽo.
Nghệ thuật dân gian thường quan niệm đối xứng là tượng trưng cho sự
cân bằng, sự ổn định, sự hài hòa trong cuộc sống, sự chấp nhận các quan hệ con
người, thiên nhiên, xã hội. Còn không đối xứng tượng trưng cho sự khập khiễng,
là quá trình chuẩn bị cho nhẩy vọt, đột biến.
Một trong những đặc điểm của nghệ thuật người Thái là thẩm mĩ số lẻ.
Trong kiến trúc nhà sản, nếu quan sát kỹ, chúng ta thấy có hàng loạt
những số lẻ mà người Thái đã cố tình tạo ra. Thang đi lại hàng ngày lên xuống
nhà sàn thường có số bậc lẻ: năm bậc, bảy bậc, chín bậc. Cửa (cả cửa sổ và cửa
đi lại) bao giờ cũng là số lẻ. Trên mái nhà sàn, số đòn tay thường rất nhiều,
nhưng đối với người Thái, dù nhiều đến đâu họ cũng phải lưu ý để cho đòn tay ở
hai mái không bằng nhau. Mái trên nhiều đòn tay hơn và mái dưới ít hơn mái
trên một đòn tay Mái trên có số đòn tay là số lẻ và mái dưới có số đòn tay là số
chẵn. Số gian của nhà sàn ta cũng thấy luôn luôn là số lẻ: Ba gian, năm gian, bảy
gian…
Theo quan niệm dân gian, người Thái cho rằng, số lẻ tượng trưng cho sự
vận độn, sự phát triển đi lên: còn số chẵn tượng trưng cho sự yên tĩnh, không
vận động, không phát triển.
7
Quan niệm đó chi phối sự sáng tạo các sản phẩm văn hóa dân tộc. Những
sản phẩm để cho người sử dụng thường thiết kế với số lẻ: còn cho thế giới “hư
vô” thường được thiết kế với số chẵn, ở đây ta có thể nêu trở lại chiếc thang lên
xuống nhà sản làm thí dụ. Thang để cho người hàng ngày đi có số bậc lẻ. Còn
khi trong nhà có người chết, một chiếc thang có bậc chẵn được người ta làm ra
chỉ để đưa ma. Sau khi đưa ma xong, chiếc thang đó cũng hết tác dụng. Người ta
phá bỏ nó đi. Như vậy, người chỉ đi thang bậc lẻ, và “ma” chỉ đi thang bậc chẵn.
Một cặp số lẻ và số chẵn còn là hình ảnh của quan niệm phồn thực. Mái trên của
nhà sàn có số đòn tay nhiều hơn mái dưới và là số lẻ, được mệnh danh là mái
đực (pái hướn po); còn mái dưới, có số đòn tay ít hơn và là số chẵn, được mệnh
danh là mái cái.
Tư tưởng phồn thực còn được thể hiện trong kiến trước lắp bộ kèo chính
(xính dua). Trong hai cây kéo, cây có lỗ mộng dục xuyên qua được đặt ở mái
dưới và gọi là cây kéo cái (xinh dua me); còn cây kéo được vát nhọn để lắp vào
mộng được đặt ở mái trên và gọi là cây kéo đực (xính dua po). Sự sắp xếp cố ý
trên được giải thích rằng: sự vật phát triển được bắt nguồn từ quan hệ đực với
cái, ở trong nhà cũng cần tạo ra cho có đực, có cái, với ý thức cầu mong cho
cuộc sống được trọn vẹn, yên ấm đầy đủ, gia đình sinh sôi phát triển, con đàn
cháu lũ.
Nhà sàn có hai cửa đi lại. Hai cửa được mở ở chính giữa hai đầu hồi. Hai
cửa đi lại này có hai tên gọi khác nhau: cửa “chán” và cửa “quản”. Cửa “chán”
là cửa mở từ trong nhà ra phía “chán”. Cửa “quản” là cửa mở ra phía “quản”.
Thường thường cửa “chán” nhìn về phía nào, đó là hướng của ngôi nhà.
Nhà sàn - nơi không chỉ trang bị cho mỗi thành viên của cộng đồng Thái
những vốn sống xã hội đầu tiên mà còn là địa điểm mà thành viên đó tiếp xúc
lần đầu tiên với những yếu tố của thiên nhiên.
Dù vô thức hay hữu thức thì cái nhà của con người với sự sống trên đó là
những hoạt động văn hóa mang đặc trưng tộc người rõ nét với cái nhìn đó,
những tiến trình hoạt động của con người trên nhà sàn Thái sẽ đưa chúng ta đến
8
nhiều khía cạnh hoạt động khác của nếp sống văn hóa truyền thống trong bối
cảnh chung của nền văn hóa Thái đặc sắc. Đó vừa là một xưởng thủ công, một
môi trường kiến thức lao động và giáo dục lao động.
Ngôi nhà sàn của người Thái là một công trình kiến trúc, một công trình
văn hóa là sản phẩm của văn hóa cộng đồng. Ngôi nhà sàn như một cây cổ thụ
cách điệu thiên nhiên và con người đan xen vào nhau. Con người mang yếu tố
của tự nhiên, tự nhiên ghi đậm những dấu ấn hoạt động con người. Toàn bộ ngôi
nhà về bố cục ngoại thất có thể xem làm 3 phần “khâu cút” - mái - hàng chân cột
từ xa nhìn vào ngôi nhà sàn Thái hai chùm “cút” trắng vươn lên ở hai đầu làm
co công trình thêm sinh động. Cửa sổ nhà sàn Thái là một công trình kỹ thuật
nhỏ có thể xem đó như là cầu nối giữa nội thất và khung cảnh thiên nhiên bên
ngoài, đó không chỉ là hai cánh ván đóng vào mở ra mà được trang trí rất đa
dạng trung tâm trang trí là các chấn song làm bằng gỗ tùy theo ý thích thì có
nhiều loại trang trí khác nhau thường phổ biến là mảnh trăng lưỡi liềm, hình
hoa, hình lá kép lá đơn, hình quả trám… Những hoa văn cửa sổ như vậy làm cho
ngôi nhà vừa thực vừa ảo, vừa tăng thêm giá trị thẩm mỹ.
9
IV. KẾT LUẬN
Nhà sàn là một công trình kiến trúc, một tập hợp có hệ thống nguyên vật
liệu xây dựng. Nhà sàn là một đơn vị cân bằng sinh thái giữa tự nhiện và con
người xung quanh, là một không gian vừa đóng vừa mở… là nơi mà nhiều sinh
hoạt văn hóa của mỗi dân tộc gắn bó mật thiết với nó. Từ công trình kiến trúc
cho đến nếp sống liên quan đến ngôi nhà sàn của đồng bào Thái, những vấn đề
trên chứa đựng nhiều tri thức tộc người, những vấn đề trong quá trình khai phá
tự nhiên, đấu tranh xã hội để tạo nên cảnh quan, nếp sống văn hóa … đều ghi
đậm dấu ấn tộc người mang những đặc trưng riêng biệt…
Quá trình tạo dựng và tồn tại ngôi nhà sàn là một quá trình tái hiện, tiếp
nối và sáng tạo những giá trị văn hóa trong nếp sống của đồng bào Thái.
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU.................................................................................................1
II. LÀM NHÀ SÀN...................................................................................3
III. Ý NGHĨA CỦA NGÔI NHÀ SÀN CỦA NGƯỜI THÁI............8
1. Thẩm mỹ, kiến trúc:..........................................................................8
IV. KẾT LUẬN........................................................................................12
10
- Xem thêm -