CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
MỤC LỤC
I. Tổng quan về thị trường sơ cấp ở Việt Nam .................... 4
1. Khái niệm ............................................................................ 4
2. Chức năng............................................................................ 4
3. Vai trò .................................................................................. 6
4. Đặc điểm.............................................................................. 6
5. Các chủ thể phát hành chứng khoán .................................... 6
6. Các phương thức phát hành chứng khoán ............................ 7
II. ................. Thực trạng của thị trường sơ cấp ở Việt Nam
1. Giai đoạn 2000 – 2002 : giai đoạn ì ạch của thị trường sơ
cấp ........................................................................................... 8
2. Giai đoạn 2002 – 2005 : trách nhiệm tạo hàng của UBCK
Nhà nước và CTCK cho TTCK ............................................... 9
3. Giai đoạn 2005 đến nay : giai đoạn bắt đầu đi vào “quỹ
đạo” ...................................................................................... 10
III. Giải pháp ....................................................................... 15
1
8
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
2
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
LỜI NÓI ĐẦU
Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách rất
tự phát và sơ khai, xuất phát từ một nhu cầu đơn lẻ từ buổi ban
đầu. Sự phát triển thị trường ngày càng mạnh về cả lượng và
chất với số thành viên tham gia đông đảo và nhiều nội dung
khác, vì vậy theo tính chất tự nhiên nó lại được phân ra thành
nhiều thị trường khác nhau như: thị trường giao dịch hàng hoá,
thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán… với đặc tính
riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người
tham gia trong đó. Tuy nhiên, nói đến thị trường chứng khoán,
người ta thường nghĩ ngay đến thị trường thứ cấp - sở giao
dịch chứng khoán mà rất ít khi đả động đến thị trường sơ cấp.
Thế nhưng trên thực tế, thị trường sơ cấp lại là một bộ phận
không thể tách rời của thị trường chứng khoán. Chính vì vậy,
để phát triển thị trường chứng khoán, công việc đầu tiên và vô
cùng quan trọng là xây dựng và phát triển thị trường sơ cấp.
3
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
Trong phạm vi đề tài của mình chúng tôi xin đóng góp
một vài ý kiến về thực trạng và giải pháp cho thị trường sơ cấp
ở Việt Nam.
I. Tổng quan về thị trường sơ cấp ở Việt Nam:
1. Khái niệm:
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán lần đầu các
chứng khoán mới phát hành. Thị trường sơ cấp còn có tên là
thị trường cấp một hay thị trường phát hành.
Điểm khác biệt dễ nhận thấy nhất giữa thị trường sơ cấp
và thị trường thứ cấp đó là: ở thị trường sơ cấp tổ chức phát
hành thu được tiền từ đợt phát hành còn thị trường thứ cấp thì
không.
2. Chức năng:
4
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
Đối với nền kinh tế quốc dân:
Thứ nhất, thị trường sơ cấp đóng vai trò huy động vốn
cho nền kinh tế bằng việc tạo ra nhiều cơ hội đầu tư cho
những người có tiền nhàn rỗi. Không những thế, thị trường sơ
cấp còn là một kênh phân bổ vôn vô cùng hiệu quả. Do đó thị
truờng sơ cấp không chỉ đóng vai trò tập hợp các nguồn vốn
mà nó còn là công cụ mà tất cả các nền kinh tế thị trường đều
sử dụng nhằm tăng cường hiệu quả của nền kinh tế.
Đối với Việt Nam, bằng việc huy động và phân bổ vốn có
hiệu quả, thị trường sơ cấp có một ý nghĩa rất lớn lao trong
công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Nếu
chúng ta có thể xây dựng được một thị trường chứng khoán sơ
cấp có hiệu quả trong việc huy động vốn trong nước, nền kinh
tế Việt Nam sẽ có sự độc lập cao hơn về vốn và sẽ ít chịu ảnh
hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính quốc tế
trong tương lai.
Ngoài ra, thông qua quy chế về công bố thông tin trên thị
trường các nhà đầu tư Việt Nam có cơ hội đánh giá được công
ty nào tốt để đầu tư. Việc này giúp cho các nguồn lực xã hội
được phân bổ và sử dụng có hiệu quả, tạo ra nhiều giá trị cho
đất nước.
Đối với Chính Phủ:
5
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
Do thu hút được nguồn vốn khổng lồ của nền kinh tế và
nguồn vốn từ nước ngoài qua việc phát hành trái phiếu, thị
trường sơ cấp giúp Chính Phủ giải quyết được các vấn đề
thiếu hụt ngân sách, có thêm vốn để thực hiện các dự án xây
dựng cơ sở hạ tầng mà không phải phát hành thêm tiền tạo ra
sức ép về lạm phát. Chính vì lẽ đó ngày nay ở hầu hết các
quốc gia việc Chính Phủ phát hành trái phiếu qua thi trường sơ
cấp để vay tiền của dân là hoạt động diễn ra rất thường xuyên,
theo một kế hoạch xác định nằm trong kế hoạch tổng thể của
chiến lược huy động vốn của quốc gia.
Việc phát hành trái phiếu của Chính Phủ còn là một biện
pháp ổn định kinh tế. Do lãi suất của trái phiếu Chính Phủ ảnh
hưởng lớn đến khả năng tiết kiệm, đầu tư vào tổng cung tiền tệ
của nền kinh tế.
Đối với các doanh nghiệp:
Đối tượng quan trọng nhất của thị trường sơ cấp là các
doanh nghiệp. Thị trường này mang lại sự chủ động và linh
hoạt rõ ràng trong hoạt động. Đồng thời tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp tiếp cận với một kênh huy động vốn linh hoạt và
hiệu quả hơn. Với những nguồn vốn dài hạn và ổn định khi
huy động vốn trên thị trường chứng khoán sơ cấp giúp các
6
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
doanh nghiệp không phải quá lo lắng về thời gian hoàn trả như
khi đi vay vốn ngân hàng.
Trong trường hợp của Việt Nam đang chuyển sang cơ
chế thị trường, nhiều doanh nghiệp và các nhà quản lý doanh
nghiệp vẫn chưa tiếp cận với phương thức quản lý mới và hiệu
quả. Sự ra đời của thị trường sơ cấp nói riêng và thị trường
chứng khoán nói chung với các định chế về tỏ chức và pháp
luật còn giúp cho các doanh nghiệp làm quen với các phương
thức quản lý hiện đại và hoạt động có hiệu quả hơn.
3. Vai trò của thị trường sơ cấp:
- Chứng khoán hoá nguồn vốn cần huy động, vốn của công
ty được huy động qua việc phát hành chứng khoán.
- Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính, trực tiếp đưa
các khoản tiền nhàn rỗi tạm thời trong dân chúng vào đầu
tư, chuyển tiền sang dạng vốn dài hạn.
4.Đặc điểm:
- Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các chứng khoán
đem lại vốn cho người phát hành, là thị trường tạo vốn cho
đơn vị phát hành đồng thời cũng tạo ra hàng hoá cho thị
7
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
trường giao dịch. Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế thị trường
sơ cấp làm tăng vốn đầu tư.
- Những người bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp
được xác định thường là: kho bạc, ngân hàng Nhà nước, công
ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành…
- Giá chứng khoán trên thị trường sơ cấp do tổ chức phát
hành quy định và thường được in ngay trên chứng khoán.
5.Các chủ thể phát hành chứng khoán:
- Chính phủ: Chính quyền từ Trung ương đến địa phương
là một trong những chủ thể phát hành nhiều nhất của thị
trường.
- Các doanh nghiệp:
Tại Việt Nam, chỉ có các công ty cổ phần được thành lập
mới hoặc do cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước là được
phép phát hành cả cổ phiếu lẫn trái phiếu. Doanh nghiệp Nhà
nước và các công ty trách nhiệm hữu hạn được phép huy động
vốn bằng việc phát hành trái phiếu. Các doanh nghiệp tư nhân
và hợp tác xã không được phép phát hành bất kỳ loại chứng
khoán nào trên thị trường.
- Quỹ đấu tư:
8
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
Quỹ đầu tư cũng là một chủ thể đóng vai trò rất lớn trên
thị trường chứng khoán sơ cấp. Để giúp các nhà đầu tư nhỏ, cá
thể phân tán rủi ro và giảm chi phí đầu tư, các công ty quản lý
quỹ liên tục thành lập các quỹ đầu tư mới và phát hành các
chứng chỉ quỹ ra công chúng. Hiện tại có rất nhiều hình thức
thành lập quỹ đầu tư chứng khoán. Tuỳ theo từng mô hình mà
cách thức phát hành chứng chỉ đầu tư của các quỹ này cũng
khác nhau.
6.Các phương thức phát hành chứng khoán:
- Phát hành riêng lẻ:
Là việc phát hành trong đó chứng khoán được bán trong
phạm vi một số người nhất định. Chứng khoán phát hành theo
hình thức này không phải là đối tượng được niêm yết và giao
dịch trên thị trường chứng khoán sơ cấp.
- Phát hành ra công chúng:
Là việc bán chứng khoán rộng rãi ra cho một số lượng
lớn công chúng đầu tư, trong đó một tỷ lệ nhất định chứng
khoán phải được phân phối cho các nhà đầu tư nhỏ. Tổng giá
trị chứng khoán phát hành cũng phải đạt mức nhất định.
Việc phát hành ra công chúng được phân biệt giữa
phát hành cổ phiếu và phát hành trái phiếu:
9
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
* Phát hành cổ phiếu ra công chúng được thực hiện
thneo một trong hai phương thức:
+ Phát hành lần đầu ra công chúng ( IPO) : là
việc phát hành trong đó cổ phiếu của công ty lần đầu tiên được
bán rộng rãi cho công chúng đầu tư. Nếu cổ phần được bán lần
đầu cho công chúng nhằm tăng vốn thì đó là IPO sơ cấp, còn
khi cổ phần được bán lần đầu từ số cổ phần hiện hữu thì đó là
IPO thứ cấp.
+ Chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp) : là đợt
phát hành cổ phiếu bổ sung của công ty đại chúng cho rộng rãi
công chúng đầu tư.
* Phát hành trái phiếu ra công chúng được thực hiện
bằng một phương thức duy nhất đó là chào bán sơ cấp
II. Thực trạng của thị trường sơ cấp ở Việt Nam:
1. Giai đoạn 2000-2002 : giai đoạn ỳ ạch của thị trường sơ
cấp
Thực tế cho thấy trong giai đoạn này, trong khi hoạt động
của thị trường thứ cấp diễn ra liên tục và có nhiều giai đoạn
khá sôi động thì thị trường sơ cấp lại vận hành khá chậm chạp
và gần như rơi vào tình trạng “đóng băng” kéo dài.
10
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
- Đối với thị trường cổ phiếu, kể từ khi chính thức ra đời
cho đến hết năm 2001 đã có tới 9 công ty niêm yết trên trung
tâm giao dịch chứng khoán TP HCM nhưng tuyệt nhiên không
có một công ty nào trong số này đã từng một lần phát hành cổ
phiếu để huy động vốn. Thị trường sơ cấp chỉ được khởi động
vào đầu năm 2002 khi mà HAPACO phát hành một đợt cổ
phiếu với số lượng một triệu cổ phiếu mới. Cho đến năm 2002
thì đã có tới 17 công ty niêm yết nhưng ngoài HAPACO mới
chỉ có REE là công ty thứ 2 được phép phát hành một đợt cổ
phiếu bổ sung với số lượng 7,5 triệu cổ phiếu.
- Đối với thị trường trái phiếu sơ cấp, mặc dù mới có hai
loại trái phiếu niêm yết trên TTGDCK TPHCM (trái phiếu
Chính Phủ và trái phiếu Ngân hàng đầu tư và phát triển)
nhưng đã có khá nhiều lần hai tổ chức này phát hành trái phiếu
trên TTCK để huy động vốn. Nhà nước đã huy động được trên
3000 tỷ đồng thông qua các đợt tổ chức đấu thầu trái phiếu
Chính Phủ.
Tuy nhiên nhìn chung, trái phiếu Chính Phủ vẫn chưa đến
được công chúng đầu tư, bởi lẽ một mặt các tổ chức trúng thầu
chỉ bán lại nhỏ giọt trên thị trường thứ cấp, mặt khác công
chúng đầu tư cũng không mặn mà với mặt hàng này vì lãi suất
thấp. Ngân hàng Đầu tư phát triển cũng đã tổ chức thành công
một số đợt phát hành trái phiếu trên TTCK và đã huy động
11
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
trên 150 tỷ đồng, nhưng mặt hàng này chưa thực sự hấp dẫn
công chúng đầu tư.
Có thể nói rằng thị trường sơ cấp trong giai đoạn này cả về
cổ phiếu và trái phiếu hoạt động còn khá mờ nhạt, chưa phát
huy được chức năng và vai trò vốn có của mình chưa thực sự
trở thành kênh huy động vốn dài hạn quan trọng trong nền
kinh tế.
2. Giai đoạn 2002 – 2005 : trách nhiệm tạo hàng của UBCK
Nhà nước và công ty CK cho TTCK.
Trước hết, phải nói rằng, chức năng “tạo hàng” đúng là của
các CTCK, còn UBCK Nhà nước (SSC) có làm việc này thì
tính chất và phạm vi khác với các CTCK, mà chủ yếu là thông
qua việc đề xuất chính sách khuyến khích niêm yết và hoạt
động tuyên truyền, thuyết phục. Chức năng “tạo hàng” như
vậy không phải do SSC tự nhận, mà đó là một nội dung trong
nhiệm vụ xây dựng và tổ chức thị trường được quy định trong
các văn bản pháp quy về tổ chức và hoạt động của SSC kể từ
ngày đầu thành lập. Việt Nam là một trong số rất ít nước và
vùng lãnh thổ (như Đài Loan, Ba Lan) đã thành lập ủy ban
chứng khoán trước khi ra đời TTCK. Do vậy, trước khi có thể
thực hiện chức năng quản lý và giám sát thị trường, nhiệm vụ
12
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
hàng đầu của SSC là xây dựng và tổ chức thị trường, trong đó,
có nhiệm vụ tạo hàng cho thị trường.
Thực tế cho thấy, do những bất cập trong hệ thống luật
pháp và cải cách thể chế của nước ta mà nhiệm vụ tạo hàng
của SSC chỉ đạt được những kết quả rất hạn chế. Mặc dù tiêu
chuẩn niêm yết ở TTCK Việt Nam thuộc vào loại đơn giản và
dễ dãi nhất thế giới, Nhà nước lại dành ưu đãi thuế đáng kể
cho các công ty niêm yết, SSC và các CTCK rất tích cực tiếp
xúc, tuyên truyền cho các bộ, ngành, địa phương và doanh
nghiệp, nhưng sau hơn 4 năm hoạt động, TTCK Việt Nam chỉ
có 26 công ty niêm yết. Số lượng các công ty niêm yết còn ít
ỏi, chứng tỏ đại đa số doanh nghiệp chưa thấy lợi ích của việc
niêm yết lớn hơn lợi ích của việc không phải công khai, minh
bạch. Thậm chí, có công ty niêm yết cảm thấy mình bị “ra ánh
sáng” quá gắt, trong khi môi trường xung quanh thì tù mù,
nhộn nhạo. Thực vậy, hầu hết các doanh nghiệp phát hành
chứng khoán ra công chúng không phải thực hiện công khai
thông tin tài chính có kiểm toán và tuân thủ quy trình phát
hành, nhằm bảo vệ lợi ích người đầu tư. Do đó, phần lớn các
tổ chức phát hành cũng chẳng cần đến nghiệp vụ bảo lãnh phát
hành của CTCK và việc phát hành ra công chúng của các
doanh nghiệp cổ phần hoá, của các tổ chức tín dụng cũng
không được gắn với việc niêm yết trên TTCK. Khi đã trở
13
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
thành công ty đại chúng, doanh nghiệp cũng chẳng phải công
bố thông tin thường xuyên và chịu sự giám sát của SSC như ở
các nước khác. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ tạo hàng của SSC
chỉ có thể là tuyên truyền, vận động các bộ, ngành và doanh
nghiệp, chứ không thể áp đặt mệnh lệnh hành chính; còn chức
năng tạo hàng vốn có của các CTCK cũng gặp rất nhiều khó
khăn.
Nhằm tiến tới từng bước quản lý việc phát hành chứng
khoán ra công chúng, Nghị định 144/2003 đã quy định tổ chức
phát hành chứng khoán ra công chúng phải đáp ứng các điều
kiện quy định và phải đăng ký với SSC. Phát hành chứng
khoán ra công chúng là việc chào bán một đợt chứng khoán có
thể chuyển nhượng được thông qua tổ chức trung gian cho ít
nhất 50 nhà đầu tư ngoài tổ chức phát hành. Tuy nhiên, quy
định trên chỉ có hiệu lực đối với các doanh nghiệp chịu sự điều
chỉnh của Luật Doanh nghiệp, còn đối tượng lớn nhất là các
doanh nghiệp cổ phần hoá và các tổ chức tín dụng thì lại nằm
ngoài phạm vi điều chỉnh của Nghị định 144. Hơn nữa, các tổ
chức phát hành thuộc diện điều chỉnh của Nghị định 144 cũng
dễ dàng lách luật để thoát khỏi sự quản lý của nhà nước, nếu
họ phát hành chứng khoán cho công chúng mà không sử dụng
tổ chức trung gian. Đó là lý do giải thích tại sao cho đến nay,
chưa có tổ chức phát hành nào thực hiện đăng ký với SSC,
14
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
ngoài các công ty đã niêm yết trên TTCK. Tuy nhiên, do
“phẩm cấp” pháp lý của Nghị định thấp hơn nhiều văn bản
pháp lý khác hiện hành, đồng thời do nhận thức của các bộ,
ngành về sự cần thiết quản lý hoạt động phát hành chứng
khoán ra công chúng còn có nhiều điểm chưa thống nhất, nên
những hạn chế nêu trên là điều không tránh khỏi.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần
hoá, Nghị định 187/2004 vừa được ban hành đã có một bước
tiến đáng kể so với Nghị định 64/2002 trước đây trong việc
yêu cầu doanh nghiệp công khai một số thông tin chủ yếu cho
các nhà đầu tư trước khi thực hiện việc bán cổ phần. Tuy
nhiên, doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá qua phát hành cổ
phiếu cho công chúng không bắt buộc phải kiểm toán báo cáo
tài chính và chuẩn bị bản cáo bạch đầy đủ để công khai cho
công chúng, đồng thời phương thức bán cổ phần ra ngoài
doanh nghiệp được quy định chung cho mọi đối tượng là
phương thức đấu giá. Trong những điều kiện đó, các doanh
nghiệp có thể cần đến nghiệp vụ tư vấn và định giá của các
CTCK, nhưng sẽ chẳng có nhiều doanh nghiệp cần đến nghiệp
vụ bảo lãnh phát hành và cũng chẳng có gì đảm bảo là việc cổ
phần hoá sẽ được gắn với niêm yết, vì sau cổ phần hoá, các
công ty cổ phần đại chúng không có nghĩa vụ công bố thông
tin thường xuyên nếu không niêm yết.
15
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
Như vậy, có thể nói những “lỗ hổng” trong luật pháp điều
chỉnh hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng vẫn
còn khá lớn và vượt quá tầm của SSC, mặc dù với trách nhiệm
tham mưu cho Chính phủ (trước đây) và cho Bộ Tài chính
(hiện nay), SSC đã nhiều lần nêu kiến nghị và đề xuất trong
các kế hoạch chiến lược và đề án tạo hàng. Trong phạm vi
thẩm quyền của mình, SSC đã rà soát và chỉnh sửa các quy
định, thủ tục liên quan đến việc xử lý các hồ sơ niêm yết theo
hướng đơn giản hoá.
Tuy nhiên, những cố gắng nêu trên của SSC không thay thế
được các giải pháp về cơ chế, chính sách để có thể thúc đẩy
hoạt động tạo hàng và bảo lãnh phát hành của CTCK như
mong muốn. Còn nếu tính đến chuyện hạ thấp hơn nữa tiêu
chuẩn niêm yết thì sẽ khó mà đảm bảo được mục tiêu “duy trì
thị trường an toàn và phát triển ổn định”. Hơn nữa, đó sẽ là
việc làm đi ngược lại yêu cầu của các cam kết hội nhập quốc
tế và liên kết khu vực mà chúng ta đang theo đuổi.
Qua những phân tích trên đây, có thể thấy, những yếu tố cơ
bản đang cản trở nỗ lực tạo hàng của các CTCK cũng như của
SSC là thuộc về môi trường thể chế và pháp lý còn nhiều bất
cập hiện nay, đặc biệt là việc thả nổi các hoạt động và các tổ
chức phát hành chứng khoán ra công chúng. Điều đáng lo ngại
hơn nữa là việc thiếu sự quản lý nhà nước thống nhất đối với
16
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
hoạt động phát hành chứng khoán đang tạo thuận lợi cho các
hiện tượng thông tin sai lệch, xung đột lợi ích, thậm chí là lừa
đảo trong hoạt động phát hành.
3. Giai đoạn 2005 đến nay : giai đoạn bắt đầu đi vào “quỹ
đạo”
Quyền lợi của các cổ đông nhỏ dưới “làn sóng” phát hành
cổ phiếu ưu đãi cho cán bộ cốt cán:
Thông thường phát hành cổ phiếu ưu đãi cho cán bộ điều
hành được thực hiện theo một trong các phương thức sau:
+ Cấp quyền mua cổ phiếu: Công ty cho các cán bộ điều
hành và nhân viên chủ chốt quyền được mua một số lượng CP
nhất định theo một giá nhất định. Thông thường đó là giá thị
trường tại ngày cấp (ví dụ ngày 1.3.2007). Các cán bộ chỉ được
thực hiện quyền này (nghĩa là mua CP) sau một thời gian nhất
định (ví dụ sau ngày 28.2.2009) và trong một khoảng thời gian
nhất định (ví dụ trước ngày 28.2.2010). Họ sẽ chỉ phải trả theo
giá tại ngày cấp (trong ví dụ này là giá tại ngày 1.3.2007).
Nếu giá thị trường cuả cổ phiếu tại ngày họ thực hiện
quyền mua cao hơn giá tại ngày cấp thì họ sẽ thực hiện quyền
mua cổ phiếu và được hưởng một khoản lợi nhuận từ việc mua
thấp hơn giá thị trường.
17
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
Nếu giá thị trường thấp hơn giá tại ngày cấp, thì người
ta sẽ bỏ và không thực hiện quyền mua.
+ CP ưu đãi: Công ty cho phép cán bộ mua CP với giá
ưu đãi - thấp hơn một tỷ lệ phần trăm nhất định so với giá thị
trường. Các nước có TTCK phát triển đều quy định tỷ lệ giảm
giá tối đa (ví dụ 30% so với giá thị trường). Thông thường thời
gian mua được xác định trước, số lượng CP hoặc giá trị CP cũng
được xác định trước.
+ Cấp CP: Công ty sẽ cấp một số lượng CP nhất định
không mất tiền cho các cán bộ chủ chốt. Thực ra đây là một hình
thức thưởng hoặc trả lương bằng CP. Ví dụ - cấp cho mỗi trưởng
phòng 1.000 CP. Nhưng người thụ hưởng chỉ được nhận hoặc có
quyền sở hữu sau một thời gian nhất định. Ví dụ ngày cấp CP là
ngày 1.3.2007. Nhưng số CP này chỉ được chuyển cho người thụ
hưởng vào ngày 1.3.2009 và cũng chỉ từ ngày này người thụ
hưởng mới có quyền bán và/hoặc được chia cổ tức. Tương tự, đi
kèm theo việc cấp CP là một số điều kiện nhất định.
Có thể có một số các biến thể khác dựa trên 3 mô hình nêu
trên. Hình thức phát hành CP ưu đãi ở VN là mô hình thứ 2. Tất
cả các mô hình này đều nhằm mục đích khuyến khích các cán bộ
nhân viên trong công ty cố gắng hơn, gắn bó và đóng góp vào sự
18
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
phát triển của công ty; đồng thời làm tăng giá trị thu nhập của
chính họ.
Như vậy cổ phiếu ưu đãi mang lại thu nhập do phần chênh
lệch giữa giá cổ phiếu thị trường và giá mua thực tế. Nhưng
khoản chi phí phát hành cổ phiếu ưu đãi cho cán bộ cốt cán
không được đưa vào chi phí kinh doanh mà nó là chi phí ẩn. Do
đó sẽ gây thiệt thòi về quyền lợi cho cổ đông nhỏ không nằm
trong ban điều hành.
“ Làn sóng ” mua lại quyền mua cổ phiếu của một số cán bộ
nhân viên của các công ty chưa có quyết định cổ phần hoá:
“ Con chưa sinh đã cho đi ở đợ ” – đây là một thuật ngữ
dùng cho hiện tượng một số công ty chưa có quyết định cổ phần
hoá mà đã có rất nhiều nhf đầu tư đã mua lại quyền mua cổ
phiếu của một số cán bộ nhân viên trong công ty. Bệnh viện và
các ngân hàng của Nhà nước đang nằm trong tầm ngắm của nhà
đầu tư như: ngân hàng Ngoại thương VCB nằm trong danh sách
đơn vị Nhà nước phải cổ phần hoá nhưng vẫn chưa biết thời
gian chính thức cổ phần hoá. Tuy nhiên trên thị trường đã có
mức giá chào bán quyền mua cổ phiếu của cán bộ nhân viên
VCB với giá 60 triệu đồng/năm thâm niên công tác hay một
công ty về du lịch khách sạn Vũng Tàu vừa có dự định xây dựng
một khách sạn 4 sao tại Côn Đảo, ngay lập tức trên thị trường đã
19
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688
hình thành nên chợ mua bán “ thâm niên công tác ” của cán bộ
nhân viên với giá 20 triệu đồng/năm công tác.
* Một câu hỏi đặt ra la tại sao các nhà đầu tư lại “khoái”
mua quyền mua cổ phiếu?!
Thực tế cho thấy đối với những đơn vị của Nhà nước làm
ăn tốt, có tiềm năng đợi lúc phát hành ra công chúng thì khó tới
tay họ mà sẽ lọt vào những đại gia nên không mua quyền sẽ thua
và sau khi mua có thể bán quyền này lại cho người khác kiếm
lời.
Thêm đó, theo Nghị định về chuyển doanh nghiệp 100%
vốn Nhà nước thành công ty cổ phần: cán bộ công nhân viên sẽ
được mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm làm việc, vì vậy cán
bộ công nhân viên trong công ty sẽ được ưu tiên quyền mua cổ
phần và chắc chắn sẽ có cổ phần trong tay, không phải đấu giá
mệt mỏi mà giá cổ phần của cán bộ công nhân viên chỉ cao hơn
mệnh giá một chút. Còn nếu áp dụng theo quy định của Nhà
nước thì cũng chỉ trả bằng 60% giá đấu bình quân.
Ngoài ra, người mua cổ phiếu ưu đãi còn được hưởng
nhiều quyền lợi như: chia tách cổ phiếu, thưởng, chia cổ tức…
Trên đây là lập luận của các nhà đầu tư, còn ý kiến của
các nhà chuyên môn thì sao?! Các nhà chuyên môn cho rằng nhà
đầu tư mua quyền là mạo hiểm bởi hai lý do: dựa vào điều gì để
20
- Xem thêm -