ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
********
DƢƠNG MINH PHƢỢNG
XƢNG HÔ TRONG TÁC PHẨM BÃO BIỂN
CỦA CHU VĂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
THÁI NGUYÊN – 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
a
http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
********
DƢƠNG MINH PHƢỢNG
XƢNG HÔ TRONG TÁC PHẨM BÃO BIỂN
CỦA CHU VĂN
CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ NGÀNH: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS: PHẠM NGỌC THƢỞNG
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
b
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thái Nguyên – 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
c
http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CẢM ƠN
Tôi đặc biệt gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc tới PGS.TS. Tạ Văn
Thông, ngƣời đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành luận văn
này.
Xin cảm ơn các thầy cô khoa Sau đại học, khoa Ngữ văn, đặc biệt là các
thầy cô trong tổ Ngôn ngữ của trƣờng Đại học Sƣ Phạm Thái Nguyên đã giúp
đỡ, đóng góp ý kiến quý báu cho tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện
luận văn.
Tôi xin cảm ơn các cán bộ, giáo viên, các bạn đồng nghiệp trong Khoa
Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên, các thành viên trong lớp Cao học Ngôn
ngữ k17 đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập và hoàn thành
luận văn.
Và cuối cùng, tôi gửi lời biết ơn chân thành đến mẹ đẻ tôi, chồng tôi,
những ngƣời thân đã động viên, chia sẻ, kề vai sát cánh bên tôi, tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 5 tháng 08 năm 20011
Tác giả luận văn
Dương Minh Phượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
d
http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Dương Minh Phượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
e
http://www.lrc-tnu.edu.vn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 3
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI .................................................................................. 3
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ............................................................................. 4
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ............................................ 10
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ........................................... 11
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................................................... 11
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN ................................................................. 11
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN ....................................................................... 11
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT. GIỚI THIỆU VỀ CHU VĂN VÀ
TÁC PHẨM BÃO BIỂN ................................................................................... 12
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN ĐẾN XƢNG HÔ .................. 12
1.1.1. Lý thuyết hội thoại ............................................................................ 12
1.1.2. Lí thuyết giao tiếp ............................................................................. 20
1.1.3. Lí thuyết về xƣng hô ......................................................................... 24
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM TRONG VĂN HỌC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
XƢNG HÔ ...................................................................................................... 31
1.2.1. Ngôn từ nghệ thuật ............................................................................ 31
1.2.2. Tính hiện thực trong tác phẩm văn học ............................................ 32
1.2.3. Hình tƣợng nhân vật .......................................................................... 36
1.2.4. Hoàn cảnh điển hình ......................................................................... 39
1.2.5. Hội thoại trong tác phẩm văn học ..................................................... 40
1.3. KHÁI QUÁT VỀ CHU VĂN VÀ TÁC PHẨM BÃO BIỂN .................. 42
1.3.1. Về Chu Văn và sự nghiệp văn học của ông ...................................... 42
1.3.2. Về tác phẩm Bão biển ....................................................................... 39
TIỂU KẾT ....................................................................................................... 48
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
http://www.lrc-tnu.edu.vn
CHƢƠNG 2: CÁC TỪ NGỮ XƢNG HÔ VÀ CÁCH XƢNG HÔ
TRONG BÃO BIỂN .......................................................................................... 49
2.1. SƢ̣ XUẤT HIỆN CỦA CÁC TƢ̀ NGƢ̃ XƢNG HÔ TRONG CÁC
CUỘC THOẠI CỦA BÃO BIỂN ................................................................... 49
2.1.1. Hình thức hội thoại trong các cuộc thoại .......................................... 49
2.1.2. Các từ ngữ xƣng hô trong các cuộc thoại ......................................... 52
2.2. ĐẶC ĐIỂM LỚP TỪ NGỮ DÙNG ĐỂ XƢNG HÔ TRONG BÃO
BIỂN ................................................................................................................ 54
2.2.1. Đặc điểm của các từ ngữ xƣng hô xét về hình thức .......................... 48
2.2.2. Đặc điểm của các từ ngữ xƣng hô xét về chƣ́c năng ........................ 56
TIỂU KẾT ....................................................................................................... 83
CHƢƠNG 3: CÁCH XƢNG HÔ VÀ VIỆC KHẮC HỌA HÌNH TƢỢNG
NGHỆ THUẬT TRONG BÃO BIỂN.............................................................. 88
3.1. CÁCH XƢNG HÔ VÀ VIỆC KHẮC HỌA HOÀN CẢNH ĐIỂN
HÌNH TRONG TÁC PHẨM .......................................................................... 85
3.1.1. Cách xƣng hô và việc khắc họa một làng đạo với nhƣ̃ng mâu thuẫn
xung đột ....................................................................................................... 85
3.1.2. Cách xƣng hô và việc khắc họa một làng đạo nghĩ a tì nh sâu nặng .. 94
3.2. CÁCH XƢNG HÔ VỚI VIỆC KHẮC HỌA TÍNH CÁCH CÁC
NHÂN VẬT TRONG BÃO BIỂN ................................................................. 97
3.2.1. Cách xƣng hô với việc xây dựng tính cách nhân vật chính diện ...... 97
3.2.2. Cách xƣng hô với việc xây dựng tích cách của nhân vật phản diện 106
3.2.3. Cách xƣng hô với việc xây dựng tính cách nhân vật trung gian ..... 112
TIỂU KẾT ..................................................................................................... 116
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 118
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 121
PHỤ LỤC…...……………………………………………………………..114
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
http://www.lrc-tnu.edu.vn
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Dƣới ánh sáng của Ngƣ̃ dụng học , việc lƣ̣a chọn và cách sƣ̉ dụng
tƣ̀ ngƣ̃ xƣng hô trong giao tiếp không đơn giản . Khi tham gia giao tiếp , các
vai giao tiếp phải xƣng hô sao cho phù hợp với chuẩn mƣ̣c xã hội
– tính lịch
sƣ̣ trong giao tiếp , đồng thời phù hợp với chiến lƣợc giao tiếp đã đặt ra . Đặc
biệt đối với ngƣời Việt , do ảnh hƣởng của cá c yếu tố lị ch sƣ̉ , văn hóa, xã hội,
nên hệ thống tƣ̀ ngƣ̃ xƣng hô và cách sƣ̉ dụng chúng khá đa dạng , linh hoạt và
có nhiều nét khác biệt tinh tế so với các cộng đồng ngôn ngữ khác . Vì vậy nên
khảo sát từ ngữ xƣng hô và cá ch xƣng hô trong một tác phẩm văn học có thể
góp phần làm rõ thêm lí thuyết về xƣng hô nói chung , đồng thời giúp ngƣời
đọc thấy đƣợc rõ hơn vai trò tác dụng của việc sƣ̉ dụng tƣ̀ ngƣ̃ xƣng hô trong
giao tiếp bằng tiếng Việt.
Trong nhƣ̃ng năm gần đây , Ngữ dụng học ở nƣớc ta không ngƣ̀ng phát
triển, đáng chú ý là hƣớng tìm hiểu nghệ thuật ngôn tƣ̀ ở tác phẩm văn
chƣơng. Nhờ các tri thƣ́c mới về Dụng học , ngƣời ta có thể hì nh du ng sâu sắc
hơn nhƣ̃ng dụng c ông của nhà văn trong xây dƣ̣ng các liên kết đa chiều của
lời thoại , xây dƣ̣ng hệ thống tƣ̀ ngƣ̃ trong đó có các tƣ̀ ngƣ̃ đƣợc dùng với
chức năng xƣng hô.
1.2. Bão biển đã đƣợc coi là một tiểu thuyết lớn (2 tập, xuất bản năm
1969) về đề tài công giáo ở miền đồng bằng Bắc Bộ nƣớc ta . Tác phẩm không
chỉ là dấu ấn đáng ghi nhớ , khẳng đị nh tài năng văn chƣơng của Chu Văn , mà
còn đƣợc độc giả đƣơng thời và hiện nay đón nhận một cách nồng nhiệt nhờ
giá trị phản ánh hiện thực sâu sắc của nó
. Đọc Bão biển nguyên Phó thủ
tƣớng Nguyễn Ngọc Trì u tƣ̀ng nhận xét : “Bão biển đâu chỉ là tiểu thuyết , nó
còn là bản báo cáo sinh động giúp
cho chúng tôi hiểu thêm về một tôn
giáo...”. Thành công ấy của tác phẩm có sƣ̣ đóng góp không nhỏ của cách sƣ̉
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
http://www.lrc-tnu.edu.vn
dụng ngôn ngữ nghệ thuật . Chọn đề tài Xưng hô trong tác phẩm “Bão biển”
của Chu Văn chúng tôi mong muốn góp phần lí giải tính độc đáo trong nghệ
thuật ngôn từ Chu Văn từ một góc nhìn: hệ thống từ ngữ xƣng hô và cách sử
dụng hệ thống này ở các nhân vật trong truyện. Hệ thống từ ngữ xƣng hô của
các nhân vật trong tác phẩm vừa thể hiện đƣợc đặc trƣng chung của văn hóa
ngƣời Việt, lại vừa bộc lộ ra những nét riêng của một nhóm xã hội nhỏ hơn:
những ngƣời theo đạo Thiên chúa ở vùng ven biển đồng bằng Bắc Bộ nƣớc ta
vào những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
2.1. Những nghiên cứu về xƣng hô nói chung và từ ngữ
xƣng hô trong tác phẩm văn học
Trong các tài liệu về Ngữ pháp và Ngữ dụng học, xƣng hô luôn đƣợc
khảo sát khá kĩ lƣỡng do vị trí và công dụng đặc biệt của nó. Trong công trình
Studies in Vietnamese grammar (năm 1951), M.B. Emeneau đã dành nhiều
trang nhận xét về từ xƣng hô trong tiếng Việt, đặc biệt là nhóm từ xƣng hô
lâm thời có nguồn gốc danh từ. Ông gọi các danh từ đƣợc dùng làm từ xƣng
hô này là các "đại danh từ cƣơng vị" và nhận xét: “Đa số các đại từ đó đều
trùng làm một với những danh từ chỉ ngƣời bà con cùng huyết thống” [12, tr
51]. Ông thống kê đƣợc mƣời ba đại danh từ nhân xƣng cƣơng vị trùng với
các danh từ chỉ bà con thân thuộc: anh, bà, bác, cậu, con …
Trong các công trình nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại, ngoài việc chú
ý tới tính hệ thống và nguồn gốc của hệ thống đại từ nhân xƣng, ngƣời ta còn
quan tâm đến các nguyên tắc vận hành hệ thống này trong một ngôn ngữ J.
Lyons trong Sémantique (1980) khẳng định vị thế xã hội của các nhân vật hội
thoại ảnh hƣởng trực tiếp đến việc lựa chọn và sử dụng từ ngữ xƣng hô. Ông
cho rằng ngƣời ở vị thế trên phải xƣng hô khác với ngƣời ở vị thế dƣới, và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhấn mạnh "đây là điều phổ biến trong nhiều ngôn ngữ trên thế giới" [20, tr
83].
R.A Hudson trong Sociolinguistics (1990), cũng bàn đến vị thế của
nhân vật giao tiếp, song ông nhấn mạnh đặc biệt vào khái niện quyền uy trong
việc quyết định lựa chọn từ xƣng hô. Hudson viết: "Mỗi khi một ngƣời nào đó
viết hoặc nói, anh ta không chỉ đặt mình trong mối quan hệ với toàn bộ thành
phần xã hội còn lại mà còn liên kết hành động của anh ta với những cách phân
loại của các hành vi giao tiếp. Sơ đồ đó có dạng là một ma trận nhiều chiều,
giống nhƣ bức tranh về xã hội mà anh ta đã dựng lên trong óc mình" [13, tr
21].
Ở Việt Nam, từ những thập niên cuối thế kỷ XX trở lại đây, các công
trình nghiên cứu về xƣng hô xuất hiện ngày càng nhiều và chất lƣợng ngày
càng dày dặn. Các nhà ngôn ngữ học có uy tín về lĩnh vực này nhƣ Đỗ Hữu
Châu, Nguyễn Văn Chiến, Nhƣ Ý, Hoàng Thị Châu, Bùi Minh Yến, Phạm
Ngọc Thƣởng, Lê Thanh Kim, Nguyễn Phú Phong,… chú trọng tiếp cận lý
thuyết xƣng hô theo hƣớng mới: hoạt động hành chức của từ ngữ xƣng hô.
Theo Nguyễn Văn Chiến: "Vấn đề sẽ rõ ràng và lý thú hơn khi chúng ta xem
xét những từ xƣng hô dƣới ánh sáng của lý thuyết dụng học và dân tộc học
giao tiếp" [10, tr 15].
Với phƣơng châm nghiên cứu ấy, Nguyễn Văn Chiến đã đầu tƣ khá
nhiều công sức vào mảng đề tài này trên cơ sở tƣ liệu ngôn ngữ mẹ đẻ và
ngoại ngữ. Trong cuốn Từ xưng hô trong tiếng Việt (1993), tác giả sử dụng
phƣơng pháp tiếp cận hệ thống để tìm hiểu về các từ ngữ xƣng hô trong tiếng
Việt – tiếng mẹ đẻ. Theo đó, tất cả các từ ngữ xƣng hô trong tiếng Việt đƣợc
nghiên cứu nhƣ một chỉnh thể nguyên vẹn. Theo tác giả, đó là một hệ thống
cấu trúc bao gồm các yếu tố trỏ ngƣời trong sinh hoạt giao tiếp – đối thoại,
nội dung và giá trị của từng yếu tố đƣợc xác định nhờ vào sự đối lập giữa yếu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
http://www.lrc-tnu.edu.vn
tố ấy với tất cả những yếu tố còn lại trong hệ thống thông qua những quan hệ
phạm trù (cái đƣợc Nguyễn Phú Phong gọi là "phạm trù nhân xƣng"). Nguyễn
Văn Chiến còn tiến hành khảo sát các phạm trù nhân xƣng tiếng Việt trên cơ
sở đối chiếu với các ngôn ngữ cùng loại hình với nó (nhƣ tiếng Lào, Khơ me)
và ngôn ngữ khác loại hình (nhƣ tiếng Nga, Anh, Tiệp).
Cùng với Nguyễn Văn Chiến, nhiều tác giả cũng tìm tòi theo hƣớng
nghiên cứu các từ ngữ xƣng hô trong sự so sánh với các ngôn ngữ khác. Tác
giả Phạm Ngọc Thƣởng trong Luận án tiến sĩ Cách xưng hô trong tiếng
Nùng (1998) đã so sánh cách xƣng hô giữa các thế hệ và trong cùng thế hệ
của gia đình ngƣời Nùng với ngƣời Việt. Ở công trình này, tác giả đi sâu phân
tích, chỉ ra sự tƣơng đồng và khác biệt trong lớp từ ngữ chỉ quan hệ thân tộc
giữa hai ngôn ngữ; đồng thời lý giải giải hiện tƣợng đó dựa vào các đặc điểm
văn hóa, tập quán, lối sống… của từng tộc ngƣời. Ở phạm vi bao quát hơn,
Bùi Mạnh Hùng với công trình Ngôn ngữ học đối chiếu (2008) đã tiến hành
so sánh đối chiếu một cách có hệ thống tiếng Việt với tiếng Anh và tiếng
Bungari. Tác giả đối chiếu ở mọi cấp độ của ngôn ngữ nhƣ: âm vị, hình vị, từ,
ngữ pháp, ngữ dụng. Với cấp độ từ, ông lựa chọn lớp từ chỉ quan hệ thân tộc
là đối tƣợng nghiên cứu chính, qua đó chỉ ra: Sự khác nhau cơ bản giữa tiếng
Việt và tiếng Bungari, tiếng Anh là ở chỗ: lớp từ thân tộc trong tiếng Bungari,
tiếng Anh chỉ đơn thuần miêu tả quan hệ, còn lớp từ này ở tiếng Việt ngoài
chức năng miêu tả quan hệ còn có chức năng làm phƣơng tiện xƣng hô.
Hƣớng tiếp cận các từ ngữ xƣng hô dƣới ánh sáng của lí thuyết Ngữ
dụng học còn đƣợc nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam đi theo. Các tác giả đã
không dừng lại ở việc nghiên cứu các từ ngữ này trong giao tiếp chung chung
mà đi sâu nghiên cứu các phạm vi cụ thể trong các hoạt động giao tiếp ngôn
ngữ. Đáng chú ý là tác giả Bùi Minh Yến với hàng loạt bài viết trên tạp chí
Ngôn ngữ (các năm: 1990, 1993, 1994…) nhƣ: Xưng hô giữa vợ và chồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong gia đình người Việt, Xưng hô giữa anh chị và em trong gia đình
người Việt, Xưng hô giữa ông bà và cháu trong gia đình người Việt; và
luận án Từ xưng hô trong gia đình đến xưng hô ngoài xã hội của người
Việt (2001). Tác giả Lê Kim Thanh với luận án tiến sĩ Từ xưng hô và cách
xưng hô trong các phương ngữ tiếng Việt từ góc nhìn của lý thuyết xã hội
ngôn ngữ học (2002) cùng với nhiều bài nghiên cứu trên các tạp chí về cách
xƣng hô, cũng đã tạo nên một bức tranh nhiều màu sắc về từ ngữ xƣng hô của
ngƣời Việt xét từ góc nhìn phƣơng ngữ.
Một số kết quả nghiên cứu về từ ngữ xƣng hô và cách xƣng hô trong
tác phẩm văn học của các tác giả đi trƣớc đã đem lại vài sự gợi mở bổ ích.
Trƣớc hết phải kể đến bài viết Cách xưng gọi trong "Dế mèn phiêu lưu ký"
(2001) của tác giả Tạ Văn thông. Điều đặc biệt ở công trình này là tác giả
không chỉ miêu tả một cách đầy đủ lớp từ ngữ xƣng gọi và cách xƣng gọi
phong phú, đa dạng giữa các nhân vật (thực ra là các con vật đƣợc nhân cách
hóa) nhƣ thƣờng thấy, với nhân vật trung tâm là Dế Mèn, mà còn chỉ ra loại
xƣng gọi thứ hai ít đƣợc đề cập tới trong các tài liệu ngôn ngữ học: xƣng gọi
của "ngƣời kể chuyện". Theo tác giả: "Nếu nhƣ nhân vật phải nhập vai và
ngôn ngữ của họ lệ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của câu chuyện, thì "ngƣời kể
chuyện" lại tách khỏi hoàn cảnh ấy để đồng hành cùng độc giả, để ngắm nhìn
các nhân vật với nụ cƣời am hiểu". "Ngƣời kể chuyện" là một nhân vật đặc
biệt, xuất hiện trong tất cả các hoàn cảnh của tác phẩm, đƣợc tự xƣng là tôi và
gọi ngƣời đƣợc nói đến một cách gián tiếp (tức ở ngôi 3). Và nhờ có ngôn
ngữ của "Ngƣời kể chuyện" đƣợc thể hiện qua giọng điệu của Dế Mèn, nhân
vật chính trong truyện: chàng hiệp sĩ trở lại quê nhà và kể lại cuộc phiêu lƣu
vừa qua, mà ngƣời đọc có thể hiểu rõ hơn về tác phẩm, biết đƣợc những ý
nghĩ thầm kín, những động cơ bí ẩn ở phía sau hành động của nhân vật…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Luận văn thạc sĩ Hội thoại trong sáng tác của Nam Cao trước Cách
mạng tháng Tám của Phạm Văn Khanh (Đại học Sƣ phạm Hà Nội, 2006)
cũng là một tài liệu chuyên biệt về sử dụng từ ngữ xƣng hô trong tác phẩm
văn học. Tác giả nhấn mạnh vào đặc điểm sử dụng từ ngữ trong quan hệ với
nhân vật trong các tác phẩm của Nam Cao và chỉ ra những đặc trƣng trong
cách xƣng hô của các lớp nhân vật khác nhau. Ví dụ: ngƣời nông dân lƣơng
thiện thƣờng xƣng con, gọi ông, bà khi giao tiếp với quan lại, địa chủ; nhân
vật tha hóa thƣờng xƣng tôi, ông, gọi mày bất chấp địa vị, tuổi tác; quan lại
thƣờng xƣng ông, bà, gọi mày với những ngƣời có vị thế thấp hơn; và trí thức
thƣờng xƣng tôi với bất cứ nhân vật nào. Tác giả đi đến kết luận: Qua cách
xƣng hô, các nhân vật trong các tác phẩm đang xét thể hiện vị thế của mình,
đồng thời thể hiện mối quan hệ, diễn biến tâm lí với các nét tình thái thân sơ
khinh trọng khác nhau. Từ ngữ xƣng hô trong sáng tác của Nam Cao rất giàu
sắc thái biểu cảm.
Ở một góc nhìn khác, Hà Ngọc Yến đã tiến hành Đối chiếu các
phương tiện dùng để xưng hô trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư (Luận văn thạc sĩ, Đại học Sƣ phạm Thái
Nguyên, 2009). Luận văn này đã thể hiện sự mạnh dạn của ngƣời viết khi chỉ
ra các phƣơng tiện dùng để xƣng hô giữa các truyện ngắn của hai tác giả nói
trên có những nét tƣơng đồng và khác biệt nhất định. Nếu nét tƣơng đồng tạo
nên xu hƣớng "gia đình hóa" trong xƣng hô ngoài xã hội của các sáng tác, thì
sự khác biệt tạo nên những đặc sắc trong phong cách của mỗi nhà văn:
"Nguyễn Huy Thiệp viết bằng trí tuệ, còn Nguyễn Ngọc Tƣ viết bằng chính
bản năng con ngƣời mình" [38, tr 85].
2.2. Những nghiên cứu về sáng tác của Chu Văn, về tiểu
thuyết Bão biển và ngôn ngữ trong Bão biển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trên miền đất mà Phật giáo và Nho giáo ngự trị chủ yếu trong đời sống
tâm linh của ngƣời dân nhƣ Việt Nam ta, Chu Văn là một trong số rất ít các
nhà văn viết nhiều và viết hay về đề tài có liên quan đến Thiên chúa giáo. Ông
cũng là một trong số không nhiều nhà văn Việt Nam vừa làm cán bộ quản lí,
vừa cầm bút. Bởi thế, sáng tác của nhà văn – nhà quản lí này đƣợc giới nghiên
cứu văn học cũng nhƣ ngôn ngữ học quan tâm khá nhiều.
Ở phƣơng diện văn học, phải kể đến những nghiên cứu về sáng tác của
Chu Văn ở mức độ tổng quan của các tác giả: Nguyễn Văn Long, Phạm Ngọc
Hiền, Đức Hậu…
Trong bài viết Có một Thái Bình trong Chu Văn (2009), Đức Hậu đặc
biệt đề cao khả năng sáng tác dồi dào của Chu Văn qua hàng loạt tác phẩm ra
đời với các thể loại phong phú: thơ, truyện ngắn, bút kí, tiểu thuyết. Tác giả
nói: Trang viết của ông ít dập xoá, viết đến đâu đƣợc đến đấy. Mỗi nhà văn
có năng lực và phƣơng pháp làm việc riêng, nhƣng ngƣời có năng lực làm
việc nhƣ Chu Văn quả là không nhiều. Tác phẩm đƣợc Đức Hậu đề cao hơn
cả là tiểu thuyết Bão biển. Theo ông: thực tế nóng bỏng của xã hội đƣơng
thời đƣợc đƣa vào tác phẩm này hết sức sinh động và có tầm khái quát cao;
Có thể nói các nguyên mẫu nhân vật của Chu Văn vẫn đang sống ngoài đời,
và họ có thể đọc thấy mình trong các trang Bão biển. Bộ tiểu thuyết đã đƣa
Chu Văn lên hàng những nhà văn nổi tiếng của đất nƣớc.
Nhận xét về phong cách của Chu Văn qua các sáng tác, nhà nghiên cứu
văn học Nguyễn Văn Long viết: Chu Văn có vốn hiểu biết sâu sắc về nông
thôn, văn phong khỏe khoắn, đậm chất dân dã, bút pháp dựng ngƣời dựng
cảnh giàu tính tạo hình, lại có khả năng khắc họa tính cách, phân tích những
động lực của hành vi con ngƣời. Ông là nhà văn giàu bút lực về đề tài nông
thôn trong văn học đƣơng đại Việt Nam. Ông cũng đánh giá cao tiểu thuyết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
http://www.lrc-tnu.edu.vn
đậm tính sử thi Bão biển, cho rằng đây là một trong những tác phẩm hay về
nông thôn Bắc Bộ Việt Nam vào những năm 60 của thế kỷ XX.
Trong chuyên luận Văn xuôi Chu Văn (2009) tác giả Lại Nguyên Ân
đã nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về các sáng tác văn xuôi của Chu Văn. Từ
Con đường lầy, Con trâu bạc, Cô lái đò sông Ninh, Ánh sáng bên hàng
xóm, đến tiểu thuyết Bão biển, tiểu thuyết xác lập đƣợc chỗ đứng chắc chắn
của nhà văn trong văn học, và sau này là Đất mặn, Sao đổi ngôi, Giáp mặt
…ở mỗi tác phẩm ông đều dừng lại mô tả, phẩm bình một cách kĩ lƣỡng.
Cuối cùng, nhà nghiên cứu đi đến kết luận: Tƣ chất dân gian của ngòi bút Chu
Văn bộc lộ đặc biệt rõ ở ngôn ngữ nghệ thuật, ở thể loại các tác phẩm của
ông. Dù dồi dào năng lực miêu tả các bức tranh sinh hoạt, các xung đột thế sự
và ít nhiều, cả các tấn kịch tâm lý – tức là những năng lực của nhà tiểu thuyết
hiện đại – nhìn chung, các tác phẩm của Chu Văn vẫn thuộc loại truyện kể
liên hoàn, gần với truyện kể dân gian cả về cách bố cục, cách xây dựng nhân
vật lẫn cách triển khai và xử lý xung đột. Đây là một sản phẩm độc đáo, in rõ
dấu ấn sự giao thoa của văn hóa truyền thống và văn hóa mới.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Hiền lại đánh giá Bão biển là tác phẩm
chứa nhiều xung đột nhất trong nghiên cứu Những cái nhất trong tiểu thuyết
cách mạng giai đoạn 1945-1975 (2010).
Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ 1965 - 1975 - nhìn từ góc độ thể loại
(2010) là một chuyên khảo nhận thức tổng quan về tiểu thuyết Việt Nam thời
kỳ 1965 – 1975 của tác giả Nguyễn Đức Hạnh. Trong công trình này, tác giả
nhắc nhiều đến Chu Văn và các tác phẩm của ông, đặc biệt là tiểu thuyết Bão
biển. Nguyễn Đức Hạnh nhấn mạnh: Tác phẩm thành công nhất viết về đề tài
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này là Bão biển của Chu Văn. Minh
chứng cho nhận định ấy, nhà nghiên cứu này đi vào phân tích và chỉ ra hàng
loạt những thành công của tác phẩm ở nhiều mặt: giọng điệu, cảm hứng lãng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
http://www.lrc-tnu.edu.vn
mạn kết hợp với cảm hứng sử thi, tạo dựng xung đột, xây dựng các kiểu loại
nhân vật (chính diện, phản diện, trung gian…)…
Ngoài ra, nhiều bài báo lớn nhỏ, các công trình của các nhà nghiên cứu
văn học Việt Nam nhƣ Hà Minh Đức, Phong Lê, Nguyễn Đăng Mạnh,…cũng
ít nhiều nhắc đến những sáng tác của Chu Văn (trong đó có Bão biển). Nhìn
chung các tác giả đều đi đến thống nhất: Qua sáng tác của Chu Văn, đặc biệt
là qua tiểu thuyết của ông, ngƣời đọc có thể nhận thấy một bút pháp hiện
thực chặt chẽ, vừa có thể khắc hoạ bức tranh xã hội, vừa đi sâu vào những số
phận cá nhân và những tính cách nhân vật; một văn phong chắc khỏe, đậm
chất dân dã và vốn hiểu biết sâu sắc về ngƣời nông dân, đặc biệt là những
nông dân vùng công giáo.
Đến nay, hầu nhƣ chƣa có công trình nào nghiên cứu sâu về ngôn ngữ
trong tác phẩm Bão biển của Chu Văn, đặc biệt là vấn đề Xưng hô trong
Bão biển của Chu Văn. Đây vẫn là đề tài còn bỏ ngỏ, cần sự quan tâm nhiều
hơn để có cái nhìn sâu sắc hơn về ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết mang
đậm tính sử thi này.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu, tìm hiểu các
phƣơng tiện dùng để xƣng hô và cách xƣng hô trong tiểu thuyết Bão Biển của
Chu Văn (NXB Hội nhà văn, xuất bản lần đầu năm 1969, tái bản năm 2002).
Tiểu thuyết gồm 2 tập, ba phần, 1126 trang, trong đó: tập 1 gồm hai phần, 667
trang (phần thứ nhất gồm 260 trang, chia thành 20 mục lớn, có nhan đề: hai
con đƣờng; phần thứ hai gồm 407 trang, cũng chia thành 20 mục lớn, có tên
là: kẻ lành, kẻ dữ); tập 2 có một phần, 459 trang (phần thứ ba này đƣợc chia
thành 12 mục lớn, mang tên: bão biển).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Với khuôn khổ của đề tài, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát và nghiên
cứu các từ ngữ xƣng hô cách xƣng hô trong hội thoại ở Bão biển.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu các phƣơng tiện khác nhau dùng để xƣng hô trong Bão
biển và chỉ ra vai trò của việc sử dụng chúng trong xây dựng hình tƣợng nghệ
thuật của tác phẩm này.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lí luận có liên quan đến xƣng hô.
- Khảo sát, miêu tả các phƣơng tiện xƣng hô và cách xƣng hô trong 2
tập của tiểu thuyết Bão Biển - Chu Văn.
- Bƣớc đầu tìm hiểu vai trò của cách xƣng hô đối với khắc họa hình
tƣợng nhân vật trong các hoàn cảnh khác nhau ở tác phẩm Bão biển .
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây khi
thực hiện đề tài này:
- Phƣơng pháp miêu tả (với các thủ pháp phân tích và tổng hợp).
- Phƣơng pháp thống kê - phân loại .
- Ngoài ra, chúng tôi có tham khảo cách phân tích tác phẩm văn học,
không khí thời đại bấy giờ để lí giải các hiện tƣợng ngôn ngữ trong tác phẩm.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
6.1. Về lý luận
- Góp thêm tƣ liệu và cách nhìn nhận về xƣng hô, đồng thời chứng
minh cho khả năng áp dụng tri thức về Ngữ dụng học để nghiên cứu ngôn ngữ
trong tác phẩm cụ thể với cách xƣng hô của các nhân vật.
6.2. Về thực tiễn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Giúp ngƣời đọc có đƣợc sự hiểu biết đầy đủ hơn về thành công của
Chu Văn trong sử dụng ngôn từ nghệ thuật để phản ánh hiện thực và xây dựng
hình tƣợng nghệ thuật.
- Giúp cho công việc học tập và giảng dạy về ngôn ngữ các tác phẩm
văn học cũng nhƣ tiếng Việt trong nhà trƣờng nói chung. Ngoài ra, kết quả
của luận văn có thể xem nhƣ liệu tham khảo cho sinh viên và học sinh, đặc
biệt với những ai yêu thích các tác phẩm của Chu Văn.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục (Phụ lục
1: Hình ảnh tác giả Chu Văn; Phụ lục 2: Hình ảnh một số nhà thờ đạo ở miền
đồng bằng Bắc Bộ – Việt Nam; Phụ lục 3: Bảng các vai giao tiếp trong các
cuộc thoại của tác phẩm Bão biển; Phụ lục 4: Bảng các từ ngữ xƣng hô đƣợc
sử dụng trong Bão biển) luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết. Giới thiệu về Chu Văn và tác phẩm Bão
biển
Chương 2: Các từ ngữ xƣng hô và cách xƣng hô trong Bão biển
Chương 3: Cách xƣng hô với việc xây dựng hình tƣợng nghệ thuật
trong Bão biển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
http://www.lrc-tnu.edu.vn
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT. GIỚI THIỆU VỀ CHU VĂN VÀ
TÁC PHẨM BÃO BIỂN
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN ĐẾN XƢNG HÔ
1.1.1. Lý thuyết hội thoại
1.1.1.1. Hội thoại là hoạt động cơ bản của ngôn ngữ bằng lời trong giao
tiếp xã hội. Trong hội thoại, luôn luôn có sự hồi đáp giữa ngƣời nói và ngƣời
nghe, chẳng những ngƣời nói và ngƣời nghe tác động lẫn nhau bằng lời nói
mà lời nói của từng ngƣời cũng tác động lẫn nhau. Vì thế ý thức, bản chất,
hành vi, tinh thần …của mỗi con ngƣời đều đƣợc in đậm trong các cuộc hội
thoại. M.Bakhtin trong cuốn Thi pháp tiểu thuyết, sau khi nhấn mạnh vai trò
của hội thoại (ông gọi là “đối thoại”), chỉ rõ mối quan hệ của hội thoại với
việc thể hiện con ngƣời cá nhân, đã khẳng định: Con ngƣời ra đi khi đã nói lời
của mình, nhƣng bản thân lời nói ấy còn lại mãi mãi trong cuộc thoại không
bao giờ kết thúc…
Trong Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, tác giả Đỗ Hữu Châu đã đƣa ra
khái niệm hội thoại một cách bao quát sâu rộng, có thể áp dụng cho nhiều loại
hình ngôn ngữ : "Hội thoại là hình thức giao tiếp thƣờng xuyên, phổ biến của
ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác. Hội
thoại là khái niệm dành cho mọi hình thức hội thoại khác nhau” [7, tr.201].
Theo Đỗ Hữu Châu, các cuộc thoại đƣợc phân biệt với nhau ở một số
đặc điểm sau:
- Đặc điểm của thoại trƣờng (không gian, thời gian) nơi diễn ra cuộc
hội thoại. Thoại trƣờng hội thoại có thể mang tính công cộng nhƣ: trong cuộc
mít tinh, hội trƣờng, tiệm ăn… , hay riêng tƣ: trong phòng ngủ giữa hai vợ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
http://www.lrc-tnu.edu.vn
chồng… Thoại trƣờng cụ thể sẽ tƣơng ứng với hình thức hội thoại và nội
dung hội thoại phù hợp với nó. Nên thoại trƣờng khác nhau sẽ có các cuộc
thoại khác nhau.
- Số lƣợng ngƣời tham gia hội thoại cũng làm cho các cuộc thoại khác
nhau về tính chất và tên gọi. Hai ngƣời tham gia hội thoại sẽ có song thoại; ba
ngƣời tham gia tƣơng ứng với hình thức tam thoại; hình thức đa thoại bao
gồm trên ba ngƣời tham gia cuộc thoại. Tuy nhiên, song thoại vẫn là dạng cơ
bản nhất của hội thoại.
- Cƣơng vị và tƣ cách của những ngƣời tham gia hội thoại (còn gọi là
"thoại nhân") cũng làm nên cái khác biệt của các cuộc thoại. Đó là tính chủ
động hay bị động của các đối tác(còn gọi là “đối ngôn”); sự vắng mặt hay có
mặt của vai nghe trong hội thoại. Theo đó, vị thế giao tiếp của thoại nhân sẽ
trở thành nhân tố nhằm duy trì, thúc đẩy hoặc kết thúc cuộc thoại.
- Các cuộc thoại đều có những “đích” cụ thể của những ngƣời tham
gia hội thoại. Để bắt đầu cuộc thoại, các đối tác hội thoại đã phải xác định
mục tiêu giao tiếp mà mình cần đạt đƣợc từ đó xây dựng chiến lƣợc phù hợp.
Tuy nhiên, những cuộc thoại nhƣ thƣơng thuyết ngoại giao, hội thảo khoa
học…thƣờng có đích rõ ràng; còn đối với những cuộc trò chuyện tán gẫu thì
“đích” này thƣờng không cụ thể và mang tính tự phát.
- Các cuộc thoại còn khác nhau ở tính có hình thức hay không có hình
thức. Những cuộc thƣơng nghị, hội thảo… là những cuộc hội thảo mà hình
thức tổ chức khá chặt chẽ, trang trọng đến mức thành nghi lễ.. Những chuyện
trò đời thƣờng thì không cần một hình thức tổ chức nào cả.
- Với những hình thức hội thoại khác nhau thì ngữ vực (một phong
cách, một biến thể ngôn ngữ đƣợc sử dụng với một nhóm ngƣời có cùng nghề
nghiệp nhƣ: bác sĩ, luật gia…) để thể hiện nó cũng khác nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -