Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xung đột trong kịch lưu quang vũ qua một số kịch bản dựa trên tích truyện dân gi...

Tài liệu Xung đột trong kịch lưu quang vũ qua một số kịch bản dựa trên tích truyện dân gian

.PDF
64
98
63

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới TS. Nguyễn Thị Kiều Anh - người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em tận tình, chu đáo để em hoàn thành khóa luận với đề tài Xung đột trong kịch Lưu Quang Vũ qua một số kịch bản dựa trên tích truyện dân gian. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ Lí luận văn học, cùng toàn thể các thầy cô trong khoa Ngữ văn - Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học tập, nghiên cứu để em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Trong quá trình nghiên cứu, do sự hạn chế về thời gian nên khóa luận tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý vị, thầy cô để khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày .... tháng .... năm 2014 Sinh viên Đặng Thị Lý LỜI CAM ĐOAN Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS. Nguyễn Thị Kiều Anh. Tôi xin cam đoan: Nội dung trong khóa luận là công trình nghiên cứu chưa được công bố. Khóa luận không hề có sự sao chép, trùng lặp với bất kỳ công trình, tài liệu nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày .... tháng .... năm 2014 Sinh viên Đặng Thị Lý Danh mục từ viết tắt. 1. PGS: Phó giáo sư 2. TS: Tiến sĩ. 3. THCS: Trung học cở sở. 4. THPT: Trung học phổ thông. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 2 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 2 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................. 3 3. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 4 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 4 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 5 6. Đóng góp của khóa luận ................................................................................. 5 7. Bố cục khóa luận ............................................................................................. 5 Chương 1. QUAN NIỆM VỀ XUNG ĐỘT KỊCH VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC KỊCH CỦA LƯU QUANG VŨ .................................................................... 6 1.1. Khái niệm về kịch ........................................................................................ 6 1.2. Xung đột kịch ............................................................................................... 8 1.3. Hành trình sáng tác kịch của Lưu Quang Vũ.............................................11 Chương 2. CÁC LOẠI HÌNH XUNG ĐỘT TRONG KỊCH BẢN DỰA TRÊN TÍCH TRUYỆN DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG VŨ .....................................16 2.1. Xung đột giữa thiện và ác ..........................................................................17 2.2 Xung đột giữa sống và chết. .......................................................................25 2.3. Xung đột nội tâm .......................................................................................29 Chương 3. PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT VÀ NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG XUNG ĐỘT...................................................................................34 3.1. Phương thức giải quyết xung đột. ..............................................................34 3.2. Nghệ thuật xây dựng xung đột ...................................................................36 3.2.1. Xung đột thể hiện qua nhân vật ...........................................................36 3.2.2. Xung đột thể hiện qua hành động ........................................................47 3.2.3. Xung đột thể hiện qua ngôn ngữ nhân vật ...........................................51 KẾT LUẬN ..........................................................................................................57 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong lịch sử phát triển nền sân khấu kịch nói Việt Nam, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) được biết đến như một hiện tượng hiếm có, một tác gia tiêu biểu nhất sân khấu kịch những năm 80 của thế kỉ XX. Mặc dù thời gian dành cho sân khấu gần 10 năm ông để lại một gia tài đồ sộ với hơn 50 vở kịch. Cho đến nay chưa có một nhà viết kịch Việt Nam nào vượt qua được Lưu Quang Vũ. Tác phẩm của ông không những số lượng được dàn dựng nhiều nhất mà còn có giá trị nghệ thuật cao, chất lượng tốt. Dù ông khai thác ở mảng đề tài nào cũng đều khắc họa được những vấn đề lớn, có ý nghĩa xã hội nhân sinh sâu sắc. Từ trước đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về Lưu Quang Vũ và tác phẩm của ông nói chung, tác phẩm kịch nói riêng. Tuy nhiên trong đó việc nghiên cứu nghệ thuật sáng tạo về kịch chưa nhiều. Chính vì vậy việc tìm hiểu những giá trị trong sáng tác của ông là điều vô cùng cần thiết cả về mặt lí luận và thực tiễn. Mặt khác xung đột kịch là yếu tố then chốt, thúc đẩy vở kịch phát triển và chuyển tải tư tưởng của tác giả. Hiện nay trong chương trình sách giáo khoa Ngữ Văn THCS và THPT đổi mới theo quan điểm tích hợp đều đưa các trích đoạn kịch của Lưu Quang Vũ vào giảng dạy. Nhằm mục đích giúp học sinh hiểu biết hơn về kịch, văn bản kịch, giá trị to lớn nghệ thuật kịch của ông, có tác dụng giáo dục nhân sinh sâu sắc thế hệ trẻ. Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi chọn đề tài “Xung đột trong kịch Lưu Quang Vũ qua một số kịch bản dựa trên tích truyện dân gian”. Cụ thể qua hai vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt và Ông vua hóa hổ. Với mong muốn góp thêm công sức vào việc tìm hiểu và khẳng định những giá trị to lớn của kịch Lưu Quang Vũ, đặc biệt về xung đột kịch. Đó cũng là tiếng nói tri ân dành cho một tài năng nghệ thuật lớn - nhà viết kịch Lưu Quang Vũ. 2 2. Lịch sử vấn đề Vào những năm 80 của thế kỉ XX đã có khá nhiều nhà nghiên cứu phê bình viết về kịch Lưu Quang Vũ. Đã có ý kiến cho rằng sân khấu Việt Nam những năm 80 là “sân khấu của Lưu Quang Vũ”. Hàng trăm bài báo nghiên cứu, phê bình sân khấu trong và ngoài nước được viết ra đánh giá về kịch của ông. Người khen có, kẻ chê cũng có, từng bước ông lầm lũi âm thầm khẳng định tài năng của chính mình. Tuy nhiên những nghiên cứu kịch của ông trên phương diện tác phẩm văn học chiếm tỉ lệ còn khiêm tốn, nhất là các tác phẩm viết dựa trên tích truyện dân gian. PGS. TS. Phan Trọng Thưởng cho rằng mối quan tâm lớn nhất trong kịch của Lưu Quang Vũ là những trăn trở về lẽ sống, lẽ làm người. Về nội dung xung đột kịch, phương thức biểu hiện các ý kiến đều cho rằng Lưu Quang Vũ là một cây bút sắc sảo, nhạy cảm trước mọi vấn đề của đời sống xã hội. TS. Lưu Khánh Thơ trong bài nghiên cứu về những kịch bản khai thác mô típ dân gian, tác giả đã phân tích một số vở kịch tiêu biểu ở mảng tác phẩm này, và rút ra kết luận: "Lưu Quang Vũ có sự vận dụng tài tình những di sản của văn học dân gian, tìm kiếm trong những sự kiện, các nhân vật của quá khứ những ý nghĩa mới, những bài học mới. Điều này đã tạo nên nét độc đáo trong kịch Lưu Quang Vũ, vừa mang âm hưởng dân gian, vừa tràn đầy hơi thở của cuộc sống hiện tại." Các tác phẩm kịch của ông viết dựa trên tích truyện dân gian chưa được khai thác, nhận định, đánh giá hết tầm quan trọng của chúng. Phần lớn các bài viết về kịch của ông chủ yếu xuất phát từ tấm lòng mến yêu, cảm phục trước tài năng, con người của một nhà viết kịch trẻ. "Di sản kịch của Lưu Quang Vũ đồ sộ về khối lượng phong phú về nội dung, đa dạng về thể tài và phong cách còn chờ đợi được nghiên cứu toàn diện... một số kịch phẩm vượt qua thử thách của thời gian và sẽ có cuộc sống lâu dài trong văn học sân khấu nước nhà".[1,32] 3 Tổng hợp về các nhận định kịch Lưu Quang Vũ, Phan Trọng Thưởng đã viết "Có những người từ góc độ xã hội cho rằng kịch của Lưu Quang Vũ hay bởi nó đáp ứng yêu cầu thời sự, được cả xã hội quan tâm, được đưa lên sân khấu những vấn đề quan thiết, nóng bỏng của thực tiễn đời sống... cũng có những người từ góc độ sáng tạo mà cho rằng Lưu Quang Vũ đã gặp đất. Lại có không ít người từ một phía chủ thể nghệ sĩ cho rằng đó là kết quả của tư chất thông minh của tinh thần lao động nghiêm túc, cần mẫn của trách nhiệm người nghệ sĩ - công dân" [11,89] Các tác giả có những đóng góp quý giá trong nghiên cứu những sáng tạo trong kịch của Lưu Quang Vũ. Trên cơ sở kế thừa và học tập các ý kiến xác đáng của các nhà nghiên cứu đi trước, khóa luận chủ yếu đi sâu vào tìm hiểu xung đột trong kịch Lưu Quang Vũ qua một số kịch bản dựa trên tích truyện dân gian. Trong quá trình thực hiện khóa luận tôi còn nhiều thiếu sót kính mong nhận được sự góp ý của quý thầy, cô để khóa luận hoàn chỉnh hơn. 3. Mục đích nghiên cứu Trong khuôn khổ một khóa luận chúng tôi hướng tới làm nổi bật những đặc sắc về xung đột kịch của Lưu Quang Vũ, và nghệ thuật tạo dựng xung đột qua một số kịch bản dựa trên tích truyện dân gian của ông. Cụ thể qua 2 kịch bản Hồn Trương Ba da hàng thịt và Ông vua hóa hổ. Từ đó khẳng định tài năng, vị trí, sự đóng góp của Lưu Quang Vũ đối với sự phát triển của thể loại kịch trong nền văn học nước nhà. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Xung đột kịch trong một số kịch bản dựa trên tích truyện dân gian của Lưu Quang Vũ. - Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ khóa luận tốt nghiệp, khi triển khai đề tài chúng tôi tập trung đi sâu khảo sát hai văn bản kịch lấy từ tích dân gian như: Hồn Trương Ba da hàng thịt và Ông vua hóa hổ. 4 5. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích tổng hợp. - Phương pháp loại hình. - Phương pháp so sánh, đối chiếu. 6. Đóng góp của khóa luận Về mặt lí luận: khóa luận đóng góp những nhận xét về xung đột kịch của Lưu Quang Vũ dựa trên tích truyện dân gian. Về mặt thực tiễn: khóa luận đóng góp trong công việc giảng dạy xung đột kịch ở trường THCS và THPT nói chung và kịch Lưu Quang Vũ nói riêng. 7. Bố cục khóa luận - Chương 1: Quan niệm về xung đột kịch và hành trình sáng tác kịch của Lưu Quang Vũ. - Chương 2: Các loại hình xung đột trong một số kịch bản dựa trên tích truyện dân gian của Lưu Quang Vũ. - Chương 3: Phương thức giải quyết xung đột và nghệ thuật xây dựng xung đột. 5 CHƯƠNG 1. QUAN NIỆM VỀ XUNG ĐỘT KỊCH VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC KỊCH CỦA LƯU QUANG VŨ 1.1. Khái niệm về kịch Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Kịch được dùng theo hai cấp độ: Ở cấp độ loại hình, kịch là một trong ba phương thức của văn học (kịch, tự sự, trữ tình). Kịch vừa thuộc sân khấu vừa thuộc văn học. Nó vừa để diễn là chủ yếu lại vừa để đọc vì kịch bản chính là phương diện văn học của kịch. Song nói đến kịch là nói đến sự biểu diễn bằng hành động cử chỉ, điệu bộ và bằng lời nói (riêng kịch câm thì không diễn tả bằng lời). Kịch được xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc những xung đột muôn thuở mang tính toàn nhân loại như (thiện và ác, cao cả và thấp hèn, ước mơ và hiện thực...). Những xung đột ấy được thể hiện bằng một cốt truyện có cấu trúc chặt chẽ qua hành động của các nhân vật và theo những quy tắc nhất định của nghệ thuật kịch. Trong kịch thường chứa đựng nhiều kịch tính, là những căng thẳng do tình huống tạo ra với những nhân vật. Phần lớn kịch được xây dựng trên hành động bên ngoài với những diễn biến của chúng và theo những nguyên tắc có sự đấu tranh chống lại của các nhân vật. Tuy nhiên cũng có hành động bên trong, qua đó nhân vật chủ yếu là suy ngẫm và chịu đựng một tình huống xung đột bên trong hết sức căng thẳng. Trong kịch, những lời phát biểu của các nhân vật (trong đối thoại hoặc độc thoại) nói lên hành động, ý chí và sự tự khám phá tích cực của họ có một ý nghĩa quyết định. Còn những lời trần thuật (câu chuyện kể của nhân vật về những điều trần thuật đã qua, sự thông báo của người dẫn truyện, những lời chỉ dẫn của tác giả trong kịch bản) chỉ đóng vai trò thứ yếu và nhiều khi không cần đến. Về mặt kết cấu, vở kịch thường chia thành nhiều hồi, cảnh, nhằm tạo ra sự trùng khớp giữa thời gian, địa điểm và hành động kịch, đồng thời làm cho cái được trình diễn mang màu sắc xác thực của đời sống. Qua các thế kỉ khác nhau mối quan hệ giữa 3 yếu tố: thời gian, địa điểm, hành động trong kết cấu của kịch 6 không ngừng thay đổi tùy theo quan niệm của người sáng tạo, và quy mô, tầm vóc của những sự kiện, biến cố được phản ánh. Trên cấp độ loại hình, kịch gồm nhiều thể loại: bi kịch, hài kịch, chính kịch, cùng nhiều tiểu loại và biến thể khác. Ở cấp độ thể loại, thuật ngữ kịch được dùng để chỉ một thể loại văn học sân khấu có vị trí tương đương với bi kịch và hài kịch. Với ý nghĩa này, kịch cũng gọi là chính kịch (hoặc kịch đram). Cũng giống như hài kịch, kịch tái hiện cuộc sống riêng của con người bình thường nhưng mục đích chính không phải là cười nhạo, chế giễu thói hư tật xấu, mà là mô tả cá nhân trong các mối quan hệ chứa đựng kịch tính đối với xã hội. Và cũng giống như bi kịch, kịch tái hiện những mâu thuẫn gay gắt, song những xung đột của nó không căng thẳng đến tột độ, không mang tính chất vĩnh hằng và về nguyên tắc có thể giải quyết được ổn thỏa. Còn các tính cách của kịch thì không có gì đặc biệt, phi thường. Kịch hình thành như một thể loại vào nửa sau thế kỉ thứ XVIII qua sáng tác của các nhà Khai sáng ở Pháp và Đức như Đi-đơ-rô (1713 - 1784), Bô-mác-se (1732 - 1799), G.E.Lect-xing (1729 - 1781),... Nó hướng về những lợi ích tinh thần đạo đức, về lí tưởng của các lực lượng dân chủ tiến bộ đương thời. Trong quá trình phát triển của kịch, tính kịch bên trong của nó ngày càng cô đọng, dồn nén hơn. Nó cũng tiếp nhận những thủ pháp nghệ thuật, những phương tiện biểu đạt của các thể loại văn học sân khấu khác như bi hài kịch, kịch hề,... để tăng thêm sức hấp dẫn và tác động nghệ thuật của nó đối với công chúng. Ở Việt Nam, kịch ra đời vào cuối những năm 20 của thế kỉ XX, với những sáng tác như: Chén thuốc độc của Vũ Đình Long, Kim tiền của Vi Huyền Đắc... Từ sau cách mạng tháng Tám, kịch ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn học - sân khấu và xã hội ở nước ta.”[3, 167-168]. Như vậy kịch là loại hình nghệ thuật tổng hợp có sự tham gia của nhiều người, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, diễn ra trong một môi trường đầy xung đột, va chạm cần được giải quyết. 7 1.2. Xung đột kịch Nếu ta quan niệm xung đột như một hình thái trong khái niệm chung nhất thì đó là một cấp độ của mâu thuẫn với những biểu hiện tăng dần, đến những mâu thuẫn gay gắt mà hình thái của nó diễn ra trong cuộc chiến tranh thực sự. Hơn thế trước khi đạt đến mức độ gọi là xung đột thì nó phải được tích tụ dần qua những cấp độ khác nhau. Lúc đầu có vẻ giản đơn nhưng ngày càng phức tạp gay gắt thêm đến mức không thể hòa hoãn được. Trong văn học, đặc biệt là trong kịch những suy nghĩ đánh giá về nội dung nhân bản, nhân đạo là rất quan trọng, sự khác nhau về giai tầng xã hội... phát triển thành xung đột. Aristotle nói đến tính hành động nhưng cũng không bỏ qua một đặc trưng quan trọng của kịch đó là tính xung đột. Ông coi thắt nút là phần kịch bao gồm từ đầu đến sự biến, nó xuất phát từ xung đột ban đầu. Tức mỗi xung đột được tạo nên từ tình huống ban đầu, tình huống xuất phát của kịch. Hê - ghen nói đến đối tượng xung đột kịch ông còn gắn liền với đặc trưng hành động kịch. Trước hết ông cho rằng kịch là tổng thể về nội dung và hình thức cần được xem xét ở mức độ cao nhất của thi ca và nghệ thuật. Ông phân tích kịch như một nghệ thuật có chức năng diễn tả những mâu thuẫn của hiện thực, ở mức độ căng thẳng cực độ. Pha-đê-ép cho rằng: “xung đột là cơ sở của kịch” là biểu hiện tập trung nhất, cơ sở cho mọi sáng tạo nghệ thuật. Xung đột kịch phản ánh những mâu thuẫn trong xã hội và thời đại mang tính lịch sử cụ thể trong đời sống của con người. Xung đột kịch là mấu chốt, chìa khóa để kịch phản ánh một cách cô đọng, súc tích và điển hình nhất. Xung đột trong kịch bắt nguồn từ mâu thuẫn trong đời sống, chỉ có những xung đột hoặc mâu thuẫn sắc nhọn, kịch liệt, đầy kịch tính cộng thêm sự sáng tạo của nhà văn mới trở thành xung đột kịch khiến khán giả cảm nhận được, nhìn thấy được mâu thuẫn của cuộc sống. Căn cứ vào lịch sử phát triển của nghệ thuật sân khấu xung đột kịch được hiểu theo hai nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Hiểu theo nghĩa hẹp, xung đột trong tác phẩm kịch là sự phát triển cao nhất sự mâu thuẫn của hai hay nhiều lực lượng tương đối độc lập thông 8 qua một sự kiện hay một diễn biến tâm lí cụ thể được thể hiện trong mỗi màn kịch, có thể có rất nhiều loại xung đột khác nhau. Có xung đột biểu hiện của sự đè nén, giằng co giữa các lực lượng, có xung đột được biểu hiện qua sự đấu tranh nội tâm của nhân vật, có xung đột là sự đấu trí căng thẳng và lí lẽ để thuyết phục đối phương giữa hai lực lượng. Do tính chất sân khấu quy định cho nên trong khi phản ánh hiện thực tác giả kịch bản buộc phải bước vào những mâu thuẫn trong cuộc sống đã phát triển đến chỗ xung đột đòi hỏi phải được giải quyết bằng cách này hay cách khác. Hiểu theo nghĩa rộng, xung đột cần phản ánh những mâu thuẫn cơ bản của xã hội và thời đại, nói cách khác luôn mang tính lịch sử cụ thể, ở những thời đại khác nhau có những xung đột khác nhau. Ở thời cổ đại đó là xung đột giữa thế giới quan thần linh, từ định mệnh với khát vọng làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân của mỗi người như trong vở Ơđíp làm vua (Xôphôclô), Prêmêtê bị xiềng (Ex - khin).... Trong xã hội nô lệ đó là xung đột giữa những người nô lệ muốn đấu tranh giành lại tự do với bọn chủ nô... Trong xã hội phong kiến đó là xung đột giữa một bên là uy quyền của vua chúa, quan lại với dân thường bị áp bức đòi được giải phóng. Trong thời kì hiện đại, những xung đột thường xoay quanh những vấn đề cách mạng - phản cách mạng, cái thiện - cái ác, cái tốt - cái xấu... Xung đột do tính chất sân khấu quy định, và làm cho kịch có tính sân khấu. Sức hấp dẫn của một vở kịch là ở chỗ nhà văn phát hiện, nêu ra, và giải quyết xung đột lớn nhỏ trong vở kịch. Các yếu tố khác của vở kịch phải góp phần tô đậm xung đột và dẫn đến một kết cục sâu sắc, gần gũi với những vấn đề của cuộc sống. Chính bởi vậy khi nói tới kịch bỏ qua yếu tố xung đột là một thiếu sót lớn. Theo tác giả Phạm Vĩnh Cư trong kịch xung đột “chi phối trực tiếp đến cấu trúc tác phẩm, đến nhịp độ dồn dập khác thường của cốt truyện, xung đột là động lực thúc đẩy của hành động kịch nhằm xác lập lên những mối quan hệ giữa các nhân vật vốn được coi là kết thúc tất yếu cuả tác phẩm kịch, thiếu xót xung đột, tác phẩm sẽ mất đi đặc trưng đầu tiên của thể loại, sẽ trở thành vô nghĩa 9 hay chỉ có thể là vở kịch tồi.”[10, 202]. Vì vậy người nghệ sĩ phải có sự nghiên cứu công phu kĩ lưỡng, tìm tòi và phát hiện hiện thực. Đồng thời phải có một cảm quan, một sự nhạy bén trong nắm bắt các hiện tượng đời sống để xây dựng được những xung đột mang ý nghĩa điển hình. Đối lập thường tạo ra mâu thuẫn nhưng không phải bất kì mặt đối lập nào cũng tạo nên mâu thuẫn. Mâu thuẫn trong kịch nên hiểu: “là một khái niệm nghệ thuật thuộc về con người, là nói tới những cuộc đấu tranh về chính trị, về lí tưởng, về thẩm mỹ, về tư tưởng, về đạo đức, những xung khắc có ý nghĩa trọng đại về mặt xã hội mâu thuẫn kịch đâu phải là sự tương phản của một vài cảm xúc nhỏ nhặt, rải rác trong một câu chuyện êm dịu cuối chiều. Mâu thuẫn kịch không phải là sự khác biệt.”[1, 87]. Mâu thuẫn trong kịch phải đảm bảo được yêu cầu cơ bản về tính chân thực và ý nghĩa xã hội sâu sắc. Giữa xung đột và mâu thuẫn có mối quan hệ qua lại với nhau. Tuy nhiên chỉ đến một giai đoạn nhất định, khi mâu thuẫn đạt đến một mức độ sâu sắc mới dẫn đến xung đột và lúc đó chúng mới tới địa hạt chân chính của tính kịch. Mỗi tác phẩm kịch thường được triển khai trên cơ sở một cốt truyện giàu xung đột. Chính ở đây bộc lộ rõ nhất sự khác biệt, va chạm đối lập giữa các khuynh hướng tư tưởng, các cảnh ngộ và các tính cách, là sự phản ánh cái mâu thuẫn có tính chất xã hội và thời đại. Đồng thời là sự tái hiện, biểu hiện cuộc sống trong hình thái mâu thuẫn. Xung đột được coi là hình thức phản ánh thực tại khách quan thông qua các mâu thuẫn xã hội được khái quát hóa từ các cuộc đấu tranh của nhân vật trong cuộc sống nhằm bộc lộ ý đồ, tư tưởng, dụng ý nghệ thuật của tác giả. Xung đột còn là trung tâm nội dung của kịch có tác động làm bùng nổ các hành động của các nhân vật tạo ra sự vận động của các sự kiện và tính cách nhân vật. Mọi hành động kịch đều bắt nguồn từ cuộc đấu tranh chủ yếu giữa các nhân vật trong kịch, phát triển và kết thúc theo xu thế chung của sự giải quyết. Hình thức biểu hiện của xung đột kịch là hình thức xung đột tính cách của những nhân vật có số phận, nội dung rõ rệt trước mọi vấn đề sự kiện nhất định. 10 Xung đột gay gắt càng lộ rõ nét tính quyết liệt của cuộc đấu tranh giữa những khuynh hướng, lực lượng xã hội nhất định và bao giờ cũng chứa đựng một tư tưởng, một lí tưởng thẩm mĩ cụ thể. Xung đột kịch vì thế phải có ý nghĩa xã hội rộng lớn, có tính phổ biến và đặc biệt phải xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn xã hội sâu sắc, chứa đựng những vấn đề nóng bỏng của thời đại thì mới có giá trị nghệ thuật cao. Thông qua xu hướng hành động, đặc điểm tính cách, đời sống nội tâm của nhân vật chúng ta thấy được xung đột kịch. Những xung đột trong đời sống làm cơ sở cho sự sáng tạo nghệ thuật, nhà viết kịch đến với hiện thực bằng con đường ngắn nhất. “Lí giải được những vấn đề thuộc phạm trù xung đột thông qua hệ thống hành động bằng sức mạnh riêng của ngôn ngữ nhân vật, có nghĩa là nhà viết kịch đã lí giải được vấn đề mang ý nghĩ nhân bản luôn đặt ra cho mọi dân tộc, mọi thời đại, bằng tiếng nói nghệ thuật của thể loại”. [2,61]. 1.3. Hành trình sáng tác kịch của Lưu Quang Vũ Người con của mảnh đất Hạ Hào, Vĩnh Phú nay là Phú Thọ, Lưu Quang Vũ sớm bộc lộ tài năng ở nhiều mặt. Ông không chỉ trở thành hiện tượng “đặc biệt” của sân khấu kịch những năm 80 của thế kỉ XX mà ông còn là một nhà soạn kịch tài năng của văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Cho đến nay chưa ai vượt qua được tầm vóc của ông. Ngày 29 - 8 - 1988 trong một vụ tai nạn ô tô trên quốc lộ 5 đã cướp đi sinh mạng của ông cùng người bạn đời - nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai Lưu Quỳnh Thơ. Ông ra đi khi đang ở đỉnh cao của nghệ thuật trong lúc tài năng ở “độ chín”. Với 40 năm tuổi đời ngắn ngủi nhưng người nghệ sĩ tài hoa Lưu Quang Vũ đã để lại cho đời một sự nghiệp văn học đồ sộ. Trước khi trở thành nhà viết kịch, Lưu Quang Vũ đã là một nhà thơ có tiếng, được nhiều người yêu thích, ngoài ra ông còn sáng tác truyện, vẽ tranh, là cộng tác viên của báo... Giới phê bình khẳng định “Lưu Quang Vũ là một nhà thơ, một cây bút trẻ nhiều triển vọng”. Các tập thơ như Cỏ tóc tiên, ...truyện ngắn như Người kép đóng hổ,...được giới nghiên cứu đánh giá cao. Có thể nói thơ là khát 11 vọng, là động lực, là cơ sở, còn truyện là bắt đầu cho những vấn đề xã hội khả năng khắc họa chân dung nhân vật để Lưu Quang Vũ tỏa sáng tài năng trong kịch. Lưu Quang Vũ đã từng nói lên những suy nghĩ của mình trong lời tự bạch trước khi mất “động lực xúi giục tôi viết kịch cũng là những động lực khiến tôi làm thơ, đó là khát vọng muốn được bày tỏ muốn được thể hiện tâm hồn mình và thế giới xung quanh, muốn được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gửi và dâng hiến.”[7, 316]. Lưu Quang Vũ để lại những dấu ấn đậm nét nhất trong lòng độc giả là những vở kịch mà ông sáng tác. Có thể thấy đó là cả một hành trình lao động nghệ thuật không ngừng nghỉ để khẳng định tài năng và tên tuổi của mình. Trường hợp nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đích thực là một “hiện tượng sân khấu” Việt Nam. Nhà nghiên cứu Vũ Hà và Ngô Thảo nhận xét “sự phát lộ tài năng ở Vũ không tuân theo quy luật của sự hội tụ mà lan tỏa trên một mặt bằng rộng rãi.”[4, 62]. Kịch của ông thực sự là một “thương hiệu” tin cẩn đối với khán giả lúc bấy giờ về mặt nội dung và nghệ thuật. Nhà nghiên cứu Tất Thắng nhận định về kịch Lưu Quang Vũ “đã thực sự được mọi người chú ý và đã thực sự thu hút sự chú ý của mọi người”. [11]. Phạm Vĩnh Cư viết “sân khấu thủ đô Hà Nội, sân khấu thành phố Hồ Chí Minh nhiều nơi chứng kiến sự chiếm lĩnh hầu hết vở diễn của Lưu Quang Vũ trên sàn diễn”[10,383]. Trong thời kì hậu chiến tàn dư của chiến tranh là lực cản kéo lùi lịch sử, sân khấu cách mạng rơi vào tình trạng nghèo nàn đơn điệu. Năm 1979 ông mới bước vào sân khấu với một thế sự rất thuận lợi cho sự nghiệp sáng tác của mình. Chính thời điểm đó Lưu Quang Vũ trình làng với tác phẩm đầu tay Sống mãi tuổi 17 (1979) do nhà hát tuổi trẻ dàn dựng. Vở kịch đạt huy chương vàng tại hội diễn sân khấu toàn quốc năm 1980. Thành công rực rỡ bước đầu không hề làm thui chột tài năng, mà trở thành sức mạnh, nghị lực, bệ phóng để ông vững bước vào nghề. Hiện thực cuộc sống là mảnh đất màu mỡ cho nghệ sỹ khai thác và phản ánh. Vốn là một người thông minh, trái tim đa cảm, một trí tuệ nhạy bén, khối óc sáng tạo, 12 chỉ cần đọc một mẩu tin, một bài viết trên báo, hay thoáng nhìn thấy sự kiện nào đó, nghe một câu chuyện người khác kể... ông có thể viết lên tác phẩm kịch chuyển tải nội dung đó đến mọi người đạt được hiệu quả cao nhất. Những vở kịch gây chấn động mạnh như: Lời nói dối cuối cùng, Nàng Sita, Lời thề thứ chín, Khoảnh khắc và vô tận... Tên tuổi của ông ngày càng nổi bật, tô đậm hơn, gần gũi hơn. Nhờ có kịch của ông người làm sân khấu đã chinh phục được khán giả Hồ Chí Minh bằng sự lôi cuốn của loại hình kịch nói, khi người dân ở đây bao năm vốn đã quen với cải lương. Điều này được coi là một kì tích lớn. Trong hội diễn sân khấu năm 1985 được tổ chức ở thành phố Hồ Chí Minh phải nhắc đến thành công rực rỡ của Tôi và chúng ta (1984). Báo giới thành phố Hồ Chí Minh đánh giá vở Tôi và chúng ta là vở có sức mạnh ghê gớm như “cỗ xe tăng tiến vào giải phóng dinh độc lập". Vở Hồn Trương Ba da hàng thịt được đánh giá là vở kịch hay nhất của ông. Theo Hồ Anh Thái nhà hát kịch Việt Nam khi mang vở Hồn Trương Ba da hàng thịt diễn ở Seattle (miền tây nước Mỹ) “làm cho dân Seattle một đêm mất ngủ”, “bán được 250 vé không tính giấy mời trong một khán phòng 300 chỗ ngồi”[10, 349]. Như vậy có thể thấy tầm ảnh hưởng của Lưu Quang Vũ không chỉ trong nước mà còn vượt ra ngoài biên giới xa xôi. Tài năng của ông dồi dào, sức sáng tạo đi con đường của mình không giống bất cứ ai. Thành công của ông được nhà nghiên cứu Ngô Thảo nhận định “là sự kết hợp giữa một tài năng đang độ chín và một sức lao động nghệ thuật phải nói là phi thường”. [4,251] Ra nhập làng sân khấu chỉ gần 10 năm nhưng ông để lại một khối lượng tác phẩm thật đáng nể hơn 50 kịch bản. Các kịch bản của ông được dàn dựng và gặt hái được nhiều thành công rực rỡ, những giải thưởng cao quý như vở “Sống mãi tuổi 17”(1979), “Cô gái đội mũ nồi xám”(1981),”Hồn Trương Ba da hàng thịt”(1981), “Nàng Sita”(1982), “Tôi và chúng ta”(1984), “Ông vua hóa hổ”(1985)...Trung bình một năm ông viết sáu vở kịch, chỉ tính riêng năm 1984 13 và 1988 ông sáng tác nhiều nhất gần chín vở một năm. Mỗi một tác phẩm được viết ra như một câu chuyện kể. Căn cứ vào cốt truyện có thể chia như sau: - Loại dựa vào một số tích cũ của dân gian viết lại như: Hồn Trương Ba da hàng thịt, Ông vua hóa hổ, Lời nói dối cuối cùng, Nàng Sita, Linh hồn của đá, Đam Săn... - Loại dựa vào một cốt truyện văn học để chuyển thành kịch như: Hẹn ngày trở lại, Đôi dòng sữa mẹ, Chết cho điều chưa có... - Loại sáng tác về đề tài hiện đại: Mùa hạ cuối cùng, Cô gái đội mũ nồi xám, Tôi và chúng ta, Nguồn sáng trong đời, Lời thề thứ chín... Loại sáng tác về đề tài đổi mới là chủ yếu trong gia tài đồ sộ của ông được đánh giá cao. Tuy nhiên loại viết dựa trên tích cũ, dân gian được đánh giá khá cao mặc dù số lượng không nhiều trong gia sản kịch của ông. Cứ năm năm một lần, sân khấu cả nước lại tụ họp đua tài đọ sức, các đoàn diễn ráo riết đi săn lùng kịch bản, Lưu Quang Vũ là tác giả được đặt hàng nhiều nhất. Vì thế cái tên Lưu Quang Vũ gây xôn xao dư luận qua hai kì hội diễn năm 1980 và 1985 để vinh dự trở thành “hiện tượng lạ sân khấu". Kiêm nhường và lặng lẽ dưới ánh đèn sân khấu đã đền đáp công sức của ông xứng đáng. Càng xem kịch của ông người ta càng vững tin hơn ở sự thức tỉnh lương tri mỗi con người. Phan Ngọc viết “người ta xem kịch là xem một cách lý giải mới về thân phận và diện mạo của những nhân vật trong kịch qua đó để lý giải diện mạo và thân phận của mình”[10, 265]. Bằng những chất liệu đời thường hầu như mỗi chúng ta đều thấy ông đã viết lên một vở kịch thâm thúy. Nhà nghiên cứu Ngô Thảo nhận định “khiêm nhường, không bị thế giới sân khấu ồn ào làm thay đổi, nếp sống không chớp nhoáng trước những thành công, gần như bao giờ Vũ cũng an phận làm một người lao động khổ sai. Tính cả nể không hiếu thắng Vũ cứ lặng lẽ sống, lặng lẽ làm việc....”[4,251]. Ông xứng đáng là tác gia hàng đầu làm nên diện mạo sân khấu kịch nước nhà trong thập kỉ 80 của thế kỉ XX, là cây đại thụ của sân khấu kịch nói, cái bóng ấy đến ngày nay chưa một tác giả nào đi hết, 14 vượt qua được. Với những đóng góp của mình năm 2000 ông được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật sân khấu. Đã mấy chục năm trôi qua, mỗi lần tiếp xúc với kịch Lưu Quang Vũ công chúng vẫn cảm nhận được sự cấp bách và tươi mới mà ông hằng thao thức. Nó vẫn có sức mạnh lay động hàng triệu trái tim con người. Bởi lẽ kịch của ông có những giá trị thiết thực, nhìn vào xã hội thu nhỏ trong các vở kịch này dù ở thời đại, hoàn cảnh nào chúng ta cũng nhận thấy sự tươi mới, những bài học đắt giá để học hỏi và rút kinh nghiệm. 15 CHƯƠNG 2. CÁC LOẠI HÌNH XUNG ĐỘT TRONG KỊCH BẢN DỰA TRÊN TÍCH TRUYỆN DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG VŨ Cha ông ta có câu “Có tích mới dịch nên tuồng”. “Tích” ở đây có thể hiểu là cốt truyện, phải có cốt truyện mới tạo dựng thành tác phẩm, sân khấu mới có kịch để diễn. Kịch của Lưu Quang Vũ thường được xây dựng trên một cốt truyện chắc chắn chủ yếu tập trung vào các vấn đề, các sự kiện quan trọng trong đời sống. Việc khai thác các mô típ dân gian dựa vào đó để viết kịch bản mang đậm dấu ấn cá nhân, phong cách của mình đã tạo cho kịch của ông một chiều sâu lí tưởng. Trong số hơn 50 vở kịch của ông, số lượng tác phẩm khai thác từ cốt truyện dân gian không nhiều nhưng hầu hết những vở kịch đó đều đạt đến hiệu quả nghệ thuật tương đối cao. Trước hết, Lưu Quang Vũ có khả năng tạo tình thế kịch đặc sắc. Tức là ông tạo ra các mâu thuẫn xung đột ở cấp độ khác nhau, phù hợp với hoàn cảnh tính cách nhân vật, đẩy kịch lên một tầng cao mới. Xung đột là những tình huống bất ngờ, không thể lường trước được, có khi là những tình huống sinh hoạt hàng ngày, những tình huống xa xưa được lưu truyền trong dân gian, nhưng vẫn đầy sức hấp dẫn riêng của nó. Nó khiến cho người đọc, người xem cuốn hút theo mọi tình tiết trong kịch bản không hề rời mắt, một sự hấp dẫn đến kì lạ, một ma lực lớn kéo người ta vào trong đó khó có thể thoát ra được. Lưu Quang Vũ thực sự rất có tài trong lĩnh vực này. Vì vậy các vở kịch của ông luôn được đông đảo khán giả đón nhận. Từ mâu thuẫn xung đột cá nhân, ông đã nâng lên thành tính khái quát trong các vở kịch mang vấn đề xã hội nhức nhối lúc bấy giờ, có tác dụng đến ngày nay. Xung đột trong các vở kịch nói chung và các vở viết dựa trên tích dân gian nói riêng tuy có nhiều nét tương đồng nhưng cũng có sự khác biệt. Các tác phẩm kịch dựa trên tích truyện dân gian chủ yếu là mâu thuẫn xung đột giữa thiện và ác, xung đột giữa sống và chết, xung đột nội tâm... Cũng từ các văn bản kịch chúng ta thấy được triết lý cuộc sống tác giả gửi gắm. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất