BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Trúc Linh
XUNG ĐỘT BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ
(TỪ 1962 ĐẾN NAY)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Trúc Linh
XUNG ĐỘT BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ
(TỪ 1962 ĐẾN NAY)
Chuyên ngành : Lịch sử Thế giới
Mã số
: 60 22 03 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGÔ MINH OANH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn
khoa học của PGS. TS. Ngô Minh Oanh
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, tính khách quan và có
nguốn gốc xuất xứ rõ ràng.
Tác giả
Nguyễn Thị Trúc Linh
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của quý thầy cô, các anh chị và các bạn cùng học, của gia
đình và đồng nghiệp. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi xin được bày tỏ lời
cảm ơn chân thành tới:
Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học, Khoa Lịch sử, Thư viện Trường Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập và hoàn thành luận văn.
Phó giáo sư - Tiến sĩ Ngô Minh Oanh , người thầy đã hết lòng dạy bảo, động
viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành
luận văn tốt nghiệp.
Xin gửi lời cảm ơn tới quý thầy cô trong Khoa Lịch sử Trường Đại học sư
phạm TP. Hồ Chí Minh, đặc biệt là các thầy cô trực tiếp giảng dạy lớp Cao học Lịch
sử thế giới khóa 23 đã có những thông cảm, động viên để tôi hoàn thành quá trình học
tập và luận văn tốt nghiệp này.
Xin gửi lời cảm ơn tới các anh chị, các bạn trong lớp Cao học Lịch sử thế giới
khóa 22, 23 đã động viên và giúp đỡ tôi trong học tập và trong những lúc tôi gặp khó
khăn.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn các anh chị đồng nghiệp và gia đình đã luôn
tạo điều kiện và luôn bên cạnh động viên, giúp đỡ tôi trong học tập cũng như trong
công việc và cuộc sống để tôi có thể hoàn thành luận văn này./.
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan ................................................................................................................... 1
Lời cảm ơn ....................................................................................................................... 2
MỤC LỤC ....................................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 1
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TRUNG QUỐC, ẤN ĐỘ VÀ CÁC VÙNG
TRANH CHẤP LÃNH THỔ GIỮA HAI NƯỚC ...................................................... 7
1.1. Khái niệm Xung đột ..............................................................................................7
1.2 Những nhân tố chi phối mối quan hệ biên giới Trung - Ấn...................................7
1.2.1. Khái quát quan hệ Trung Quốc – Ấn Độ trước năm 1962 .............................7
1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc giải quyết mâu thuẫn về biên giới Trung Ấn..............................................................................................................................8
1.3. Các vùng tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Ấn Độ.................................19
1.3.1. Kashmir.........................................................................................................20
1.3.2. Aksai Chin ....................................................................................................23
1.3.3. Arunal Pradesh..............................................................................................24
1.4. Lịch sử tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc – Ấn Độ .....................................25
Chương 2. XUNG ĐỘT BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ TỪ 1962 ĐẾN
1987 ............................................................................................................................... 39
2.1. Cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ 1962 ......................................39
2.1.1. Ấn Độ và chính sách “Tiến về phía trước”...................................................40
2.1.2. Cuộc đối đầu của quân đội hai bên tại Thag La ...........................................41
2.1.3. Những động thái của Trung Quốc trước cuộc chiến ....................................43
2.1.4. Những động thái của Ấn Độ trước cuộc chiến .............................................46
2.1.5. Diễn biến cuộc chiến tranh biên giới 1962 ...................................................48
2.1.6. Hệ quả của cuộc chiến tranh biên giới 1962.................................................52
2.2. Sự xung đột và ổn định sau năm 1962 ................................................................58
2.2.1. Đụng độ của quân đội hai nước ở Nathu La .................................................58
2.2.2. Cuộc giao tranh giữa Trung Quốc và Ấn Độ 1987.......................................59
Chương 3. XUNG ĐỘT BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ TỪ 1987 ĐẾN
NAY VÀ NỖ LỰC TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI
TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ............................................................................................ 65
3.1. Những cố gắng cải thiện quan hệ của hai bên sau chiến tranh ...........................65
3.1.1. Từ sau chiến tranh đến những năm 90..........................................................65
3.1.2. Mối quan hệ biên giới Trung Quốc - Ấn Độ sau chiến tranh lạnh ...............67
3.1.3. Quan hệ hòa dịu và mâu thuẫn của hai nước đầu thế kỉ 21 ..........................69
3.1.4. Những hoạt động trong những đầu thập kỉ thứ hai của thế kỉ XXI ..............72
3.2. Một số động thái mới nhất trên biên giới Ấn Độ - Trung Quốc ........................74
3.3. Triển vọng của mối quan hệ Trung Quốc – Ấn Độ ...........................................82
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 90
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
PLA:
(People`s Liberation Army) Là lực lượng vũ trang chủ yếu của Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa. Đây là quân thường trực lớn nhất thế giới và bao gồm
các lực lượng: Lục quân, hải quân, không quân, và lực lượng hạt
nhân.Trong chiến tranh thì cảnh sát vũ trang sẽ là nhánh thứ 5 của Quân
Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
LOC:
(Line Of Control): Đường kiểm soát biên giới giữa Ấn Độ và Pakistan,
được công nhận sau Hiệp định Simla 1972.
LAC:
(Line of Actual Control) là đường biên giới trên thực tế giữa hai quốc gia
láng giềng Trung - Ấn, kéo dài khoảng 4.000km dọc dãy núi Himalaya.
NEFA:
(The North-East Frontier Agency) là cơ quan biên giới vùng Đông Bắc đã
được đặt lại tên là Arunachal Pradesh vào năm 1972.
DBO:
(Daulat Beg Oldi) là một trại và căn cứ quân sự nằm trên tuyến đường
thương mại cổ xưa nối Ladakh Uyghuristan
IMF:
(International Monetary Fund) Quỹ tiền tệ quốc tế là một tổ chức quốc
tế giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng theo dõi tỷ giá hối đoái và cán
cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài chính khi có yêu
cầu. Trụ sở chính của IMF đặt ở Washington, D.C., thủ đô của Hoa Kỳ.
ASEAN: (Association of Southeast Asian Nations) Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á là một liên minhchính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia
trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8 tháng 8
năm 1967.
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại đã trải qua thế kỷ XX với nhiều biến động sâu sắc trong đời sống chính
trị quốc tế. Một thế kỷ đánh dấu sự đảo lộn của thế giới với nhiều cuộc xung đột mạnh
mẽ giữa các cường quốc trên thế giới trong hai cuộc Thế chiến cũng như những tranh
chấp cục bộ giữa các nước với nhau, mà nổi bật trong đó chính là cuộc chiến tranh
biên giới Trung Quốc - Ấn Độ.
Mọi quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc đều bị chi phối bởi vấn đề biên giới vẫn
chưa giải quyết từ hơn 50 năm nay. Trung Quốc và Ấn Độ giáp nhau trên 3 550 cây
số, được phân cách bởi dãy núi Himalaya hiểm trở và vùng cao nguyên Tây Tạng.
Trong nhiều thế kỷ, Tây Tạng là vùng đệm giữa hai nước. Sau khi Trung Quốc chiếm
Tây Tạng năm 1950, hai vùng đệm hiện nay là hai nước Nepal và Bhutan, nằm ở phía
nam dãy Himalaya. Ba khu vực ngày nay vẫn là điểm nóng của sự xung đột giữa Ấn
Độ và Trung Quốc: Aksai Chin ở tụ điểm của biên giới ba nước Pakistan, Ấn
Độ và Trung Quốc, Arunachal Pradesh, ở sát biên giới Đông Bắc của Ấn Độ
và Kashmir, ở Tây Bắc Ấn Độ. Cuộc chiến tranh Trung- Ấn năm 1962 là hệ quả xuất
phát từ những bất đồng của hai nước vốn có từ trước, và dường như rằng đó là một
đòn đánh cảnh cáo mà Trung Quốc dành cho Ấn Độ vì những động thái can dự vào lợi
ích quốc gia của họ ở vùng Tây Tạng, Aksai Chin và bang Arunachal Pradesh.
Trung Quốc và Ấn Độ là hai cường quốc hùng mạnh ở châu Á, đây là hai trong
những cái nôi của nền văn minh nhân loại. Trong suốt chiều dài lịch sử, giữa hai
cường quốc này đã tồn tại nhiều tranh chấp và bất đồng về lãnh thổ, mà đỉnh điểm là
cuộc xung đột biên giới năm 1962 đã gây nên biết bao tổn thất về người và của cho cả
hai nước. Cuộc xung đột này khởi nguồn từ việc tranh chấp biên giới chung vốn đã
được người Anh và người Tây Tạng ấn định năm 1914, chính vì vậy hai bên đã cùng
tạo ra cho nhau những ký ức cay đắng và nó như là một vết hằn sâu trong mối quan hệ
giữa hai nước từ lúc đó đến nay.
Cuộc chiến tranh Trung Ấn đáng chú ý vì đây là cuộc chiến sơn cước quy mô lớn
ở độ cao trên 4250 mét, đặt ra nhiều vấn đề hậu cần cho cả hai bên tham chiến. Cuộc
2
chiến cũng đáng ghi nhớ bởi việc cả hai bên không sử dụng không quân hay hải quân
tham chiến.
Hệ quả của cuộc chiến là Ấn Độ thay đổi toàn diện quân đội để chuẩn bị cho các
xung đột tương tự trong tương lai và đã đặt áp lực lên Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal
Nehru, người bị cho là chịu trách nhiệm vì đã không tiên liệu cuộc xâm lấn của Trung
Quốc.
Bước vào thế kỷ XXI, với xu thế toàn cầu hóa, hai nước xác định lấy mục đích
phát triển kinh tế là quan trọng nhất cũng như sự đan xen giữa các lợi ích quốc gia
song trùng đã xích hai nước lại gần nhau hơn và từ đây, chính sách đối ngoại giữa hai
nước bắt đầu có những thay đổi mạnh mẽ. Nhờ đó quan hệ song phương đã không
ngừng đạt được những thành tựu đáng kể, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại giao và kinh tế
thương mại. Tuy nhiên, dường như mối quan hệ mập mờ này vẫn còn đó những thách
thức mà hai nước vẫn cần phải giải quyết để đạt được sự đồng thuận và tạo nên môi
trường hòa bình trong khu vực đầy rẫy nhưng bất ổn về chính trị này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu của các tác giả trong nước:
-
Sách: Epghenhi Xtepanop V.I , Hữu Duy Anh (dịch)(1982), Biên giới Trung
Quốc từ chủ nghĩa bành trướng cổ truyền đến chủ nghĩa bá quyền ngày nay,
Nxb Thông tấn xã Nô-vô-xti, Mát-xco-va.
Cuốn sách được xuất bản năm 1982 miêu tả chi tiết về mối quan hệ từ thời phong
kiến đến những năm 1975 của các quốc gia có chung đường biên giới với Trung Quốc.
Đặc biệt tác phẩm làm rõ những âm mưu bành trướng lãnh thổ và quyền lực của Trung
Quốc trong suốt một giai đoạn lịch sử. Tác giả sử dụng chương 3 trong tác phẩm để
làm rõ lịch sử tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Ấn Độ, nhằm làm rõ những
mâu thuẫn từ trong quan điểm của hai bên qua những giai đoạn lịch sử khác nhau.
-
Sách: Nguyễn Thừa Hỷ (1986), Ấn Độ qua các thời đại, Nxb Giáo dục.
Cuốn sách cung cấp một cách nhìn toàn diện về lịch sử Ấn Độ qua các giai đoạn.
Trong đó tác giả đặc biệt khai thác điều kiện địa lý và lịch sử Ấn Độ từ sau năm 1947
nhằm làm rõ mối quan hệ Trung - Ấn trong cùng điều kiện lịch sử.
3
-
Bài báo: Đỗ Tuyết Khanh (2007), “Quan hệ hợp tác cạnh tranh giữa Trung
Quốc và Ấn Độ trong thế giới đa cực’’, Tạp chí Thời đại mới, số 12-tháng
11/2007, tr.41-62.
Bài báo cung cấp cho chúng ta biết sự trỗi dậy đồng thời của cả Trung Quốc và Ấn
Độ trong mười năm trở lại đây gây ra mối quan tâm của cả cộng đồng quốc tế, đặc biệt
là các quốc gia trong khu vực Châu Á. Mặc dù đụng độ nhau trong lịch sử, nhưng lãnh
đạo hai nước luôn tìm kiếm các giải pháp hòa bình để tạo điều kiện cho hai quốc gia
cùng hợp tác phát triển. Trong xu thế mới của thế giới, mối quan hệ này bị chi phối bởi
nhiều nhân tố. Những nhân tố này sẽ được đề cập đến trong luận văn.
Nghiên cứu của các tác giả ngoài nước:
- Sách: Jabin T Jacob (2011), The Sino-Indian Boundary Dispute: Sub-National
Units as Ice-Breakers, Slavic Research Center (SRC).
Tranh chấp biên giới Trung Quốc-Ấn Độ là một trong những tranh chấp còn tồn
tại lâu đời làm ảnh hưởng tới mối quan hệ của 2 quốc gia trong khu vực và trên diễn
đàn quốc tế. Tác phẩm này đã đề cập tới nguồn gốc của sự tranh chấp: là từ thời kỳ
thuộc địa Anh dưới cân nhắc về địa chính trị của " Great Game ", nơi mà Tây Tạng đã
được sử dụng như một bộ đệm giữa Ấn Độ thuộc Anh và người Nga với ít hoặc không
có suy nghĩ quan điểm của Trung Quốc về vấn đề này. Tranh chấp có hai phần chính ở phía đông bắc của Ấn Độ và ở phía tây bắc của Ấn Độ
Bài viết:
Five Decades of China’s War on India in 1962: Current
Contextualisation, Centre for Land Warfare StudieS (CLaWS), No. 30, January 2013.
Bài báo đề cập đến một trong những khía cạnh của cuộc xung đột biên giới
Trung Quốc – Ấn Độ. Trong đó đặc biệt nhắc đến những quốc gia có liên quan tới
cuộc xung đột này là Liên Xô, Pakixtan. Tuy không trực tiếp tham chiến nhưng 2 quốc
gia này có lien quan rất nhiều tới nguyên nhân dẫn đến chiến tranh biên giới 1962 giữa
Trung Quốc và Ấn Độ.
Sách: David A. Anderson and Isabel Geiger (2010), Sino-Indian Trade
Relations and the Ongoing Border Dispute, China & Eurasia Forum
Quarterly, Vol. 8 Issue 4, p125.
4
Từ khi xảy ra chiến tranh biên giới 1962, dường như vấn đề này đã ảnh hưởng
toàn diện đến mọi vấn đề liên quan tới mối quan hệ giữa hai nước. Ngày nay, quan hệ
kinh tế giữa Ấn Độ và Trung Quốc đang nhanh chóng nổi lên như một trong những
mối quan hệ song phương quan trọng nhất trên thế giới. Thế nhưng mối quan hệ này
ngày càng phức tạp và mỏng manh được đánh dấu kể từ khi xảy ra cuộc xung đột đã
hơn 50 năm tuổi đã từng làm mối quan hệ kinh tế của hai nước trong tình trạng rạn nứt
và thậm chí chấm dứt. Tranh chấp lãnh thổ này đã nán lại quá lâu. Mặc dù cả hai quốc
gia hiện đang sẵn sàng bỏ qua sự khác biệt biên giới của họ vì lợi ích của lợi ích kinh
tế , sự chậm trễ trong việc giải quyết vấn đề này có khả năng gây phản tác dụng trong
tương lai gần. Mục đích của bài viết này là để đưa ra ánh sáng bối cảnh lịch sử hình
thành tranh chấp , làm nổi bật lý do có thể cho việc thiếu tiến bộ, và xác định các triển
vọng khả năng nếu không được giải quyết.
- Sách: Rup Narayan Das, Idsa Monograph (2013), India-China Relations A New
Paradigm, Series No. 19.
Đây là tác phẩm giới thiệu về mối quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc từ trong quá khứ
tới hiện tại. Trong chương II, tác phẩm đề cập đến nguyên nhân xảy ra cuộc xung đột
biên giới Trung Quốc- Ấn Độ 1962. Bên cạnh đó, tác phẩm còn đề cập đến những mâu
thuẫn từ sau cuộc xung đột 1962 về các vấn đề lien quan đến kinh tế, chính trị giữa hai
nước mà thực chất đều ảnh hưởng từ cuộc xung đột này.
-
Ngoài ra là những công trình có liên quan nhiều đến nguyên nhân và hậu quả do
cuộc xung đột để lại như: A.G. Noorani (2003), "Fact of History", India's National
Magazine; Calvin James Barnard (1984), "The China-India Border War", Marine
Corps Command and Staff College; Garver, John W. “China’s Decision for War With
India in 1962”, in Robert S. Ross and Alastair Iain Johnston (2006), New Directions in
the Study of Chinese Foreign Policy, California: Stanford University Press.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài góp phần vào việc nghiên cứu các mâu thuẫn, các vùng tranh chấp cùng các
tranh chấp biên giới đã xảy ra, cùng những xung đột trong việc tranh giành lãnh thổ
giữa Trung quốc và Ấn Độ.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5
a. Đối tượng nghiên cứu
Xung đột biên giới giữa Trung Quốc và Ấn Độ từ năm 1962 cho đến năm 2014.
b. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt không gian:
Luận văn nghiên cứu về các vùng tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc và Ấn Độ,
các khu vục có liên quan trong quá trình tranh chấp giữa hai bên cũng được đề cập.
- Về mặt thời gian:
Tác giả nghiên cứu về các mâu thuẫn tranh chấp trong suốt tiến trình lịch sử của
Trung Quốc và Ấn Độ từ năm 1962 đến 2014.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài người viết chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương
pháp logic. Phuơng pháp lịch sử được dùng để chọn lọc xử lý, sắp xếp tài liệu theo tiến
trình thời gian nhằm khắc hoạ những xung đột tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và
Ấn Độ. Đặt cuộc xung đột Trung - Ấn trong bối cảnh quốc tế và khu vực.
Kế đó phương pháp logic được sử dụng kết hợp với phương pháp lịch sử để làm
nổi bật mức độ của cuộc xung đột và tranh chấp lãnh thổ nhằm đưa ra những nhận
định, đánh giá có tính khái quát.
Ngoài ra người viết cũng sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu để tìm ra điều
cốt lõi của vấn đề nghiên cứu thông qua việc tập hợp, xử lý tài liệu từ nhiều nguồn.
Cơ sở phương pháp luận là Chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
6. Nguồn tài liệu
Dựa trên nhà nước nguồn sử liệu thu thập của các tác giả Việt Nam và thế giới, do
vậy nguồn tài liệu chủ yếu là tiếng Việt và tiếng Anh.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả nghiêm túc kế thừa không chỉ tư liệu mà
cả về lý luận của các công trình đi trước có liên quan đến đề tài. Nguồn tư liệu bao
gồm: sách, báo, tạp chí, các luận văn Cao học được lưu trữ tại Thư viện trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện Khoa học Tổng Hợp, Thư viện
trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn.
Một nguồn tài liệu cũng rất có giá trị mà tác giả đã sử dụng là các nguồn tài liệu từ
Internet, những bài viết bằng tiếng Anh mà tác giả tự dịch.
6
7. Đóng góp của luận văn
Đề tài: “Xung đột biên giới Trung Quốc - Ấn Độ từ 1962 đến nay” đi sâu nghiên
cứu tiến trình tranh chấp lãnh thổ giữa hai quốc gia này, những mâu thuẫn, những
vùng tranh chấp, và những cuộc chiến tranh lớn bùng nổ từ năm 1962 đến 2014.
Qua đó luận văn lên án xung đột và có những đánh giá, nhận xét về quá trình xung
đột. Đồng thời, tác giả hy vọng luận văn sẽ cung cấp thêm những tư liệu về vấn đề này
đối với những người quan tâm.
8. Bố cục luận văn
Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo thì Luận văn có 3 phần chính:
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TRUNG QUỐC, ẤN ĐỘ VÀ CÁC VÙNG
TRANH CHẤP LÃNH THỔ GIỮA HAI NƯỚC
Chương 2: XUNG ĐỘT BIÊN GIỚI TRUNG - ẤN TỪ NĂM 1962 ĐẾN
NĂM 1987
Chương 3: XUNG ĐỘT BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ TỪ NĂM
1987 ĐỀN NAY VÀ NHỮNG NỖ LỰC TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI VÀ TRUNG - ẤN
7
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TRUNG QUỐC, ẤN ĐỘ VÀ CÁC
VÙNG TRANH CHẤP LÃNH THỔ GIỮA HAI NƯỚC
1.1. Khái niệm Xung đột
Trong các khái niệm về xung đột, thường không có sự khác nhau về nhiều mặt
nội dung. Trong quan hệ quốc tế có hai khái niệm tương đối phổ biến:
Khái niệm thứ nhất: xung đột là sự khác nhau về kết quả mong muốn trong một
tình huống mặc cả nào đó.
Khái niệm thứ hai: xung đột là một tình trạng xã hội nảy sinh khi hai hay nhiều
chủ thể cùng theo đuổi những mục đích riêng biệt hay trái ngược nhau.
Xung đột quốc tế là sự tương tác có tính cưỡng bức, được thể hiện rõ giữa các
quốc gia, các cộng đồng đối kháng với nhau. Đó là quá trình các bên xung đột tìm
cách làm tổn hại, gián đoạn hoạt động hoặc tiêu diệt lẫn nhau. Xung đột quốc tế mang
tính rất đa dạng, biểu hiện ở nhiều hình thức khác nhau. Có thể là chiến tranh thế giới,
chiến tranh khu vực, chiến tranh giữa hai quốc gia hoặc trong lòng một quốc gia có sự
can thiệp, hậu thuẫn của các lực lượng bên ngoài, hoặc cũng có thể là những cuộc bạo
động, chính biến, những cuộc khủng hoảng chính trị, ngoại giao, quân sự, tranh chấp
biên giới, lãnh thổ, những bất đồng quan điểm, các cuộc chạy đua tranh giành ảnh
hưởng.
Tranh chấp về lãnh thổ là nguyên nhân phổ biến và khó giải quyết nhất trong
quan hệ giữa các quốc gia. Lãnh thổ, biên giới quốc gia liên quan đến không gian sinh
tồn và phát triển đất nước, là yếu tố quan trọng nhất đối với mọi quốc gia. Vấn đề biên
giới, lãnh thổ cũng thường gắn với quá trình lịch sử lâu dài, phức tạp trong quan hệ các
nước, cộng đồng dân tộc.
1.2 Những nhân tố chi phối mối quan hệ biên giới Trung - Ấn
1.2.1. Khái quát quan hệ Trung Quốc – Ấn Độ trước năm 1962
Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước lớn, cùng có quá khứ hiển hách, cùng tự hào là
có mấy ngàn năm văn hiến, là cái nôi của nhân loại. Hai ví dụ thường được nêu lên
cho mối bang giao của họ từ những thế kỉ xa xưa là sự lan truyền của đạo Phật từ Ấn
Độ sang Trung Hoa và con Đường Tơ lụa.
8
Thực tế thì trong những thế kỉ trước Ấn Độ và Trung Quốc rất ít quan hệ vì địa lý
cản trở. Chỉ khi hai nước giành độc lập và thoát khỏi ách bang giao cùng thời điểm thì
mối quan hệ ngoại giao mới bắt đầu có những dấu ấn.
Ấn Độ là nước có quan hệ ngoại giao ngoài hệ thống các nước XHCN đầu tiên
của Trung Quốc. Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, Trung Quốc đã
coi Ấn Độ là trọng điểm ngoại giao láng giềng của mình. Thời kỳ này, hai nước đã
cùng phối hợp trong mục tiêu chống đế quốc, chống chiến tranh, đoàn kết các nước ÁPhi, bảo vệ hòa hình thế giới [75].
Tháng 6/1950, khi Mỹ thao túng Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, thông qua
Nghị quyết về cuộc chiến tranh Triều Tiên, Ấn Độ đã tuyên bố ủng hộ Trung Quốc,
đồng thời chủ trương khôi phục địa vị hợp pháp của Trung Quốc tại tổ chức này. Vì
vậy, Trung Quốc rất coi trọng vai trò của Ấn Độ. Đêm trước khi đưa quân sang viện
trợ nhân dân Triều Tiên chống Mỹ, Thủ tướng Chu Ân Lai đã thông qua Đại sứ Ấn Độ
tại Bắc Kinh, nhờ Ấn Độ thông báo cho Mỹ: nghiêm khắc cảnh báo Mỹ không được
xâm lược Triều Tiên, nếu không Trung Quốc cũng buộc phải tham chiến. Khi Liên
Hợp Quốc thông qua Nghị quyết cho rằng Trung Quốc xâm lược thì ngay lập tức Ấn
Độ lên tiếng phản đối. Về sau, Ấn Độ có vai trò thúc đẩy Hội nghị Gionevo đình
chiến ở Đông Dương, Liên Xô và Trung Quốc đã tích cực đề nghị Ấn Độ là đồng Chủ
tịch của Ủy ban giám sát đình chiến.
Nhưng bắt đầu từ năm 1959, hàng loạt động thái của hai bên có liên quan đến
khu vực biên giới chung đã làm mối quan hệ của Trung Quốc và Ấn Độ ngày càng xấu
đi mà đỉnh điểm là vụ xung đột biên giới năm 1962.
1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc giải quyết mâu thuẫn về biên giới
Trung - Ấn
Chia tách giữa Ấn Độ và Trung Quốc là dãy núi Himalaya . Đối với Ấn Độ,
Nepal và Bhutan là những quốc gia đệm ở khu vực biên giới Đông Bắc và Tây Bắc
giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Bang miền núi Sikkim là tấm đệm thứ 3 giữa hai quốc gia
và chính phủ của cựu Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi đã tìm cách đưa toàn bộ bang
này vào Ấn Độ. Khi các cuộc bạo loạn chống chế độ quân chủ bùng nổ tại Sikkim năm
1973, do lo ngại Trung Quốc có thể nhảy vào và đòi đây là một phần của Tây Tạng
9
nên Ấn Độ đã sử dụng tổng hợp chiến thuật chính trị và quân sự để thuyết phục vị vua
cuối cùng của Sikkim chấp nhận Sikkim là bang thứ 23 của Ấn Độ. Điều này giúp
New Delhi có thêm đòn bẩy đối với Trung Quốc thông qua việc hỗ trợ các phần tử Tây
Tạng ly khai đang sống tại Sikkim. Có rất nhiều tranh chấp lãnh thổ dọc đường biên
giới Ấn Độ - Trung Quốc. Trung Quốc có lãnh thổ rộng lớn trong khu vực Kashmir, ở
phía Tây Bắc của Ấn Độ, tại 3 khu vực là Thung lũng Shaksgam, Aksai Chin và
Demchok. Bắc Kinh cũng tuyên bố chủ quyền một phần đáng kể của khu vực hình
thành nên vành đai Đông Bắc của Ấn Độ - bang Arunachal Pradesh.
1.2.2.1. Biên giới Ấn Độ - Trung Quốc luôn trong tình trạng căng thẳng.
Dãy Himalaya đã ngăn chặn hiệu quả, không cho Ấn Độ và Trung Quốc thực
hiện được hoạt động quân sự đáng kể nào chống lại nhau. Tuy nhiên, điều này không
loại bỏ hoàn toàn được những căng thẳng. Hơn 6 thập kỷ qua, tại Ấn Độ, thường
xuyên có những phản đối về các mối đe dọa tiềm tàng từ Quân giải phóng nhân dân
Trung Quốc (PLA) ở nhiều khu vực dọc theo sườn phía Bắc của Ấn Độ (các bang
Himachal Pradesh và Uttarakhand, nằm giữa Nêpan và Kashmir dọc biên giới với
Trung Quốc, cũng bị xem là có nguy cơ bị quân đội Trung Quốc xâm nhập). Trong
những năm gần đây, mối đe dọa này đã dẫn đến việc New Delhi tăng cường phòng thủ
quân sự trong mối quan hệ với Bắc Kinh. Các quan chức tại bang Arunachal Pradesh
của Ấn Độ thỉnh thoảng khẳng định rằng Trung Quốc đang xây dựng quân đội ở phía
bên giới của họ. Những tuyên bố này thường theo sau bởi những báo cáo nêu bật
những nỗ lực của Ấn Độ nhằm tăng cường an ninh bên phía mình và coi Trung Quốc
là thù địch. Các nguồn tin của Trung Quốc cho biết rằng cái đang diễn ra trong những
trường hợp này là việc các quân đoàn công binh Trung Quốc thường kỳ xây dựng các
công trình có mục đích phòng thủ, nhưng Ấn Độ lại coi như là những động thái tấn
công. Làm trầm trọng thêm những căng thẳng này là những cáo buộc rằng nước này
đang hỗ trợ cho những phần tử nổi loạn ở nước kia. Ấn Độ thì khẳng định rằng Trung
Quốc đang hỗ trợ nhiều nhóm nổi dậy khác nhau ở các bang Đông Bắc của Ấn Độ như
Assam, Nagaland, Mizoram, Tripura và Meghalaya. Trong khi đó thì Trung Quốc chỉ
trích Ấn Độ về việc cung cấp chỗ trú ẩn cho các phần tử ly khai Tây Tạng. Ngoài
những cáo buộc và các biện pháp chuẩn bị quân sự này, biên giới của Ấn Độ với
10
Trung Quốc vẫn bình yên trong 50 năm qua, ngoại trừ các sự cố hiếm hoi và nhỏ lẻ.
Điều này khó có khả năng thay đổi trong tương lai gần [65].
1.2.2.2. Yếu tố Pakixtan trong quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc
Việc lo ngại bị Trung Quốc bao vây đã tác động đến tư duy của các chiến lược
gia và các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ. Phần quan trọng của tư duy này liên
quan đến mối quan hệ đồng minh giữa Trung Quốc và Pakixtan - nước láng giềng đối
thủ ở phía Tây của Ấn Độ. Trung Quốc đã sử dụng sự thù địch giữa Ấn Độ và
Pakixtan làm đòn bẩy chống lại New Delhi. Hợp tác quân sự và trợ giúp kinh tế cho
Ixlamabát đã cho phép Trung Quốc thiết lập sự hiện diện đáng kể tại Pakixtan. Đối với
Niu Đêli, sự tham dự của Trung Quốc vào việc phát triển hành lang giao thông ở khu
vực Gilgit-Baltistan, Đông Bắc Pakixtan, mà Pakixtan đã giành được trong cuộc chiến
tranh 1948 tại khu vực Kasmir, đã giúp nâng cao vị thế của Pakixtan tại vùng lãnh thổ
tranh chấp này. Trong những năm gần đây, Niu Đêli đã cáo buộc rằng Pakixtan đã cho
phép 11.000 quân PLA vào đồn trú tại Gilgit-Baltistan. Trung Quốc có thể muốn sử
dụng toàn bộ chiều dài lãnh thổ Pakixtan làm cầu nối cho hàng xuất khẩu và quan
trọng hơn là nhập khẩu. Khả năng này sẽ giúp Trung Quốc tránh các tuyến đường biển
giữa vùng biển phía Đông và phía Nam chạy qua eo biển Malacca và Ấn Độ Dương.
Đây là một bước đi quan trọng giúp việc nhập khẩu năng lượng của Trung Quốc từ
Trung Đông trở nên bảo đảm hơn. Bắc Kinh có thể thực hiện được điều này nếu họ có
thể thiết lập một hành lang giao thông tốt và an toàn giữa đèo Khunjerab ở biên giới
Pakixtan - Trung Quốc và cảng Gwadar ở Biển Arập (một cơ sở Trung Quốc đã giúp
xây dựng). Tuy nhiên, những trở ngại về kỹ thuật và tài chính, cũng như các vấn đề về
an ninh, khí hậu và địa chất, đã ngăn cản Trung Quốc xây dựng cơ sở hạ tầng đường sá
và đường sắt dọc toàn bộ chiều dài lãnh thổ Pakixtan. Do sự rối loạn trong nước của
Pakixtan và việc NATO sẽ rút quân khỏi Ápganixtan, về lâu dài, Bắc Kinh sẽ chỉ đạt
được một phần nhỏ trong tham vọng này. Tuy nhiên, cảng Gwadar lại có giá trị hàng
hải rất lớn đối với Bắc Kinh và có thể là một cảng hải quân quan trọng của Trung
Quốc ở phía Tây Bắc của Ấn Độ Dương [22].
Mặc dù có sự can dự của Trung Quốc vào Pakixtan, nhưng vẫn có nhiều khó
khăn trong việc sử dụng sự can dự đó để chống lại Ấn Độ. Sự bất ổn tại Pakixtan và
11
các phần tử vũ trang Hồi giáo quốc tế đóng tổng hành dinh tại đó đã biến Pakixtan
thành một gánh nợ hơn là một tài sản. Quan hệ Trung Quốc - Pakixtan cũng bị ảnh
hưởng bởi vai trò của Mỹ ở Nam Á và Bắc Kinh phải cân bằng những cam kết của
mình với Ixlamabát và mối quan hệ với Oasinhtơn. Trung Quốc cũng không sẵn sàng
hoặc không thể đảm nhận một vai trò tại Pakixtan, về mặt tài chính hoặc chính trị, như
Mỹ. Quan trọng hơn, nhu cầu địa chính trị của Trung Quốc không chỉ dừng lại ở
Pakixtan. Sự thay đổi kinh tế chính trị của Trung Quốc trong những thập kỷ gần đây
đã buộc Bắc Kinh phải chuyển đổi từ cường quốc đất liền sang cường quốc biển. Nhu
cầu ngày càng tăng về năng lượng và các nguồn tài nguyên khác để nuôi bộ máy công
nghiệp và do lĩnh vực xuất khẩu yêu cầu các tuyến đường vận chuyển từ bờ biển của
Trung Quốc đến châu Phi và Trung Đông, Trung Quốc phải thiết lập và tăng cường sự
hiện diện của mình ở Ấn Độ Dương cho phù hợp. Mặc dù sẽ mất thời gian để Trung
Quốc có thể xây dựng năng lực hải quân, nhưng Trung Quốc đã bắt đầu phát triển các
tiền đồn ảnh hưởng trên khắp Ấn Độ Dương. Mặc dù trong nhiều trường hợp Trung
Quốc cung cấp tài chính cho hoạt động xây dựng các cảng này, các dự án này tại
Myanmar, Bangladesh, Sri Lanka, Maldives và những nơi khác cũng là nguồn thu tiềm
năng cho các công ty xây dựng của Trung Quốc. Tuy nhiên, việc bị xâm nhập vào
sườn phía Nam này đã làm trầm trọng thêm sự lo ngại của Ấn Độ đối với Trung Quốc
trong vấn đề an ninh [67].
1.2.2.3. Vấn đề Kashmir trong quan hệ Trung - Ấn
Kashmir vừa là nhân tố bên ngoài vừa vừa nhân tố bên trong có ảnh hưởng đến
quan hệ Trung - Ấn. Kashmir là vùng đất tranh chấp từ lâu chủ yếu giửa Ấn Độ và
Pakistan. Lãnh thổ Kashmir trở thành một điểm nóng khi Ấn Độ và Pakistan được tự
trị vào tháng 8 năm 1947. Theo kế hoạch chia cắt lãnh thổ trong Luật độc lập Ấn Độ
năm 1947, Kashmir được tự do chọn lựa hoặc sát nhập vào lãnh thổ Ấn Độ, hoặc vào
lãnh thổ Pakistan. Hoàng tử Hari Singh của Kashmir lúc đầu muốn độc lập nhưng cuối
cùng nhưng cuối cùng đã quyết định sát nhập Kashmir vào lãnh thổ Ấn Độ, giao
quyền lực cơ bản của vùng đất này cho Chính phủ Ấn Độ, và đổi lại vùng đất này nhận
được sự hỗ trợ về quân sự và một cuộc trưng cầu dân ý, Islamabad cho rằng Kashmir
đáng lẽ đã thuộc về Pakistan năm 1947, bởi vì người Hồi giáo chiếm đa số ở Kashmir,
12
Pakistan cũng cho rằng sau một loạt nghị quyết của Liên Hợp Quốc về vấn đề
Kashmir, người dân ở đây cần được bỏ phiếu đề quyết định tương lai của họ. Tuy
nhiên, New Delhi lại khẳng định người Kashmir không muốn có sự can thiệp của cộng
đồng quốc tế vào vấn đề riêng của họ, dẫn chứng mà New Delhi đưa ra là Hiệp ước
Simla năm 1972 – hiệp ước đó đưa đến một giải pháp qua đàm phán song phương mà
không cần có sự tham gia của cộng đồng quốc tế. Ấn Độ cũng đề cập đến Văn kiện gia
nhập mà Hoàng tử Hari Singh ký năm 1947.
Kể từ sau quyết định của Hoàng tử Hari Singh, Kashmir trở thành một điểm
nóng, với hai cuộc chiến tranh lớn giữa quân đội và Pakistan năm 1947-1948 và năm
1965. Sau khi cuộc chiến tranh đầu tiên ở Kashmir kết thúc vào tháng 1/1949, một
đường ranh giới đã được dựng lên chia cắt Kashmir thành hai vùng Kashmir – Ấn Độ
và Kashmir – Pakistan. Vào tháng 7/1972, Hiệp ước Simla đã quy định một đường
ranh giới chính thức gọi là ranh giới kiểm soát. Về cơ bản đường ranh giới kiểm soát
này giống với đường ranh giới năm 1949, chạy qua vùng núi non cao 5.000m. Ở vùng
núi này, điều kiện thời tiết rất khắc nghiệt, cái lạnh khủng khiếp làm chết rất nhiều
người. Ở phía bắc của đường ranh giới, từ năm 1984, các lực lượng của hai bên đã xây
căn cứ trên núi bang Siachen cao hơn 6.000m. Ranh giới kiểm soát chia cắt Kashmir
thành hai phần: phần thuộc về Ấn Độ nằm ở phía Đông và phía Nam Kashmir với dân
số khoảng 9 triệu người, thuộc bang Jammu và bang Kashmir; phần còn lại ở phía Bắc
và phía Tây do Pakistan kiểm soát, dân số khoảng 3 triệu người, được gọi là vùng
Kashmir Azad (Kashmir tự do). Trung Quốc cũng kiểm soát một phần nhỏ lãnh thổ
Kashmir được Pakistan nhượng lại từ năm 1963. Tôn giáo đóng vai trò quan trọng
trong vấn đề Kashmir. Pakistan luôn đòi chủ quyền đối với Kashmir bởi vì dân số ở
vùng đất này phần lớn là người Hồi giáo. 60% dân số của bang Jammu và Kashmir
thuộc Ấn Độ là người Hồi giáo. Đây là bang duy nhất của Ấn Độ có người Hồi giáo
chiếm đa số. Ở Kashmir hiện nay có nhiều lực lượng tham gia vào các cuộc bạo động
đòi chủ quyền. Kể từ khi phong trào của những người Hồi giáo nổi lên từ năm 1989,
những chiến binh ly khai có vũ trang đã tăng từ con số hàng trăm lên hàng nghìn. Lực
lượng đông đảo nhất hiện nay là nhóm ủng hộ Pakistan Hizbul Mujahideen. Mặt trận
giải phóng Jammu và Kashmir (JKLF) là lực lượng ủng hộ độc lập lớn nhất ở Kashmir
13
– Ấn Độ, nhưng nhiều người cho rằng ảnh hưởng của mặt trận này đang suy yếu dần.
Các nhóm khác tập hợp dưới ngọn cờ của Hội nghị liên minh tự do, Hội nghị này chủ
trương hoạt động một cách hòa bình nhằm kêu gọi Ấn Độ từ bỏ sự hiện diện của nước
này ở Kashmir. Hơn 50 năm qua, Ấn Độ và Pakistan luôn ở trong tình trạng quan hệ
thù địch. Sự thù địch này bắt nguồn từ nguyên nhân tôn giáo và lịch sử, và leo thang
thành một cuộc chạy đua vũ trang nguy hiểm. Cuộc tranh chấp này ngày càng phức tạp
hơn vì có thêm những thế lực bên ngoài tham gia [65].
Tháng 1/1961, Bộ trưởng Ngoại giao Pakistan tuyên bố phía Pakistan đề nghị
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vạch đường giới tuyến giữa hai nước. Phía Pakistan
lưu ý đối phương rằng các bản đồ Trung Quốc tự tiện nhập một vùng đất rộng khoảng
4 – 6 nghìn dặm vuông thuộc quyền kiểm soát của Pakistan vào lãnh thổ Trung Quốc.
Vẫn như thường lệ, Bắc Kinh trả lời chất vấn của Chính phủ Pakistan là những bản đồ
này được thành lập từ thời Dân quốc và công tác họa đồ của Chính phủ Trung Quốc
hiện nay chưa tiến hành xong. Nhưng câu trả lời thoạt nghe xuôi tai đó đã làm cho
Pakistan rất lo ngại, bởi vì cách đó mấy năm về trước Trung Quốc cũng trả lời tương
tự với Ấn Độ, nhưng đường biên giới trên bản đồ thì vẫn giữa nguyên chẳng sửa lại gì
cả và những bất đồng xung quanh tấm bản đồ đã căng lên thành vụ xung đột vũ trang.
Mặc dù nổ ra vụ xung đột Trung - Ấn, nhưng Ấn Độ vẫn giữ lập trường không
nhượng bộ Trung Quốc trong cuộc tranh chấp về biên giới. Tình hình đó buộc Bắc
Kinh phải gấp rút giải quyết vấn đề biên giới với Pakistan kiểu “thả con săn sắt”.
Tháng 5/1962, Trung Quốc và Pakistan cùng đưa tin hai nước sẽ mở một cuộc đàm
phán về vấn đề biên giới.
Nhận được tin này, Chính phủ Ấn Độ cũng tuyên bố ngay trong công hàm ngày
10/5/1962 rằng giữa Pakistan và Trung Quốc không hề có đường biên giới chung. Bản
tuyên bố này cho thấy rõ trước đây Trung Quốc hoàn toàn công nhận chủ quyền của
Ấn Độ đối với vùng Kasmir, bởi vì chính Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhiều lần
nhận định “nhân dân Kasmir đã nói lên ý chí của mình” 1. Ấn Độ đã lên tiếng phản đối
Theo luật chia Ấn Độ thuộc Anh, những người đứng đầu các “tiểu công quốc” địa
phương, trong đó có xứ Kashmir, năm 1947 được tự do chọn lựa sát nhập đất đai của
1
- Xem thêm -