Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xuất khẩu lao động nữ của việt nam sang thị trường đông bắc á...

Tài liệu Xuất khẩu lao động nữ của việt nam sang thị trường đông bắc á

.PDF
126
57
98

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ …………………………………. ĐOÀN THỊ TRANG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG NỮ CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƢỜNG ĐÔNG BẮC Á Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 603101 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHAN HUY ĐƯỜNG Hà Nội - 2009 MỤC LỤC Mở Đầu ......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: xuất khẩu lao động và kinh nghiệm xuất khẩu lao động nữ của một số nƣớc ............................................................................................ 6 1.1. Xuất khẩu lao động và xuất khẩu lao động nữ ....................................... 6 1.1.1. Khái niệm chung về xuất khẩu lao động ............................................... 6 1.1.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động xuất khẩu lao động. ...................... 17 1.1.3. Sự thúc ép nội tại trong mỗi quốc gia có khả năng XKLĐ .................. 20 1.2. Xuất khẩu lao động nữ. ....................................................................... 23 1.2.1. Nữ hoá lao động xuất khẩu - một xu hướng đang diễn ra phổ biến hiện nay. ............................................................................................................ 23 1.2.2. Một số đặc điểm của lao động nữ và xuất khẩu lao động nữ ............... 25 1.2.3. Các yếu tố tác động đến hoạt động XKLĐ nữ..................................... 28 1.3. Kinh nghiệm xuất khẩu lao động nữ ở một số nước trong khu vực. ..... 31 1.3.1. Xuất khẩu lao động nữ của một số nước trong khu vực. ..................... 31 1.3.2. Kinh nghiệm XKLĐ nữ đối với Việt Nam. ......................................... 38 Chƣơng 2: Thực trạng xuất khẩu lao động nữ của Việt Nam sang thị trƣờng Đông Bắc á. .................................................................................... 41 2.1. Nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài ở khu vực Đông Bắc á và đổi mới tư duy về XKLĐ của Việt Nam. ............................................................ 41 2.1.1. Nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài ở khu vực Đông Bắc á. ........... 41 2.1.2. Tư duy mới về chính sách và tổ chức quản lý trong xuất khẩu lao động của Việt Nam. .............................................................................................. 45 2.2. Tình hình lao động nữ của Việt Nam sang làm việc tại thị trường Đông Bắc á. ........................................................................................................... 50 2.2.1. Lao động nữ của Việt Nam làm việc tại Đài Loan. ............................. 50 2.2.2. Lao động nữ của Việt Nam làm việc tại Hàn Quốc ............................. 57 2.2.3. Lao động nữ của Việt Nam làm việc tại Nhật Bản. ............................. 62 2.3. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu lao động nữ của Việt Nam sang thị trường Đông Bắc á trong thời gian qua.................................................... 66 2.3.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động xuất khẩu lao động nữ của Việt Nam sang thị trường Đông Bắc á và nguyên nhân. ............................... 66 2.3.2. Những vấn đề phát sinh trong quá trình XKLĐ nữ của Việt Nam sang thị trường Đông Bắc á và nguyên nhân......................................................... 76 Chƣơng 3: Định hƣớng và giải pháp mở rộng xuất khẩu lao động nữ của Việt Nam sang thị trƣờng Đông Bắc á ...................................................... 94 3.1. Định hướng mở rộng xuất khẩu lao động nữ của Việt Nam sang thị trường Đông Bắc á. ...................................................................................... 94 3.1.1. Tiềm năng của thị trường Đông Bắc á. ............................................... 94 3.1.2. Định hướng xuất khẩu lao động nữ của Việt Nam sang Đông Bắc á trong thời gian tới. ........................................................................................ 97 3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động nữ của Việt Nam sang thị trường Đông Bắc á trong thời gian tới. ................................... 98 3.2.1. Đối với các Cơ quan nhà nước. ........................................................... 98 3.2.2. Những giải pháp về phía các doanh nghiệp tham giai hoạt động xuất khẩu lao động. ............................................................................................ 107 3.2.3. Đối với người lao động. .................................................................... 112 Kết luận..................................................................................................... 116 Danh mục tài liệu tham khảo ................................................................... 119 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng 1.1 1.2 Tên bảng Trang Dân số Việt Nam giai đoạn 1995-2008. 20 Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong 21 độ tuổi ở khu vực thành thị. 1.3 Tỷ lệ lao động Philippines làm việc ở nước ngoài 29 giai đoạn 1998-2004, phân theo giới tính. 2.1 Quy mô và tỷ trọng lao động nữ của Việt Nam ở 52 thị trường lao động thuộc khu vực Đông Bắc á. 2.2 Số lượng nữ lao động xuất khẩu ngày càng tăng, 63 giải quyết việc làm cho nhiều lao động nữ. 2.3 Sự phân bố lao động nữ trên các thị trường của 64 khu vực Đông Bắc á. 2.4 Tỷ trọng lao động nữ xuất khẩu so với dân số nữ 66 trong độ tuổi lao động và so với dân số trong độ tuổi lao động. 2.5 Cơ cấu ngành nghề và thu nhập của nữ lao động 73 xuất khẩu của Việt Nam ở Đông Bắc á. 2.6 Chi phí trước khi đi làm việc tại nước ngoài của 77 người lao động. 2.7 Mức thu tiền đặt cọc tối đa từ tháng 9 năm 2003. 77 2.8 Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chia theo trình độ 80 văn hoá và chuyên môn kỹ thuật. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một chủ trương của Đảng và Nhà nước, được coi là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho một bộ phận người lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. XKLĐ còn là biện pháp để tiếp thu, chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, giúp đào tạo đội ngũ người lao động có chất lượng và tăng cường các quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam, tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu hơn vào khu vực và quốc tế. Lao động nữ đóng vai trò quan trọng trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Theo tổ chức lao động quốc tế, hiện nay lao động nữ chiếm khoảng 50% tổng số lao động trên thế giới và có xu hướng ngày càng gia tăng ở một số nước có quy mô xuất khẩu lớn. Việt Nam mỗi năm có từ 1,2 đến 1,5 triệu người đến tuổi lao động, trong đó tỷ lệ nữ chiếm khoảng 50%. Đưa lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài không chỉ là một hướng đảm bảo cho cuộc sống gia đình mà còn là sự khởi đầu của quá trình thay đổi tư tưởng lạc hậu trọng nam, khinh nữ, góp phần giải phóng phụ nữ, củng cố địa vị của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Lao động nữ có vai trò chủ đạo trong một số ngành đặc thù, đồng thời thông qua quá trình làm việc ở nước ngoài lao động nữ có nhiều đóng góp to lớn trong sự phát triển của đất nước. Thực tế, khu vực Đông Bắc Á là một thị trường quan trọng đối với LĐXK của Việt Nam, đặc biệt với lao động nữ, trong đó các nước nhập khẩu lao động (NKLĐ) chính là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Từ đầu những năm 1990 đến nay, hoạt động XKLĐ nữ của Việt Nam sang khu vực này chiếm tỷ trọng lớn và có tác động tích cực đối với người lao động cũng như 1 đối với sự phát triển chung của các ngành, địa phương ở Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan, hoạt động XKLĐ nữ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc Á thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, khó khăn, có những diễn biến phức tạp và phát sinh các tiêu cực, rủi ro. Xuất phát từ thực tế trên, việc chọn đề tài: "Xuất khẩu lao động nữ của Việt Nam sang thị trường Đông Bắc Á " để nghiên cứu là có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở nước ta trong những năm qua đã có nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu về đề tài XKLĐ. Có thể kể đến những nghiên cứu tiêu biểu như: Nguyễn Đình Thiện (2000): Một số vấn đề về xuất khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Luận án tiến sĩ kinh tế; Nguyễn Văn Tiến (2002): Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động - Thực trạng và giải pháp - Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị; Nguyễn Phúc Khanh (2004): Xuất khẩu lao động với chương trình quốc gia về việc làm - Thực trạng và giải pháp Luận văn thạc sĩ quản lý kinh tế; Lưu Văn Hưng (2005), Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc Á - Thực trạng và giải pháp - Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị; Trần Thị Thanh Trà (2006): Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường Đông Bắc Á - Luận văn thạc sĩ kinh tế đối ngoại; Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (2006): Vấn đề bảo về quyền lợi chính đáng của lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài - Thực trạng và giải pháp - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ; Phan Huy Đường (2009): Quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động ở Việt Nam - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ĐHQG; Ngoài ra còn một số nghiên cứu điển hình được đăng trên các tạp chí: Lưu Văn Hưng (2009): Một số vấn đề về phát triển thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam giai đoạn hiện nay - Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế - số 369; Bùi Sỹ Tuấn (2009): Hậu xuất khẩu lao động - vấn đề 2 cần được quan tâm - Tạp chí Lao động và xã hội - số 358; Nguyễn Lương Trào (2009): Thực trạng hệ thống doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam và định hướng đến năm 2020 - Tạp chí Lao động và xã hội - số 364... Các công trình nghiên cứu này đã tiếp cận vấn đề XKLĐ của Việt Nam ở nhiều góc độ khác nhau, tập trung vào việc phân tích đánh giá hoạt động XKLĐ của Việt Nam nói chung, thực trạng và hướng phát triển XKLĐ của Việt Nam sang các nước thuộc khu vực Đông Bắc Á nói riêng. Tuy nhiên chưa có công trình nào đề cập tới vấn đề xuất khẩu lao động nữ sang thị trường Đông Bắc Á. Do đó, việc nghiên cứu về XKLĐ nói chung và hoạt động XKLĐ nữ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc Á là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong bối cảnh hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.  Làm rõ bản chất, đặc điểm của XKLĐ nói chung, XKLĐ nữ nói riêng và phân tích các yếu tố tác động tới hoạt động XKLĐ nữ.  Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động XKLĐ nữ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc Á.  Đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động XKLĐ nữ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc Á. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn  Đối tượng nghiên cứu: dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn nghiên cứu XKLĐ nữ với tính chất là một hoạt động xuất khẩu hàng hóa sức lao động - một loại hàng hóa đặc biệt và chỉ nghiên cứu hình thức XKLĐ trực tiếp: đưa lao động nữ của Việt Nam đi làm việc tại các nước trong khu vực Đông Bắc Á. 3  Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứa hoạt động XKLĐ nữ trực tiếp của Việt Nam sang các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan từ năm 1992 đến năm 2008. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Ngoài các phương pháp nghiên cứu truyền thống, luận văn sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích thông tin, so sánh, thống kê và các phương pháp nghiên cứu hiện đại khác... 6. Những đóng góp mới của luận văn  Hệ thống hoá cơ sở lý luận về XKLĐ và xuất khẩu lao động nữ, nghiên cứu có chọn lọc kinh nghiệm XKLĐ nữ ở một số nước và rút ra những gợi ý cho Việt Nam.  Phân tích thành tựu và chỉ ra nguyên nhân hạn chế của XKLĐ nữ Việt Nam thị trường khu vực Đông Bắc Á trong thời gian qua.  Đề xuất một số giải pháp nhằm mở rộng và thúc đẩy hoạt động XKLĐ nữ của Việt Nam sang thị trường Đông Bắc Á trong thời gian tới. Qua đó, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách kinh tế – xã hội, đặc biệt là những người hoạt động trực tiếp trong lĩnh vực XKLĐ, các nhà nghiên cứu và các độc giả quan tâm. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương như sau: Chƣơng 1: Xuất khẩu lao động và kinh nghiệm xuất khẩu lao động nữ của một số nƣớc. Chƣơng 2: Thực trạng xuất khẩu lao động nữ của Việt Nam sang thị trƣờng Đông Bắc Á. 4 Chƣơng 3: Định hƣớng và giải pháp mở rộng xuất khẩu lao động nữ của Việt Nam sang thị trƣờng Đông Bắc Á. 5 CHƢƠNG 1: XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ KINH NGHIỆM XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG NỮ CỦA MỘT SỐ NƢỚC 1.1. XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG NỮ 1.1.1. Khái niệm chung về xuất khẩu lao động 1.1.1.1. Xuất khẩu lao động và một số khái niệm liên quan Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu thế khách quan của thời đại, là quá trình vận động theo hướng mở rộng các hoạt động kinh tế trong phạm vi một quốc gia sang phạm vi khu vực hoặc toàn thế giới. Trong bối cảnh đó, di cư lao động giữa các nước đã trở thành hiện tượng phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội quốc tế, là một phần không thể tách rời giữa các nền kinh tế. Di cư lao động quốc tế là hiện tượng đã có từ xa xưa, đặc biệt phát triển mạnh từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX cho đến nay. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng di cư lao động quốc tế như: ảnh hưởng của môi trường sống khắc nghiệt, kỳ thị chủng tộc, mâu thuẫn tôn giáo, đói nghèo... nhưng lý do kinh tế vẫn là nguyên nhân chủ yếu. Để nghiên cứu và làm rõ khái niệm XKLĐ, trước hết cần đề cập tới một số khái niệm có liên quan sau:  Thị trường lao động quốc tế: bao gồm tất cả các thị trường lao động của các nước trên thế giới xét về mặt lãnh thổ cũng như cung - cầu lao động. Trong thị trường lao động quốc tế cũng có thể phân mảng ra các thị trường lao động khác nhau như: Thị trường lao động khu vực (thị trường lao động khu vực Bắc Mỹ, Nam Mỹ, ...), thị trường lao động theo Hiệp hội, Liên minh (thị trường lao động Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), thị trường lao động EU (Liên minh Châu Âu)…,  Di dân quốc tế: là hiện tượng trong đó người lao động ở quốc gia này sang một quốc gia khác có kèm theo việc thay đổi chỗ ở tạm thời hoặc vĩnh viễn nhằm thực hiện các mục đích khác nhau ở nước ngoài. 6  Lao động di cư: chỉ người lao động di chuyển từ nước này sang nước khác để tìm việc làm, nằm trong phạm trù chung là di dân quốc tế.  Thực ra trong di dân quốc tế còn bao hàm cả những vấn đề lớn hơn khái niệm này để chỉ rõ những người hoặc dòng người di chuyển từ nước này sang nước khác với nhiều lứa tuổi khác nhau, trong số đó có một bộ phận thuộc lực lượng lao động.  Xuất khẩu lao động: là hình thức di chuyển lao động từ thị trường lao động nước này (hoặc vùng lãnh thổ này) sang một thị trường lao động nước khác (hoặc vùng lãnh thổ khác), để cung cấp dịch vụ lao động cho nước nhập khẩu và giải quyết công ăn việc làm cho lao động nước xuất khẩu. Trên bình diện quốc tế, XKLĐ thường liên quan đến những khái niệm như: Lao động nhập cư (dùng để chỉ những người lao động từ nước ngoài tới một nước nào đó để làm việc), lao động xuất cư (dùng để chỉ những người lao động ra đi từ một nước nào đó tới nước mà họ lao động) hay lao động xuất khẩu (là khái niệm nói về bản thân người lao động hoặc một tập thể người lao động, có những độ tuổi khác nhau, sức khoẻ và kỹ năng lao động khác nhau được đưa đi làm việc ở ngoài nước theo các quy định pháp luật của nước đó). Như vậy, XKLĐ xét theo ý niệm của dân số học thì đó cũng là một quá trình di dân quốc tế. Các dòng XKLĐ trên thị trường lao động quốc tế hiện nay gồm có:  Luồng lao động từ các nước công nghiệp sang các nước đang phát triển: chủ yếu là do các doanh nghiệp ở các nước công nghiệp cử chuyên gia đến công tác tại các nhà máy họ đầu tư ở các nước đang phát triển, còn gọi là sự chuyển giao trong nội bộ công ty. Những luồng lao động này đóng một vai trò quan trọng đối với các nước đang phát triển.  Luồng lao động có kỹ năng từ các nước đang phát triển di chuyển sang các nước công nghiệp: Luồng lao động này hoạt động rất có hiệu quả 7 trong các ngành nghề như công nghệ thông tin, giáo dục, y tế, xây dựng, nông nghiệp…  Luồng lao động không có kỹ năng từ các nước đang phát triển sang các nước công nghiệp: Luồng lao động này đem lại những khoản lợi nhuận cao hơn cho các nước nhập khẩu lao động. Đồng thời, nó có vai trò quan trọng trong giải quyết công ăn, việc làm và tạo thu nhập cho người lao động ở các nước dư thừa lao động phổ thông, góp phần giảm thất nghiệp của nước XKLĐ. Xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội qua từng thời kỳ, hoạt động XKLĐ của Việt Nam trong thời gian qua có quá trình phát triển riêng. Với chủ trương đổi mới được xác định từ Đại hội VI của Đảng, thị trường lao động trong nước được hình thành và phát triển. Với tư duy mới - khẳng định sức lao động là một loại hàng hoá được đánh giá là một bước ngoặt quan trọng quyết định sự phát triển của thị trường lao động trong nước, mở ra một khả năng phát triển trong công tác XKLĐ với quy mô, nội dung, hình thức tổ chức, hiệu quả hoàn toàn khác với giai đoạn trước đó. 1.1.1.2. Đặc điểm của xuất khẩu lao động.  XKLĐ là một hoạt động mang tính kinh tế - xã hội sâu sắc. Ở nhiều nước trên thế giới, đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là một trong những giải pháp quan trọng nhằm giải quyết việc làm cho lực lượng lao động, thu ngoại tệ bằng hình thức chuyển tiền về nước của người lao động và các lợi ích khác. Những lợi ích này thúc đẩy các nước tăng cường đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, chiếm lĩnh thị phần ở thị trường lao động ngoài nước. Việc chiếm lĩnh thị phần này lại dựa trên khả năng xúc tiến quan hệ với nước ngoài, nguồn nhân lực trong nước và chịu sự điều tiết của quy luật cung – cầu về lao động. Như vậy, việc quản lý Nhà nước, sự điều chỉnh Pháp luật luôn luôn phải bám sát đặc điểm này của hoạt động đưa người 8 lao động đi làm việc ở nước ngoài để mục tiêu kinh tế phải là trọng tâm của các chính sách pháp luật về hoạt động này. Đưa người lao động ra nước ngoài làm việc là hoạt động gắn liền với cuộc sống của người lao động. Do đó, mọi chính sách pháp luật về vấn đề này phải kết hợp với các chính sách xã hội khác, phải đảm bảo cho người lao động được hưởng đầy đủ những quyền lợi cũng như việc thực hiện những nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng lao động. Mặt khác, người lao động đi làm việc ở nước ngoài là theo hợp đồng có thời hạn, do đó cần có chính sách tiếp nhận và sử dụng sau khi họ trở về nước, giúp người lao động nhanh chóng hoà nhập trở lại với đời sống xã hội trong nước.  XKLĐ là hoạt động có sự kết hợp hài hoà giữa vai trò quản lý của Nhà nước và sự chủ động, chịu trách nhiệm của tổ chức kinh tế đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Đối với XKLĐ trong cơ chế thị trường, Nhà nước tiến hành đàm phán, thỏa thuận với nước tiếp nhận về đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho người lao động; quy định những nội dung, điều kiện cơ bản của hợp đồng; quy định những nghề, công việc không được làm và khu vực không được đến làm việc; hướng dẫn quy trình, thủ tục đăng ký hợp đồng; giám sát kiểm tra việc thực hiện hợp đồng và quản lý người lao động của doanh nghiệp. Như vậy, trên thực tế, Nhà nước vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động hợp tác lao động, vừa trực tiếp quản lý người lao động đang làm việc ở nước ngoài. Trong khi đó, các doanh nghiệp chủ động tìm kiếm hợp đồng ở các thị trường đã có và một số thị trường mới, nỗ lực trong công tác tạo nguồn và hoàn toàn tự chịu trách nhiệm về việc tuyển chọn, quản lý người lao động, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh tế trong hoạt động của mình. Ngoài ra, các cơ quan đại diện của Nhà nước ở nước ngoài còn tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp và người lao động trong việc can thiệp và giải quyết các tranh chấp 9 phát sinh. Tuy nhiên, sự can thiệp này không chỉ dựa vào cơ quan đại diện của Nhà nước ở nước sở tại mà cần có vai trò chủ động, tích cực của doanh nghiệp XKLĐ vì nhiều trường hợp quốc gia XKLĐ chưa lập cơ quan đại diện ngoại giao ở nước sở tại đó. Như vậy, các Hiệp định, các thoả thuận song phương chỉ có tính chất nguyên tắc, thể hiện vai trò và trách nhiệm của Nhà nước trong việc định hướng, mở đường và quản lý ở tầm vĩ mô.  Hoạt động XKLĐ diễn ra trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Tính cạnh tranh gay gắt này xuất phát từ hai nguyên nhân chủ yếu sau: Một là, đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài mang lại lợi ích kinh tế lớn cho các nước đang có khó khăn về giải quyết việc làm cho người lao động. Điều đó buộc các nước này phải cố gắng tối đa để chiếm lĩnh thị trường lao động ngoài nước. Nghĩa là họ phải đầu tư nhiều cho chương trình xúc tiến tìm kiếm thị trường, tăng cường đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Hai là, việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài đang diễn ra trong một môi trường mà các nền kinh tế - xã hội có nhiều biến động cả ở trong khu vực và trên thế giới. Nhiều nước trước đây nhận nhiều lao động ngoài nước như Hàn Quốc, Nhật Bản… đang phải đối đầu với nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng. Nhu cầu tiếp nhận lao động của các nước ngày càng có nguy cơ giảm xuống. Khi cung hơn cầu thì sự cạnh tranh ngày càng gay gắt là điều hiển nhiên.  Hoạt động XKLĐ có nhiều biến động lớn và rủi ro cao. Hoạt động XKLĐ phụ thuộc nhiều vào nước có nhu cầu tiếp nhận lao động. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có tầm nhìn xa trông rộng, phân tích đánh giá, dự đoán tình hình thì mới có thể chủ động trước sự biến đổi của hoàn cảnh, có chính sách ứng phó để vượt qua khó khăn, nâng cao hiệu quả hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. 10 Mặt khác, để đưa một người lao động đi làm việc ở nước ngoài tốn rất nhiều chi phí, nếu họ không đáp ứng được yêu cầu của đối tác nước ngoài thì cả doanh nghiệp đưa đi và người lao động đều phải gánh chịu thiệt hại. Bên cạnh đó, còn phải kể đến biến động ở nước tiếp nhận như: nhà máy bị phá sản, chính trị bất ổn, chiến tranh buộc người lao động phải về nước trước thời hạn, có người chưa nhận được lương, thậm chí có trường hợp nguy hiểm đến tính mạng người lao động.  Hoạt động XKLĐ phải đảm bảo được lợi ích của cả ba bên: Nhà nước - người lao động - doanh nghiệp. Trong hoạt động này, lợi ích kinh tế của Nhà nước là khoản ngoại tệ đánh vào thuế thu nhập của người lao động ở nước ngoài gửi về. Lợi ích của tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này là các khoản thu từ các loại phí dịch vụ. Còn lợi ích của người lao động là có việc làm và thu nhập. Xuất phát từ lợi ích, các doanh nghiệp rất dễ vi phạm quy định của Nhà nước trong việc thu các loại phí dịch vụ hoặc buộc người đi XKLĐ phải đóng thêm các khoản tiền ngoài quy định của pháp luật. Với người lao động, vì chạy theo lợi ích với mong muốn nhanh chóng thu hồi những khoản chi phí đã bỏ ra để được làm việc ở nước ngoài, nhiều người đã vi phạm hợp đồng như: bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp, vi phạm pháp luật của nước sở tại… Do đó, các chế độ, chính sách Pháp luật về XKLĐ khi ban hành phải được xem xét trên mọi khía cạnh, phải được tính toán sao cho đảm bảo sự hài hoà lợi ích của các bên, đặc biệt quan tâm tới lợi ích của người lao động.  Hoạt động XKLĐ có sự di chuyển và giao thoa của các yếu tố truyền thống, văn hoá, phong tục tập quán giữa các quốc gia, dân tộc. Trước khi xuất cảnh, người lao động đều phải trải qua giai đoạn giáo dục định hướng. Ở giai đoạn này, ngoài việc học nghề, người lao động còn được trang bị những kiến thức về đất nước, con người cũng như văn hoá, phong tục tập quán, ngôn ngữ của nước tiếp nhận, nó giúp họ nhanh chóng hoà nhập vào 11 cuộc sống mới với một nền văn hoá mới. Mặt khác, trong quá trình sinh sống và làm việc, tiếp xúc sẽ tạo ra sự giao lưu văn hoá giữa người lao động với người bản địa và giữa những người lao động đến từ các quốc gia khác nhau. 1.1.1.3. Bản chất của hoạt động xuất khẩu lao động Thông thường, xuất khẩu được hiểu là việc một hàng hoá hoặc dịch vụ sản xuất tại một nước được bán và tiêu dùng ở nước khác [11 tr.351]. Theo đại từ điển kinh tế thị trường, “Xuất khẩu lao động là xuất khẩu vô hình, hình thức cung cấp cho nước ngoài một số lượng lao động phục vụ nhất định để đổi lấy thu nhập ngoại tệ, là một loại hình xuất khẩu phi hàng hoá” [33tr.1020]. Trên thực tế, XKLĐ là loại hình xuất khẩu một loại hàng hoá đặc biệt hàng hoá sức lao động, là quá trình mua bán sức lao động giữa các đối tác thuộc hai quốc gia khác nhau. Sức lao động là toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong một con người và được người đó sử dụng vào quá trình sản xuất. Cũng như mọi hàng hoá thông thường khác, hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động để sản xuất ra một hàng hóa nào đó. Giá trị của sức lao động là giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, để duy trì đời sống của công nhân làm thuê. Tuy nhiên, là hàng hoá đặc biệt, hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở chỗ: Thứ nhất, hàng hoá sức lao động gắn liền với chủ thể mang tên nó mà không thể tách rời. Xét về cả số lượng và chất lượng, hàng hoá sức lao động phụ thuộc hoàn toàn vào bản thân người mang loại hàng hoá này. 12 Thứ hai, đối với loại hàng hoá sức lao động dù có được đem ra thị trường để trao đổi hoặc đã trao đổi hay chưa thì nó vẫn đòi hỏi phải được cung cấp những điều kiện vật chất và tinh thần nhất định để tồn tại và phát triển. Nói cách khác, hàng hoá sức lao động bao hàm cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử. Nhu cầu của công nhân không chỉ có những nhu cầu vật chất mà còn gồm cả những nhu cầu về tinh thần. Nhu cầu đó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của từng nước, từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được, vào điều kiện lịch sử hình thành giai cấp công nhân và cả điều kiện địa lý, khí hậu. Là một loại hàng hoá nên sức lao động cũng được đưa ra trao đổi trên thị trường - thị trường sức lao động hay còn gọi là thị trường lao động. Khi mua và bán, giá trị của hàng hoá được thanh toán, còn giá trị sử dụng được trưng tập, mặt hàng đó được chuyển thành sở hữu của người mua. Nhưng ở đây người chủ sở hữu sức lao động và sức lao động không bị tách rời và không thể tách rời. Việc mua bán này diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể bên bán và bên mua trực tiếp tìm đến nhau hoặc thông qua bên thứ ba là các môi giới trung gian theo các hợp đồng cung ứng lao động. Nếu người lao động bán sức lao động, đi làm thuê cho người sử dụng ở nước ngoài thì việc mua bán này diễn ra trên thị trường lao động quốc tế. Khi sức lao động trở thành hàng hoá thì thị trường lao động nói chung và thị trường lao động quốc tế nói riêng cũng chịu sự chi phối của các quy luật của thị trường như quy luật cung - cầu, quy luật giá trị hay quy luật cạnh tranh…, việc mua bán hàng hoá sức lao động trên thị trường lao động được thực hiện theo nguyên tắc thuận mua vừa bán. Như vậy, XKLĐ thực chất là một loại hình xuất khẩu dịch vụ cung cấp một loại hàng hoá đặc biệt - hàng hoá sức lao động. Nó chứa đựng đầy đủ tính chất, yêu cầu của loại hàng hoá đặc biệt đó: hoạt động của con người, tổng quan về các mối quan hệ xã hội. Giá cả của sức lao động này phụ thuộc vào 13 chất lượng của lao động, trước hết là các yếu tố về trình độ chuyên môn, tay nghề được đào tạo, mức độ giao tiếp về ngoại ngữ, văn hoá, phẩm chất cá nhân như: tính cần cù, kỹ năng, tinh xảo, khéo léo… và khả năng hội nhập, giao lưu với các nền văn hoá, tôn giáo khác. [13tr.13]. 1.1.1.4. Các phương thức xuất khẩu lao động Phương thức XKLĐ là cách thức thực hiện việc đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài do Nhà nước quy định. Hoạt động XKLĐ thường được thực hiện thông qua những phương thức cơ bản sau:  Cung ứng lao động thông qua các doanh nghiệp, tổ chức trung gian làm dịch vụ đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài Đây là trường hợp các tổ chức kinh tế Việt Nam được phép XKLĐ tuyển dụng lao động Việt Nam để đưa đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cung ứng lao động. Tổ chức trung gian này có thể là doanh nghiệp hoặc trung tâm có chức năng hoạt động trong lĩnh vực này. Để được cấp giấy phép hoạt động trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, các doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện cần thiết như: điều kiện về trụ sở làm việc, cơ sở đào tạo giáo dục định hướng, về vốn pháp định, về nguồn nhân lực... Hình thức này tương đối phổ biến, đã được thực hiện rộng rãi trong những năm qua và tiếp tục được thực hiện trong những năm tới. Đặc điểm của hình thức này là: tổ chức kinh tế Việt Nam tổ chức tuyển chọn lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc cho người sử dụng lao động ở nước ngoài. Các yêu cầu về tiêu chuẩn lao động do phía nước ngoài đặt ra. Quan hệ lao động được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nhận lao động. Quá trình làm việc ở nước ngoài, người lao động Việt Nam chịu sự quản lý trực tiếp của người sử dụng lao động nước ngoài; các điều kiện và quyền lợi của người lao động do phía nước ngoài đảm bảo. Chính vì vậy, việc 14 thích ứng của người lao động Việt Nam với môi trường lao động nước ngoài có những hạn chế nhất định.  Đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài cho doanh nghiệp trúng thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài. Đây là trường hợp doanh nghiệp tuyển lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài để thực hiện hợp đồng kinh tế với bên nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận khoán công trình ở nước ngoài hoặc đầu tư dưới hình thức liên doanh, liên kết chia sản phẩm hoặc các hình thức đầu tư khác ở nước ngoài. Những năm vừa qua, hình thức này tuy chưa phổ biến nhưng theo chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, mở rộng và tăng cường kinh tế đối ngoại thì hình thức này sẽ ngày càng phát triển. Đặc điểm của hình thức này là: việc tuyển người lao động là để thực hiện hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam; yêu cầu về tiêu chuẩn lao động, các điều kiện lao động do doanh nghiệp Việt Nam đặt ra; doanh nghiệp Việt Nam sử dụng lao động có thể trực tiếp tuyển dụng lao động hoặc uỷ quyền cho doanh nghiệp cung ứng lao động. Doanh nghiệp Việt Nam đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, quản lý, sử dụng lao động ở nước ngoài đảm bảo các quyền lợi cho người lao động làm việc ở nước ngoài. Do đặc điểm và hình thức sử dụng lao động này nên quan hệ lao động tương đối ổn định. Việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ lao động của người lao động khi làm việc ở nước ngoài có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, do hợp đồng được thực hiện ở nước ngoài nên ít nhiều có sự ảnh hưởng của pháp luật, phong tục tập quán của nước ngoài. Ngoài việc tuân thủ pháp luật Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam quản lý sử dụng lao động và người lao động Việt Nam còn phải tuân thủ các quy định của pháp luật nước ngoài.  Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập, nâng cao tay nghề. 15 Đây thực chất là hình thức đưa người lao động đi học nghề ở nước ngoài dưới dạng tu nghiệp sinh, thực tập sinh hoặc đơn giản chỉ là học nghề để sau đó làm việc cho doanh nghiệp. Nghĩa vụ làm việc sau khi học nghề của người lao động có thể là làm việc tại chính doanh nghiệp nước ngoài đã dạy nghề cho người lao động; hoặc làm việc cho doanh nghiệp Việt Nam đã cử người lao động đi học nghề và bỏ chi phí cho người lao động trong suốt quá trình học nghề (được gọi là công ty phái cử). Hình thức này phổ biến ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sau một thời gian làm việc ở doanh nghiệp, người lao động có thể được doanh nghiệp đưa đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập, nâng cao tay nghề. Doanh nghiệp đảm bảo các thủ tục đưa đi, điều kiện làm việc, sinh hoạt và các chế độ cho người lao động. Người lao động cam kết thực hiện theo hợp đồng, chịu sự quản lý, điều hành của doanh nghiệp. Hình thức này đang được khuyến khích nhằm giúp người lao động nước ta nâng cao trình độ tay nghề, học hỏi được kinh nghiệm quản lý của nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.  Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cá nhân giữa người lao động và người sử dụng lao động ở nước ngoài. Đây là hình thức lao động Việt Nam trực tiếp ký hợp đồng lao động với người sử dụng lao động ở nước ngoài mà trước đó không cần phải ký hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với các tổ chức trung gian làm dịch vụ. Đặc điểm của hình thức này là người lao động và người sử dụng lao động ở nước ngoài tự tìm hiểu, thoả thuận trực tiếp với nhau mà không cần thông qua trung gian. Do đó, người lao động có thể không phải mất phí môi giới, tiền dịch vụ. Hình thức xuất khẩu lao động này ở nước ta chưa phổ biến vì muốn ký được hợp đồng với phía nước ngoài, người lao động phải có những hiểu biết cần thiết về nhiều mặt như các thông tin về đối tác nước ngoài, về ngôn ngữ, kỹ năng giao tiếp với người nước ngoài… Trong khi đó, 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan