Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xuất khẩu hàng giầy dép việt nam sang euthực trạng và giải pháp...

Tài liệu Xuất khẩu hàng giầy dép việt nam sang euthực trạng và giải pháp

.PDF
45
75
60

Mô tả:

Luận văn Xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam sang EU:Thực trạng và giải pháp 1 Lời mở đầu Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và nhà nướcViệt Nam đã được khẳng định tại Đại hội Đảng VIII, IX và trong Nghị quyết 01 NQ/TƯ của Bộ chính trị, với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa hướng về xuất khẩu. Với vị trí là một trong 3 ngành xuất khẩu chủ lực, ngành giầy dép Việt Nam luôn là một trong những ngành được quan tâm hàng đầu trong chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu. Như vậy, đẩy mạnh xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam là phù hợp với điều kiện nước ta theo xu hướng phát triển chung của khu vực và thế giới. Trong hệ thống các thị trường xuất khẩu của hàng giầy dép Việt Nam, thị trường EU hiện đang là thị trường đầy hứa hẹn. EU là thị trường lớn với 15 quốc gia thành viên có tốc độ tăng trưởng cao và khá ổn định. Kể từ sau khi Nhà nước có chính sách mở của đến nay, hàng giầy dép Việt Nam đã có mặt ở hầu hết các nước trong liên minh EU. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng giầy dép sang EU, Việt Nam không chỉ có được sự tăng trưởng ổn định về ngoại thương mà còn thực hiện chiến lược đa dạng hoá thị trường xuất khẩu. Vì vậy, xuất khẩu hàng giầy dép sang EU luôn là một trong những vấn đề quan tâm của Đảng và nhà nước ta. Nhận thấy tầm quan trọng và tương lai của các doanh nghiệp sản xuất giày dép Việt Nam, Tôi đã chọn đề tài: “Xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam sang EU:Thực trạng và giải pháp” để làm đề tài. Nội dung của đề án gồm 3 phần: Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu và sự cần thiết phải tăng cường khả năng xuất khẩu. Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam vào thị trường EU. 2 Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam vào thị trường EU. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG XUẤT KHẨU GIÀY DÉP I. KHÁI NIỆM VÀ CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU CHỦ YẾU. 1. Khái niệm. Xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của ngoại thương, là một vấn đề hết sức quan trọng của kinh doanh quốc tế, là sự phát triển tất yếu của sản xuất và lưu thông nhằm tạo ra hiệu quả kinh tế cao nhất trong mỗi nền kinh tế. Hoạt động xuất khẩu hiện nay diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong đó tất cả các lĩnh vực, các ngành của nền kinh tế, từ vật phẩm tiêu dùng đến tư liệu sản xuất, từ các chi tiết linh kiện rất nhỏ bé đến các loại máy móc khổng lồ, các loại công nghệ kỹ thuật cao, không chỉ có hàng hoá hữu hình mà cả hàng hoá vô hình và với tỷ trọng ngày càng cao. Như vậy, thông qua hoạt động xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách cho nhà nước, kính thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao mức sống người dân. 2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu. Với mục tiêu là đa dạng hoá các hình thức xuấta khẩu nhằm phân tán và chia sẽ rủi ro, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế có thể chọn lựa nhiều hình thức xuất khẩu khác nhau. Sau đây là một số hình thức xuất khẩu chủ yếu: 3 2.1 .Xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. 2.2 .Xuất khẩu uỷ thác. Xuất khẩu uỷ thác là hình thức kinh doanh quốc tế trong đó đơn vị kinh doanh quốc tế đóng vai trò là người trung gian thay mặt cho đơn vị sản xuất tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá cho các nhà sản xuất và qua đó thu được một số tiền nhất định ( thường là tỷ lệ phần trăm giá trị lô hàng xuât khẩu). 2.3 .Xuất khẩu tại chỗ. Xuất khẩu tại chỗ là hình thức xuất khẩu mới nhưng đang được phát triển và có xu hướng phổ biến rộng rãi. 2.4 .Xuất khẩu gia công uỷ thác. Xuất khẩu gia công uỷ thác là hình thưc xuất khẩu mà trong đó đơn vị kinh doanh quốc tế đứng ra nhận nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm cho xí nghiệp gia công, sau đó thu hồi thanhg phẩm để xuất lại cho bên nước ngoài. Đơn vị được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận với các xí nghiệp sản xuất. 2.5 .Buôn bán đối lưu. Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và lượng hàng hoá mang ra trao đổi có giá trị tương đương. Mục đích xuất khẩu ở đây không phải thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm mục đích có được một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với giá trị của lô hàng xuất khẩu. 4 2.6 .Xuất khẩu theo nghị định thư( xuất khẩu trả nợ). Xuất khẩu theo nghị định thư là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu nhà nước giao, tiến hành xuất khẩu một hay một số mặt hàng nhất định cho chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã ký giữa hai chính phủ. 2.7 .Gia công quốc tế. Gia công quốc tế là hình thức kinh doanh trong đó một bên ( gọi là bên nhận gia công ) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên ( bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu được một số tiền nhất định ( gọi là phí gia công). 2.8 .Tái xuất khẩu Tái xuất khẩu là hình thức xuất khẩu những hàng hoá mà trước đây đã nhập khẩu và chưa tiến hành hoạt động chế biến. II. NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU. Hoạt động trên thị trường quốc tế, tất cả các doanh nghiệp dù đã có kinh nghiệm hay mới chỉ bắt đầu tham gia vào kinh doanh đều phải tuân theo các nguyên tắc của các thương vụ thì mới có khả năng tồn tại lâu dài được. Công tác tổ chức xuất khẩu tương đối phức tạp, có thể thay đổi theo mỗi loại hình xuất khẩu. Chung quy lại, cần phải tuân theo một trình tự gồm các công đoạn sau: 1. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu. Đây là một trong những nội dung cơ bản ban đầu, nhưng quan trọng và cần thiết để có thể tiến hành được hoạt động xuất khẩu. Khi doanh nghiệp có ý định tham gia vào thị trường quốc tế thì doanh nghiệp cần xác định mặt hàng mình định kinh doanh. Trên thực tế doanh nghiệp có thể lựa chọn xuất khẩu những mặt hàng sau: 5 - SWYG ( Sell What You Got ) doanh nghiệp xuất khẩu những sản phẩm mà mình sản xuất. - SWAB ( Sell What Actually Buy): doanh nghiệp xuất khẩu những sản phẩm mà thị trường cần. - GLOB ( Sell Things Globaly Disregarding National Frontiers): doanh nghiệp xuất khẩu những mặt hàng giống nhau ra thị trường thế giới, không phân biệt sự khác nhau về văn hoá xã hội, ngôn ngữ, phong tục tập quán…và biên giới quốc gia. Ngày nay, xu hướng xuất khẩu những sản phẩm mà thị trường cần và xuất khẩu những mặt hàng giống nhau ra tất cả các thị trường là phổ biến. Để lựa chọn được đúng mặt hàng mà thị trường cần đòi hỏi doanh nghiệp phải có một quá trình nghiên cứu tỷ mỷ, phân tích một cách có hệ thống về nhu cầu thị trường cũng như khả năng của doanh nghiệp. Đồng thời doanh nghiệp cần dự đoán xu hướng biến động của thị trường cũng như những cơ hội và thách thức mà mình cần gặp phải trên thị trường thế giới. 2. Lựa chọn thị trường xuất khẩu. Sau khi đã lựa chọn được mặt hàng xuất khẩu doanh nghiệp cũng cần phải tiến hành lựa chọn thị trường xuất khẩu mặt hàng đó. Trong nhiều trường hợp doanh nghiệp không thể hoạt động trên nhiều thị trường của một quốc gia nào đó mà chỉ có thể hoạt động trên một đoạn hoặc một số đoạn thị trường trên cơ sở các tiêu thức dùng để phân đoạn thị trường. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp có thể hoạt động trên phạm vi quốc gia, khu vực hoạt toàn cầu. 3. Lựa chọn đối tác giao dịch. Việc lựa chọn đúng đối tượng giao dịch sẽ tránh cho doanh nghiệp nhiều phiền toái, những mất mát, rủi ro mà doanh nghiệp gặp phải trên thị trường 6 quốc tế., đồng thời có điều kiện thực hiện thành công các kế hoạch kinh doanh của mình. Các tốt nhất là doanh nghiệp các đối tác có đặc điểm sau: - Thương nhân quen biết hay đã từng có quan hệ giao dịch với doanh nghiệp của ta, có uy tín trong kinh doanh. - Thương nhân có khả năng , thực lực về tài chính. - Có thiện chí trong quan hệ buôn bán với ta, không biểu hiện hành vi lừa đảo. - Những người chịu trách nhiệm đại diện trong kinh doanh và có phạm vi trách nhiệm của họ đối với các nghĩa vụ của công ty hoặc các tổ chức. 4. Lựa chọn phương thức giao dịch. Phương thưc giao dịch là những cách thức mà doanh nghiệp sử dụng để thực hiện các kế hoạch và mục tiêu kinh doanh của mình trên thị trường thế giới. Những cách thức này quy định thủ tục tiến hành, các điều kiện giao dịch, các thao tác và chứng từ cần thiết của quan hệ giao dịch kinh doanh. Có rất nhiều phương thức giao dịch khác nhau như: giao dịch thông thường, giao dịch qua khâu trung gian, giao dịch tại hội chợ triển lãm, giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá, đấu giá và đấu thầu quốc tế. Tuy nhiên phổ biến nhất và được sử dụng rộng rãi nhất vẫn là phương thức thông thường. 5. Đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu. Đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu là một trong những khâu quan trọng của hoạt động xuất khẩu. Nó quyết định những công đoạn mà doanh nghiệp đã tiến hành trước đó, đồng thời nó quyết định đến tính khả thi của các kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải nắm rõ thông tin về đối tác cũng như chính bản thân doanh nghiệp, điểm mạnh điểm yếu. Mọi cam kết trong hợp đồng sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng, vững chắc và đáng tin cậy để các bên thực hiện cam kết của mình. Đàm phán có thể thực hiện thông qua thư tín, điện tín và đàm phán trực tiếp. 7 6. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán tiền. Sau khi ký kết hợp đồng, các bên sẽ thực hiện các điều kiện mà mình cam kết trong hợp đồng. Sau đây là trình tự những công việc chung nhất cần tiến hành để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Tuy nhiên, trong thực tế tuỳ theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng mà người xuất khẩu có thể bỏ qua một hoặc vài công đoạn.  Yêu cầu mở và kiểm tra thư tín dụng.  Xin giấy phép xuất khẩu.  Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu.  Kiểm định hàng hoá.  Thuê phương tiện vận chuyển.  Làm thủ tục hải quan.  Giao hàng lên tàu.  Thanh toán.  Giải quyết khiếu nại (nếu có). III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Hoạt động trên thị trường thế giới có nghĩa là doanh nghiệp đang hoạt độnh trong một môi trường kinh doanh xa lạ và đầy những thách thức, có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu bao gồm: 1. Các nhân tố kinh tế. Thứ nhất, ảnh hưởng của cán cân thanh toán và chính sách tài chính tiền tệ. 8 Nhân tố này quyết định phương án kinh doanh, mặt hàng và quy mô sản xuất của doanh nghiệp. Sự thay đổi của những nhân tố này gây ra sự xáo trộn lớn trong tỷ trọng xuất nhập khẩu. Nhân tố tỷ giá ảnh hưởng mạnh đến công tác xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Đó là nhân tố tác động trực tiếp đến hiệu qủa hoạt động thương mại quốc tế. Nếu tỷ giá hối đoái tương đối ổn định và ở mức thấp thì mới khuyến khích được doanh nghiệp trong nước tích cực đầu tư sản xuất chế biến hàng xuất khẩu và ngược lại. Thứ hai, ảnh hưởng của hệ thống tài chính, ngân hàng. Hệ thống tài chính, nân hàng chi phối rất lớn đến hoạt động xuất khẩu thông qua lãi suất tiền cho vay hoạt động. Lãi suất thấp sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia vay vốn đầu tư và ngược lại. Mặt khác, lợi ích của các doanh nghiệp phụ thuộc vào các nhân hàng do hình thức thanh toán của các hợp đồng mua bán đều được thực hiện thông qua các ngân hàng. Nếu các nghiệp vụ ngân hàng được bảo đảm thuận lợi, nhanh và chính xác thì sẽ tránh được rất nhiều rủi ro cho doanh nghiệp. Thứ ba, các nhân tố thuộc về chính sách. Thương mại quốc tế nói chung đem lại lợ ích to lớn và vì lý do khác nhau mà hầu hết các quốc gia đều có chính sách thương mại quốc tế thể hiện ý chí và mục tiêu của nhà nước đó trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế có liên quan đến nên kinh tế quốc dân. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là sự can thiệp của chính phủ theo chiều hướng tiêu cực. Ngược lại, bằng việc sử dụng các công cụ và biện pháp khác nhau như: Thuế quan, Quota(Hạn ngạch xuất khẩu). Các công cụ này nhằm bảo hộ hàng sản xuất trong nước kich thích xuất khẩu. 2. Các nhân tố chính trị, luật pháp của nước sở tại. Mỗi quốc gia lại có một môi trường chính trị, luật pháp riêng. Do vậy, để đạt được hiệu quả kinh doanh tối ưu, các doanh nghiệp cần phải chú ý đến 9 các nhân tố chính trị luật pháp như: sự ổn định chính trị, chính sách tài chính tiền tệ, bộ máy quản lý nhà nước. Những nhân tố này quyết định gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu. 3. Các nhân tố văn hoá, xã hội, môi trường tự nhiên. Mỗi quốc gia đều có phong tục tập quán, những quy tắc, những điều cấm kỵ của riêng mình. Để hoạt động kinh doanh xuất khẩu khỏi thất bại, nhà xuất khẩu phải nghiên cứu thật kỹ xem những người mua ở nước ngoài chấp nhận mặt hàng này hay mặt hàng kia như thế nào và họ sử dụng chúng ra sao Môi trường tự nhiên như thời tiết, khí hậu, thường gây ra những đột biến khó lường. Vì vậy doanh nghiệp phải xem xét và dự đoán được xu hướng biến động của chúng để phát hiện cơ hội hay nguy cơ của doanh nghiệp. 4. Các nhân tố khoa học công nghệ. Nhân tố công nghệ có tác động làm tăng hiệu quả công tác xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Ví dụ, nhờ sự phái triển của hệ thống dịch vụ bưu chính viến thông giúp doanh nghiệp có thể đàm phán trực tiếp với khách hàng qua telex, điện tín, fax đặc biệt là Internet, công nghệ truyền tin nhanh nhất hiện nay, nó làm giảm thiểu chi phí đi lại, hơn nữa doanh nghiệp có khả năng nắm bắt thông tin mới nhất về thị trường. Khoa học công nghệ còn tác động vào các lĩnh vực như vận tải hàng hoá, kỹ nghệ, nghiệp vụ ngân hàng. Đó cũng là nhân tố tác động tới xuất nhập khẩu. 5. Đối thủ cạnh tranh cạnh tranh. Sự cạnh tranh từ phía các đối thủ cả trong và ngoài nước luôn đe dọa sự tồn tại của các doanh nghiệp. Xu hướng hội nhập kinh tế ngày nay càng là áp lực đối với các doanh nghiệp xuất khẩu bởi vì khi tham gia hội nhập, các doanh nghiệp trong nước sẽ cạnh tranh trực tiếp với các doanh nghiệp nước ngoài mà không còn sự bảo hộ của Nhà nước, điều đó có nghĩa là buộc các 10 doanh nghiệp phải luôn tìm cách đổi mới cả trong quản lý và đổi mới sản phẩm để tồn tại trong xu hướng kinh tế mới này. 6. Các nhân tố về bản thân doanh nghiệp. 6.1 .Sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Phản ánh tương quan lực lượng giữa thế và lực của doanh nghiệp và của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nó biểu hiện khả năng duy trì phần thị trường hiện có và chiếm lĩnh thị trường mới. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở ba yếu tố cơ bản sau: giá cả, chất lượng, dịch vụ sau bán hàng. 6.2 .Trình độ quản lý của doanh nghiệp. Bộ máy năng động, gọn nhẹ sẽ giúp doanh nghiệp luôn biến đổi để thích nghi với điều kiện kinh doanh mới, doanh nghiệp dễ dàng vượt qua những khóp khăn trong cạnh tranh. Bộ máy quản trị cần những người năng động và sáng tạo chịu được áp lực cạnh tranh. 6.3 .Trình độ kỹ thuật và công nghệ của doanh nghiệp. Đó là năng lực của đội ngũ cán bộ kỹ thuật, trình độ tay nghề của công nhân, thiết bị máy móc và công nghệ mà doanh nghiệp áp dụng và sử dụng cho việc sản xuất và chế biến những mặt hàng xuất khẩu. Điều này phản ánh tiềm năng của doanh nghiệp, trình độ công nghệ của doanh nghiệp có mối liên hệ mật thiết với chất lượng và giá thành phẩm. Có trình độ kỹ thuật tiên tiến hiện đại thì mới có điều kiện tăng năng suất, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. 6.4 .Nguồn lục tài chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp với một nguồn lực tài chính mạnh dễ dàng đáp ứng với đơn đặt hàng của khách hàng còn đối với những doanh nghiệp có nguồn vốn nhỏ và phân tán thường gặp khó khăn khi cạnh tranh đẻ nhận được đơn đặt hàng. Tài chính tác động trực tiếp và toàn bộ tới quá trình sản xuất của các doanh nghiệp. 11 IV. Sự cần thiết phải tăng cường hoạt động xuất khẩu giầy dép của các doanh nghiệp Việt Nam. Thâm nhập vào thị trường EU hiện là muc tiêu ưu tiên đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và toàn nghành sản xuất giầy dép nói riêng. Do vậy, càng phải nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường thúc đẩy xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam sang EU, biểu hiện bởi các nguyên nhân sau: Thứ nhất, EU không những là một thị trường lớn, là một trong ba trung tâm kinh tế lớn nhất trên thế giới, mà đây còn là thị trường nhập khẩu lớn nhất đối với hàng giầy dép Việt Nam. Đây còn là thị trường có mức độ tieu dùng giầy dép tương đối cao ( 6-7 đôi/người/năm) và là thị trường lý tưởng cho bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Thứ hai, EU là thị trường rất khó tính với các rào cản kỹ thuật tương đối cao, thị hiếu người tiêu dùng EU lại tương đối cao, nhu cầu giầy dép đi lại ít mà làm đẹp thì nhiều. Do vậy nếu vượt qua được các rào cản kỹ thuật, đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng thì không những chúng ta có thể chiếm được thị phần trên thị trường EU mà còn có thể thâm nhập dễ dàng các thị trường khác trên thế giới. Đây là phương pháp đi vòng mà Nhật Bản đã áp dụng từ những thập kỉ trước. Thứ ba, xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam sang EU hiện nay đang đóng góp một nguồn thu đáng kể vào ngân sách quốc gia. Nếu như năm 1995, kim nghạch xuất khẩu giầy dép chỉ đúng thứ 6 trong số 10 mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam thì nay đã vươn lên đứng hàng thứ 3, chỉ sau có dầu khí và dệt may. Thứ tư, cùng với việc tăng cường xuất khẩu sang thị trường EU, chúng ta có thể tận dụng được sự chuyển giao công nghệ từ các nước công nghiệp hiện đại của EU nay không còn ưu thế về đất đai, lao động, muốn chuyển giao các công nghệ đó cho các nước kém phát triển hơn. Do vậy, nó sẽ đảm bảo cho hàng giầy dép Việt Nam có thể vượt qua được các rào cản kỹ thuật của EU. 12 Thứ năm, ngành giầy dép là ngành sử dụng nhiều lao động, việc tăng cường xuất khẩu vào EU đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ sử dụng thêm nhiều lao động, giải quyết thêm công ăn việc làm cho người dân. Thứ sáu, hàng giầy dép Việt Nam sở dĩ cạnh tranh được với hàng của các nước khác trên thị trường EU, nguyên nhân chính là chúng ta đang được hưởng mức htuế quan ưu đãi GSP mà EU dành cho Việt Nam. Nhưng đến năm 2005, khi mà Trung Quốc đạt được thoả thuận với EU và cũng được hưởng GSP thì khi đó hàng giầy dép Việt Nam sẽ gặp phải những khó khăn về cạnh tranh về giá rất lớn. Để tranh đi nguy cơ này, buộc các doanh nghiệp giầy dép Việt Nam phải tìm cách giảm chi phí để giảm giá thành sản phẩm. Một trong những nguyên nhân chính đẩy giá thành sản phẩm giầy dép của ta lên cao đó chính là việc chúng ta đã phải nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài. Một giải pháp đưa ra là chúng ta sẽ phát triển các đàn bò và xây dựng các nhà máy thuộc da để cung cấp nguyên liệu với giá thành rẻ hơn cho các doanh nghiệp sản xuất giầy dép. 13 Chương II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG GIẦY DÉP VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU I. Khái quát về thị trường EU. 1. Quá trình hình thành và phát triển của Liên minh châu Âu. Lịch sử hình thành Liên minh châu Âu (Eropean Union - EU): được đánh dấu từ ngày 18/4/1951 khi 6 nước: Pháp, Bỉ, CHLB Đức, Italia, Hà Lan, Lucxămbua đã đi tới ký hiệp ước thiết lập cộng đồng than thép châu Âu (CECA). Mục tiêu của CECA là đảm bảo việc sản xuất và tiêu thụ than của các nước thành viên trong những điều kiện thống nhất, đẩy mạnh tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, phân phối, tiêu thụ và nâng cao năng suất lao động. Trên cơ sở những kết quả mà CECA mang lại về mặt kinh tế cũng như chính trị, Chính phủ các nước thành viên thấy cần thiết phải tiếp tục con đường đã chọn để sớm đạt được “thực thể châu Âu mới”. Ngày 25/3/1957, hiệp ước thiết lập cộng đồng kinh tế châu Âu (Eropean Economic Community-EEC) và cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu (CEEA) đã được ký kết tại Roma. Trong đó, CEEA chỉ điều chỉnh một lĩnh vực của công nghiệp và kinh tế, nhiệm vụ của nó chỉ là đẩy mạnh việc sáng tạo và phát triển công nghiệp nguyên tử và đảm bảo việc cung cấp nguyên liệu, bảo vệ môi trường EEC bao trùm lĩnh vực kinh tế chung, bảo đảm hoà nhập kinh tế, tiến tới một thị trường thống nhất, tạo ra tự do lưu thông hàng hoá và con người trong toàn khối. Năm 1967, CECA, CEEA,EEC chính thức hợp nhất thành một tổ chức chung gọi là “Cộng đồng châu Âu” (Eropean Community-EC). 14 2. Đặc điểm của thị trường EU. 2.1. Tập quán, thị hiếu tiêu dùng của thị trường EU. EU là một thị trường rộng lớn, với 377,3 triệu người tiêu dùng. Thị trường EU thống nhất cho phép tự do lưu chuyển sức lao động, hàng hoá, dịch vụ và vốn giữa các nước thành viên. Thị trường này còn mở rộng sang các nước thuộc Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (Eropean Free Trade Association-EFTA) tạo thành một thị trường rộng lớn trên 380 triệu người tiêu dùng. (Theo nguồn: Tạp chí Nghiên cứu châu Âu ) EU là một trong những thị trường lớn trên thế giới, sở thích và nhu cầu của họ cũng cao, họ có thu nhập, mức sống cao, khá đồng đều và yêu cầu rất khắt khe về độ an toàn của sản phẩm nói chung. Yếu tố trước tiên quyết định tiêu dùng của người châu Âu là chất lượng và thời trang của hàng hoá sau đó mới đến giá cả của đại đa số mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này. Hàng năm EU nhập khẩu một lượng lớn hàng hoá chủ yếu là hàng tiêu dùng từ các nước đang phát triển như thuỷ sản, dệt may, giầy dép... Nhu cầu nhập khẩu một số sản phẩm tiêu dùng chính của EU từ 1995 đến 1999 được thể hiện ở bảng sau: Bảng 1: Nhu cầu nhập khẩu một số sản phẩm tiêu dùng chính của EU từ các nước đang phát triển. Đơn vị : triệu USD. Mặt hàng 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 1. Thuỷ sản 326 404 501 623 702 812 895 2. Dệt may 130.63 132.981 134.489 135.834 138.551 139.145 141.452 2.667 4.364 3.231 4.462 4.225 4.576 8 3. Giầy dép 1.949 15 * Nguồn: Thống kê hải quan,Vụ xuất nhập khẩu, Bộ thương mại. Niêm giám thống kê, Tổng cục thống kê (2000)& Tổng cục hải quan. Số liệu từ bảng 1 cho thấy EU là một thị trường nhập khẩu hàng tiêu dùng rất lớn. Song để vào được thị trường EU, hàng tiêu dùng của các nước đang phát triển phải thoả mãn những điều kiện khá ngặt nghèo. Đối với hàng giầy dép, thị hiếu của người tiêu dùng trong thị trường EU được đánh giá là khá khó tính và chọn lọc. Yêu cầu về mẫu mốt và kiểu dáng hàng hoá thay đổi nhanh, đặc biệt đối với những hàng thời trang (giầy dép, quần áo...). 2.2. Nhu cầu nhập khẩu hàng giày dép. EU là một thị trường rộng lớn với hơn 375 triệu dân, nhu cầu tiêu dùng hàng giầy dép rất lớn, vào hàng thứ hai thế giới (sau Mỹ). Thị trường EU có tiềm năng sản xuất và xuất khẩu hàng giầy dép đứng hàng đầu thế giới. Đồng thời, các nước EU cũng đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng giầy dép. Ở thị trường EU, người ta có thể thấy đủ các mặt hàng giầy dép từ khắp các quốc gia trên thế giới như Mỹ, Trung quốc, Singapore... 2.3. Hệ thống phân phối của hàng giầy dép trên thị trường EU. Trong nền thương mại châu Âu , hệ thống phân phối là yếu tố quan trọng trong khâu lưu thông và xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này. Hệ thống phân phối EU chủ yếu bao gồm các hình thức sau: các trung tâm thu mua, các đơn vị chế biến, dây truyền phân phối, các nhà bán buôn, bán lẻ và người tiêu dùng. Trong xu hướng hiện nay, nhập khẩu trực tiếp hàng giầy dép vào EU tăng lên do yêu cầu về cạnh tranh trong khâu bán lẻ. Hệ thống bán lẻ ngày càng chiếm ưu thế trong hệ thống phân phối hàng giầy dép vào thị trường EU. 16 Hàng giầy dép tại các nước EU cơ bản được phân phối qua hệ thống bán lẻ như: Các dây chuyền chuyên doanh hàng giầy dép, các cửa hàng chuyên doanh hàng giầy dép liên nhánh, các trung tâm bán hàng qua bưu điện, các siêu thị, các công ty bán lẻ độc lập, các kênh tiêu thụ khác. Với các thị trường khác nhau trong EU, hệ thống phân phối hàng giầy dép lại có sự khác biệt. Nếu như ở Anh, các công ty bán lẻ độc lập chiếm thị phần nhỏ thì kênh phân phối này lại khá phổ biến với các nước phía Nam EU như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Italia. Trong các năm tới, hình thức kinh doanh bán lẻ có thể có nhiều thay đổi, đó là sự giảm đi thị phần của các công ty bán lẻ độc lập và tăng lên các loại hình bán lẻ khác. Đồng thời, các nhà xuất khẩu tại các nước đang phát triển châu Á, trong đó có Việt Nam sẽ phải đương đầu với sức ép cạnh tranh của các nước Đông Âu và Trung Đông do các nước này có ưu thế hơn hẳn trong khả năng tiếp cận hệ thống bán lẻ của các nước EU. 2.4. Các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng của EU. Một đặc điểm nổi bật trên thị trường EU là quyền lợi của người tiêu dùng rất được bảo vệ, khác hẳn với thị trường của các nước đang phát triển. Để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng, EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có các hệ thống báo động giữa các nước thành viên, đồng thời bãi bỏ việc kiểm tra các sản phẩm ở biên giới. EU đã thông qua các quy định bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng về độ an toàn chung của các sản phẩm được bán ra, các hợp đồng quảng cáo, bán hàng tận nhà, nhãn hiệu. Các tổ chức chuyên nghiên cứu đại diện cho giới tiêu dùng sẽ đưa ra các quy chế định chuẩn quốc gia hoặc châu Âu. Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, EU tích cực tham gia chống nạn hàng giả bằng cách không cho nhập khẩu những sản phẩm đánh cắp bản quyền. 17 Ngoài việc ban hành và thực hiện quy chế trên, EU còn đưa ra các Chỉ thị kiểm soát từng nhóm hàng cụ thể về chất lượng và an toàn đối với người tiêu dùng. 18 2.5. Chính sách thương mại. EU được coi là một đại quốc gia của châu Âu. Bởi vậy, chính sách thương mại của EU giống như chính sách thương mại của một quốc gia. Nó bao gồm chính sách thương mại nội khối và chính sách ngoại thương. Chính sách thương mại nội khối: chính sách nội khối tập trung vào việc xây dựng và vận hành thị trường chung châu Âu, xoá bỏ việc kiểm soát biên giới lãnh thổ quốc gia, biên giới hải quan( xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan ) để tự do lưu thông vốn, hàng hoá, dịch vụ và vốn, điều hoà các chính sách kinh tế - xã hội của các nước thành viên. Chính sách ngoại thương: gồm chính sách thương mại tự trị và chính sách thương mại dựa trên cơ sở Hiệp định được xây dựng trên những nguyên tắc sau: không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và đối xử công bằng. Các biện pháp bảo hộ chủ yếu được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan, hạn chế về số lượng, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu. Tất cả các nước thành viên EU cùng áp dụng một chính sách ngoại thương chung đối với các nước ngoài khối. Uỷ ban châu Âu (EC) là người đại diện duy nhất cho Liên minh trong việc đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực này. 3. Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập của EU dành cho các nước đang phát triển. Hàng hoá từ các nước đang phát triển nếu thoả mãn nhưng quy định của EU sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Một trong những nguyên tắc cơ bản của tổ chức thương mại thế giới (WTO) là không phân biệt đối xử và đối ứng. Nguyên tắc này thể hiện qua việc các nước đối xử tối hụê quốc( Most Favour Nation – MFN). Nhưng do trình độ phát triển kinh tế của các nước thành viên WTO rất khác nhau nên việc tôn trọng nguyên tắc không phân biệt đối xử sẽ làm cho hàng hoá của các nước đang phát triển và đặc biệt là các 19 nước chậm phát triển ( dưới đây gọi chung là các nước đang phát triển ) không có khả năng cạnh tranh với hàng hoá của các nước phát triển. Do vậy cần phải có biện pháp nới lỏng nguyên tắc trên cho các nước đang phát triển, chiếm đa số trong WTO. II. Thuận lợi và khó khăn trong hoạt động xuất khẩu giày dép của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường EU 1. Thuận lợi Thứ nhất, với các quy định của EU đối với hàng giầy dép xuất khẩu trên, hàng giầy dép Việt Nam có những thuận lợi hơn so với hai nước cạnh tranh trực tiếp trên thị trường EU là Trung Quốc và Indonexia. Về thuận lợi, trong khi hàng giầy dép Việt Nam vẫn được hưởng GSP (mức cao nhất là 11,9%) thì hàng giầy dép của Indonexia đang phải chịu mức thuế chống phá giá của EU (17%). Thứ hai, các doanh nghiệp VN có lợi thế cạnh tranh là có nguồn nhân lực trẻ, chi phí nhân công thấp. Mặt khác, với một bản chất cần cù siêng năng, nhân công VN có khả năng chịu được những áp lực tốt trong công việc. Thứ ba, các chính sách mới được dưa ra nhằm khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước cùng với nền kinh tế mở và hội nhập là điều kiện tốt cho các doanh nhiệp xuất khẩu. Thứ tư, vì đang là một trong ba ngành xuất khẩu mũi nhọn nên các doanh nghiệp giầy dép được sự hỗ trợ từ phía chính phủ bằng các chính sách ưu đãi như: chính sách thuế, mặt bằng sản xuất... Thứ năm, với một nền kinh tế tương đối ổn định, VN là môi trường tốt cho kinh doanh, điều kiện tốt cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư, yên tâm sản xuất. Thứ sáu, đồng thời đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nha nước liên tục đổi mới phương cách quản lý kinh tế phù 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan