Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xuân diệu - nhà nghiên cứu, phê bình thơ...

Tài liệu Xuân diệu - nhà nghiên cứu, phê bình thơ

.PDF
211
146
98

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ THANH HÀ XUÂN DIỆU - NHÀ NGHIÊN CỨU, PHÊ BÌNH THƠ LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN HÀ NỘI 2002 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ THANH HÀ XUÂN DIỆU - NHÀ NGHIÊN CỨU, PHÊ BÌNH THƠ CHUYÊN NGÀNH : LÝ THUYẾT VÀ LỊCH SỬ VĂN HỌC MÃ SỐ: 5.04.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. TRẦN ĐÌNH SỬ HÀ NỘI 2002 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dẫn liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác. 1 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1 MỤC LỤC .................................................................................................................... 2 MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 4 1. Ý nghĩa và mục đích của đề tài. .....................................................................................4 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................6 3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu của luận án. .......................................................10 4. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu. ..............................................................................10 5. Cái mới của luận án. .....................................................................................................11 6. Cấu trúc luận án. ..........................................................................................................12 CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM CỦA XUÂN DIỆU VỀ THƠ VÀ PHÊ BÌNH THƠ ..................................................................................................................................... 13 1.1. Quan niệm của Xuân Diệu về thơ. ...........................................................................13 1.1.1. Xuân Diệu bàn về bản chất thơ. ............................................................................13 1.1.2. Xuân Diệu bàn về chất lượng thơ. ........................................................................23 1.1.3. Xuân Diệu bàn về nhà thơ. ...................................................................................33 1.1.4. Xuân Diệu bàn về sáng tác thơ .............................................................................43 1.2. Quan niệm của Xuân Diệu về phê bình thơ ............................................................52 1.2.1. Nhà phê bình thơ phải có ý thức về mục đích, nhiệm vụ phê bình thơ ................53 1.2.2. Nhà phê bình thơ phải am hiểu đặc trưng của văn nghệ, đặc điểm của sự sáng tác thơ. ..................................................................................................................................56 1.2.3. Nhà phê bình thơ phải có tiêu chuẩn phê bình thơ: ..............................................57 1.2.4. Nhà phê bình thơ phải có cái “gu” (goût) trong phê bình thơ. .............................69 1.2.5. Nhà phê bình thơ phải hiểu rõ và gần gũi với công chúng thơ. ............................75 CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG VÀ THÀNH TỰU NGHIÊN CỨU, PHÊ BÌNH THƠ CỦA XUÂN DIỆU ........................................................................................... 83 2.1. Hoạt động nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu. .............................................83 2.1.1. Về thơ ca cổ điển Việt Nam... ...............................................................................83 2.1.2. Về thơ ca hiện đại Việt Nam.................................................................................84 2.1.3. Về việc giới thiệu thơ nước ngoài.........................................................................86 2.2. Xuân Diệu phát hiện lại, phát hiện mới những giá trị thơ ca truyền thống và hiện đại. ..............................................................................................................................88 2.2.1. Đánh giá đúng chữ Nhàn và cái Buồn trong thơ nôm Nguyễn Trãi. ....................88 2.2.2. Nguyễn Du với “Bản cáo trạng cuối cùng trong Truyện Kiều” ...........................91 2 2.2.3. Hiện tượng “dâm tục” và tính đa nghĩa trong thơ Hồ Xuân Hương .....................93 2.2.4. Tính trữ tình trong thơ Tú Xương. ........................................................................97 2.2.5. Nguyễn Khuyến - nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam, nhà thơ cổ điển “hầu như duy nhất của mùa thu Việt Nam”. .................................................................100 2.2.6. Thơ Bác giản dị mà thâm thúy. ...........................................................................102 2.2.7. Chất nghệ sỹ trong thơ Tố Hữu. .........................................................................106 2.2.8. Nghệ thuật cấu tứ trong thơ Huy Cận. ................................................................110 2.3. Xuân Diệu giới thiệu tinh hoa thơ ca thế giới. ......................................................113 2.3.1. Xuân Diệu ưu tiên giới thiệu thơ cách mạng, thơ chính trị thế giới. ..................113 2.3.2. Xuân Diệu đặc biệt chú ý giới thiệu kinh nghiệm sáng tác của thơ ca cách mạng thế giới ..........................................................................................................................117 2.3.3. Xuân Diệu giới thiệu thơ tình yêu trong thơ thế giới. ........................................120 2.4. Xuân Diệu đấu tranh chống những quan niệm thô thiển, dung tục trong phê bình thơ. ...........................................................................................................................124 2.4.1. Xuân Diệu tự đấu tranh bảo vệ thơ mình. ...........................................................124 2.4.2. Xuân Diệu bảo vệ giá trị và vai trò Thơ Mới trong thơ đương đại.....................129 2.4.3. Xuân Diệu đấu tranh chống hiện tượng phê bình thơ dễ dãi ..............................134 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ NÉT PHONG CÁCH NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH THƠ CỦA XUÂN DIỆU ................................................................................................... 139 3.1. Thiên hướng khám phá hình thức nghệ thuật thơ. ..............................................140 3.1.1. Đi sâu khám phá thế giới vi mô của mỗi “tế bào” từ. .........................................143 3.1.2. Cảm giác nhạy bén về sự tương xứng của ngôn từ thơ. .....................................146 3.1.3. Người sành thưởng thức nhạc điệu thơ. ..............................................................149 3.2. Lối phê bình trực cảm truyền thống kết hợp với cảm hứng nghiên cứu. ..........156 3.2.1. Phát huy sức tưởng tượng trong phê bình trực cảm............................................157 3.2.2. Cảm hứng nghiên cứu trong phê bình ................................................................163 3.3. Một ngòi bút phê bình say sưa, chân thành hết mình. .........................................167 3.3.1. Giọng điệu riêng trong phê bình nghiên cứu của Xuân Diệu. ............................167 3.3.2. Rất tinh luyện trong sử dụng từ ngữ với ấn tượng mạnh. ...................................173 3.3.3. Tính hình tượng cảm quan trong biểu hiện.........................................................176 3.3.4. Lối tạo dựng bài viết đạt tới nghệ thuật bậc cao. ................................................182 KẾT LUẬN. ............................................................................................................. 188 CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN. ........................................................................................................ 191 THƯ MỤC NGHIÊN CỨU VÀ THAM KHẢO................................................... 193 3 MỞ ĐẦU 1. Ý nghĩa và mục đích của đề tài. Xuân Diệu (2/2/1916 - 18/12/1985) là nhà thơ có một vị trí đặc biệt trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông còn là nhà nghiên cứu phê bình thơ nổi tiếng, có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển lý luận và phê bình thơ Việt Nam thế kỷ XX. Một số người nghĩ rằng, trước Cách mạng Xuân Diệu chỉ xuất hiện với tư cách một nhà thơ “mới nhất trong những nhà thơ mới” cùng nhiều bài thơ tình nổi tiếng, sau Cách mạng vì làm thư tình không hay bằng trước nên ông mới thiên về nghiên cứu phê bình thơ. Thực ra không đúng như vậy, theo Xuân Diệu quan niệm, làm thơ là một lao động nghệ thuật nghiêm túc giúp nhà thơ giao cảm với đời - và để người đọc thưởng thức được sản phẩm nghệ thuật tinh diệu ấy, vốn không thể thiếu vai trò của người phê bình, người “môi giới” thẩm mỹ. Vì thế, ngay từ trước Cách mạng, Xuân Diệu đã tiến hành hoạt động phê bình song song với sáng tác thơ. Không thuộc loại nhà thơ “tự nhiên nhi nhiên”, trong bài mở đầu của tập Thơ Thơ (1933 - 1938), Xuân Diệu đã bộc lộ mối quan niệm rõ ràng : Thơ phải ở trong đời, đến với đời, hoà với đời, có ích cho đời. …Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ Mà van vật là muôn đá nam châm... Đây là vườn chim nhả hạt mười phương; ...Đôi giếng mắt đã chứa trời vạn hộc; ...Tay ấp ngực dò xem triều máu lệ; Nghìn trái tim mang trong một trái tim ... Rồi dường như ở “vị Hoàng tử của thi ca” thiết tha với sự sống thật đắm say, nồng nàn, mãnh liệt ấy, sáng tác thơ chưa đủ để bày tỏ hết sáng tác truyện...cũng chưa đủ để bày tỏ hết, “Hoàng tử” còn đi khắp nơi nơi nói chuyện thơ, viết hàng ngàn trang tiểu luận nghiên cứu phê bình thơ để bày tỏ tấm lòng của mình đối với cuộc đời: khát khao yêu thương, khát khao giao cảm, khát khao truyền cảm, khát khao đồng cảm... Trước Cách mạng, ngay từ thuở chưa gặp Đảng soi đường, vào một đêm mùa đông giá lạnh tại Hà Nội, Xuân Diệu đã viết những dòng ấm áp như gió của mùa xuân đưa tập thơ 4 đầu tay của mình vào cuộc đời, vào vũ trụ của hồn người : Lời đưa duyên cho Thơ thơ (20/12/1938). Chính nó đã chứng tỏ ông không chỉ là người độc giả đầu tiên mà còn là nhà phê bình đầu tiên, người giới thiệu đầu tiên thơ của chính ông cùng bạn đọc. Ông mở hồn mình, lòng mình “mời gọi các cõi lòng bè bạn, xin hãy đọc “Thơ thơ” bằng cái lối đẹp nhất, tươi nhất của lòng bạn, bạn ơi”... Thật là thiết tha, rất mực nâng niu, thật là trân trọng, rất mực mến yêu, Xuân Diệu kêu gọi: “Người hãy mở tay, người hãy mở lòng mà nhận lấy”... Theo ông, thơ phải “đem tặng cho người” phải lên được cao, bay được xa “để đi tới người” thơ phải làm lòng người “ấm nóng nhờ cái nắng dư mà tôi đã cất trong mấy bài thơ tuổi trẻ [88]. Có thể nhận thấy rằng, ngay từ “Lời đưa duyên” đầu tiên này, Xuân Diệu đã xác định một quan niệm, một thái độ phê bình, một phương pháp tiếp nhận đối với thơ. Điều đó ngày càng được khẳng định trong quá trình phê bình thơ của ông. Và cứ thế, đều đặn, từ trước năm 1945, Xuân Diệu đã viết nhiều tiểu luận bàn về thơ, về nhà thơ (Thơ khó, Thơ của người, Tính cách An nam trong văn chương, Mở rộng văn chương, Một thời trơ trẽn, Cái học quẩn quanh ...). Ông không chỉ tự giới thiệu thơ mình Lời đưa duyên ....) mà còn giới thiệu thơ cổ điển (Nguyễn Du...), thơ cận đại (Tản Đà...), Thơ hiện đại (Huy Cận ...), và thể hiện quan niệm nghệ thuật của ông qua các truyện ngắn Chú Lái Khờ, Người Lệ Ngọc... Sau Cách mạng, đến với công chúng mới, ngòi bút của ông càng tung hoành ngang dọc trong mọi lĩnh vực nghiên cứu phê bình thơ, tất cả vì chất lượng của thơ, vì một nền thơ Việt nam mới vươn tới tầm quốc tế. Trong 69 năm tuổi đời, với hơn năm chục năm sáng tác, ngoài thơ, truyện, dịch thuật... Xuân Diệu để lại một di sản đồ sộ và phong phú về phương diện phê bình. Ông đã xuất bản 15 tập Thơ tiếng Việt, 7 tập truyện ngắn và bút ký, 6 tập thơ dịch, 17 tập tiểu luận, phê bình [76,4], và rải rác nhiều bài khác đăng trên các báo, tạp chí. Ông có nhiều công trình nghiên cứu phê bình thơ Việt Nam từ cổ điển đến hiện đại. Ông còn phê bình giói thiệu thơ của nhiều tác giả nước ngoài. Khoảng 225 bài viết lớn nhỏ với 3411 trang in đã khẳng định công phu lao động miệt mài của ông, với tư cách là nhà nghiên cứu phê bình thơ. (Xuân Diệu cùng có phê bình văn xuôi nhưng rất ít, chỉ có 6/231 tổng số bài sưu tập được. Tuy đã có một số ý kiến rải rác trên báo chí của các nhà nghiên cứu, song nhìn chung cho đến nay, đây vẫn là “mảnh đất” đang chờ người khai thác. 5 Vì vậy, luận án cho đề tài “ Xuân Diệu - nhà nghiên cứu phê bình thơ” nhằm mục đích góp phần nghiên cứu, đánh giá vị trí, vai trò và ý nghĩa của cây bút nghiên cứu phê bình thơ Xuân Diệu trong nền nghiên cứu và phê bình thơ Việt Nam hiện đại, ghi nhận những thành tựu to lớn của ông, phát huy những tư tưởng và phong cách riêng độc đáo của ông. Nghiên cứu Xuân Diệu từ góc độ nhà lí luận, phê bình thơ là một việc làm có ý nghĩa lí luận và thực tiễn. Luận án không chỉ tìm hiểu đánh giá hoạt động phê bình thơ của Xuân Diệu mà còn rút ra những vấn đề, những bài học có ý nghĩa cho sự phát triển đổi mới của thơ và phê bình thơ hiện nay. Qua đó, luận án mong muốn đóng góp một tiếng nói nhằm xác nhận, khẳng định có tính hệ thống, toàn diện về tài năng của Xuân Diệu, góp phần đánh giá đầy đủ, đúng mức đối với một tác gia văn học lớn đang được giảng dạy trong chương trình ở các cấp phổ thông và đại học. 2. Lịch sử vấn đề Là một hiện tượng nổi bật trong lịch sử văn học Việt Nam, thơ Xuân Diệu đã được sự quan tâm thường xuyên của giới nghiên cứu phê bình văn học, nhưng hoạt động nghiên cứu phê bình thơ của ông chưa được nghiên cứu đúng mức ... 2.1. Tình hình chung về nghiên cứu di sản nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu. Đa số các bài nghiên cứu về Xuân Diệu chủ yếu đi sâu vào sự nghiệp thơ cũng như văn xuôi, nhưng thường chỉ nói qua, nói lướt đến công việc nghiên cứu phê bình thơ của ông như bài viết của tác giả: Nguyễn Duy Bình [10], Huy Cận [12] Nam Chi [14], B.Đimitrôva [115], M.Găngxen [125], M. llinxki [146], Nguyễn Đăng Mạnh [192], M.Tcachep [245], Hoàng Trung Thông [254], A.VaxiUep [280]... Ở bài nghiên cứu Xuân Diệu thuộc quyển Nhà thơ Việt Nam hiện đại bên cạnh việc chủ yếu phân tích quá trình Xuân Diệu trưởng thành trong sáng tác thơ sau Cách mạng, Mã Giang Lân phát hiện một số đóng góp của ông trong hoạt động phê bình, giới thiệu, dịch thơ (khoảng một trang in): ưu thế về kinh nghiệm sáng tác, năng lực cảm thụ thơ tinh tế đặc biệt, cách xâu chuỗi, phát hiện, phân tích, liên tưởng độc đáo, khen nhiều chê rất ít, làm cho các tác giả thơ như được xuân hóa trẻ thêm... [163, 98-122 ] 6 Trong Từ điển Văn học tập II, bên cạnh việc khẳng định khá dài những thành tựu, đóng góp của Xuân Diệu với tư cách nhà thơ, hoạt động phê bình của ông được Nguyễn Văn Long nêu ngắn gọn : “Bằng một vốn hiểu biết phong phú và sự tinh nhạy của nhà thơ, với lối viết luôn tràn đầy nhiệt tình, cảm xúc, những tác phẩm phê bình tiểu luận, bút ký của Xuân Diệu có một tiếng nói riêng đáng chú ý” [ 168, 605]. Ngoài ra, một số bài viết về chân dung, kỷ niệm với Xuân Diệu, đặc biệt sau khi nhà văn mất, có kể một số ý về một Xuân Diệu thẳng thắn, trung thực, cần mẫn, chí tình, nghiêm túc, đầy trách nhiệm, góp ý và chữa thơ cho mình : Trần Đăng Khoa [151, 43], Lữ Huy Nguyên [202, 228], Phạm Tiến Duật [202, 102], Xuân Hoài [202, 258] .v.v... Tuyển tập Xuân Diệu tập I (1983) toàn tuyển thơ tập II (1987) chủ yếu tuyển truyện ngắn, bút ký, chỉ có vài bài thể hiện quan niệm sáng tác của ông. Trong quyển sưu tập dày dặn Xuân Diệu – về tác giả, tác phẩm (1998), Lưu Khánh Thơ chủ yếu tuyển chọn và giới thiệu những bài nghiên cứu về thơ và văn xuôi Xuân Diệu, ít đưa vào những bài viết về Xuân Diệu phê bình thơ [255]. Có phải vì thế cho đến nay, hầu như đã nói đến tên Xuân Diệu là nhiều người Việt Nam và người nước ngoài thường nhớ ngay đó là nhà thơ nổi tiếng, ít người quan niệm được đầy đủ Xuân Diệu còn đồng thời là một nhà nghiên cứu phê bình thơ lỗi lạc... 2.2. Một số bài nghiên cứu trực tiếp đề cập tới một tập tiểu luận phê bình của Xuân Diệu. Trước cách mạng, hầu như chưa có ai nghiên cứu về tiểu luận phê bình của Xuân Diệu. Sau hòa bình lập lại, có thể nói người đầu tiên bàn về tiểu luận và phê bình của ông là Chế Lan Viên, với bài Đọc “Những bước đường tư tưởng của tôi” (cuối bài ghi 25/8/1958). Chủ yếu Chế Lan Viên đã khen “cái lý sống trong thể động” của Xuân Diệu sau Cách mạng và khen “cái tình ở nhà tiểu luận có lý” này. Chế Lan Viên cũng chỉ ra nhược điểm chính của nhà phê bình Xuân Diệu lúc bấy giờ là “còn thiếu thực tế, thiếu vốn sống. Nói đến quá ít những sự việc của thế giới mới xung quanh anh sau Cách mạng” [282]. Tiếp đó, cứ một năm hoặc vài năm, mỗi khi một tập tiểu luận phê bình của Xuân Diệu ra đời lại có một hay hai bài viết trên báo chí đánh giá ưu khuyết về tập đó. Chẳng hạn: về Phê bình giới thiệu thơ có Lê Đình Kỵ, Nam Mộc, Dao có mài mái sắc có Đông Hoài, Và cây đời mãi mãi xanh tươi có Nguyễn Xuân Nam, Mài sắt nên kim có Vũ Quần Phương, 7 Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy có Chế Lan Viên, Thiếu Mai, Thơ Bungari có Đào Xuân Quý, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam có Mai Quốc Liên, Triêu Dương, Vương Trí Nhàn, và một số ý kiến điểm sách ngắn... Những bài này thường nêu nhận xét khen chê cụ thể một số đoạn, bài trong từng tập hoặc cả tập. Bên cạnh đó, một số bài tranh luận về vấn đề do Xuân Diệu nêu ra như: mối quan hệ giữa Thơ Mới và thơ cách mạng (Phan Cự Đệ, Hồ Ngọc Hương, Vũ Đức Phúc, Lê Đình Kỵ...), tập thơ Riêng Chung (Hồng Chương, Phan Cự Đệ, Vũ Đức Phúc, Tế Hanh...). Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đã nêu được một số đặc điểm của Xuân Diệu về cách nghiên cứu, cách đọc kỹ lưỡng tỉ mỉ khoa học (Nam Mộc), cách phê bình phát hiện mới mẻ cái hay, cái đẹp của thơ (Lê Đình Kỵ), năng lực cảm thụ tinh tế, sắc sảo, khiếu thẩm mỹ sành nhuyễn, phẩm chất nghệ sỹ trong phê bình, lời bình rất khám phá, giọng điệu tự nhiên, duyên dáng, nhẹ nhàng, cách viết mạnh yếu tố cảm xúc trữ tình (Nguyễn Xuân Nam, Vương Trí Nhàn, Triêu Dương, Thiếu Mai, Vũ Quần Phương...); cũng có ý kiến cho rằng Xuân Diệu phê bình thơ bằng cảm tính, khen nhiều chê ít (Triêu Dương), còn bệnh tham lam, có khi để tình ý tuôn trào lộn xộn và trùng lặp (Nguyễn Xuân Nam), có lúc tán hơi nhiều và tán gượng (Chế Lan Viên), cách viết có khi dàn trải, sa đà vào chi tiết hạn chế tính chặt chẽ của bài văn (Thiếu Mai), một số trường hợp hạn chế do thiên kiến chủ quan (Đông Hoài)... Song có lẽ do khuôn khổ bài báo cần ngắn gọn nên các tác giả chưa có điều kiện phân tích, chứng minh, đối chiếu, so sánh, đặt trong hệ thống, để những ý kiến đã nêu trên có cơ sở tăng tính thuyết phục hơn. Vì vậy chúng tôi trân trọng xin được kế thừa những ý kiến xác đáng theo quan điểm “động”: cần đặt chúng trong cái nhìn chỉnh thể - hệ thống, liên quan với những tác phẩm khác trong cả sự nghiệp của Xuân Diệu. 2.3. Một số ý kiến về tư cách nhà nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu. Trong cuốn Nhà Văn Việt Nam tập I, ở bài Xuân Diệu, Hà Minh Đức là người đầu tiên đã nêu lên một số nhận xét khái quát về mảng nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu. Ông khẳng định một tấm gương nghiên cứu cần mẫn đối với thơ cổ điển, thơ hiện đại, suy nghĩ về chất lượng thơ và công việc phê bình, giới thiệu thơ các nước và dịch ; một diễn giả hăng say giao tiếp, giao cảm, có mặt ở tất cả các hoạt động của thơ, đưa thơ về với cuộc sống và công chúng văn học, góp phần cho hướng thơ đi vào cuộc sống. Hà Minh Đức đã có những nhận định xác đáng, chẳng hạn “Xuân Diệu có khả năng tự phân tích và trình bày 8 sáng tỏ những diễn biến của mạch tư tưởng và cảm xúc ngay ở những khía cạnh uẩn khúc và khó diễn đạt. Anh thường lấy thực tế sáng tác thơ ca của mình từ trong quá trình sáng tạo đến thành quả cụ thể để chứng minh cho những vấn đề lý luận mà anh đề xuất” [120, 618]. Với bài Xuân Diệu in trong giáo trình Văn học Việt Nam 1945 - 1975 tập II, Nguyễn Trác nhìn nhận bên cạnh “Xuân Diệu - nhà sáng tác thơ văn” còn có “Xuân Diệu - nhà viết bút ký, tiểu luận và phê bình văn học”. Bài viết đã chỉ ra những hướng chính mà Xuân Diệu gắn bó trong suốt sự nghiệp văn học của mình: dìu dắt các nhà thơ lớp sau, giới thiệu các phong trào thơ quần chúng, phát hiện cái hay, cái đẹp ở các nhà thơ ưu tú, đi sâu vào thế giới tâm linh những nhà thơ nổi tiếng của dân tộc, dịch và giới thiệu các nhà thơ lớn nước ngoài. Bên cạnh đó, Nguyễn Trác còn chú ý phát hiện một số nét phong cách Xuân Diệu với “nghệ thuật diễn đạt mạnh bạo, hồn nhiên, từ rất khoẻ, ý rất mạnh, tạo được những hình ảnh, những câu lý thú không thể quên trong phê bình văn học” [257, 61]. Trong khuôn khổ bài báo Một hồn thơ còn vọng mãi, Trần Đình Sử đã nêu những nhận định khái quát, đánh giá cao “đóng góp to lớn hơn của Xuân Diệu thuộc lĩnh vực nghiên cứu phê bình thơ”. Một số ý kiến của ông về các khía cạnh của lĩnh vực này đã gợi ý cho chúng tôi trong luận án [242]... Ngoài ra, ở Từ điển Văn học tập II, mục Phê bình, lý luận, nghiên cứu văn học Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám, Phan Cự Đệ và Trần Hữu Tá có đánh giá công lao đóng góp của Xuân Diệu cùng Đặng Thai Mai, Xuân Trường, Hồng Chương ... trong đội ngũ lực lượng phê bình, đã kịp thời phát huy vai trò người chiến sĩ xung kích trên mặt trận đấu tranh tư tưởng của Đảng bằng nhiều tiểu luận có giá trị và có tính chiến đấu sắc bén [114]. Gần đây, một vài luận văn thạc sĩ có đề cập phần nào tới Xuân Diệu với mảng phê bình dựng chân dung văn học nhưng ở mức độ còn sơ lược [206], [256]. Như vậy, cho đến nay, trong nghiên cứu, đề tài “ Xuân Diệu - nhà nghiên cứu phê bình thơ” vẫn còn là mảnh đất trống chưa được khai thác bao nhiêu. Tuy nhiên, những ý kiến xác đáng rải rác trong các bài đã nêu đều là những gợi ý bổ ích cho chúng tôi và những ai quan tâm tới đối tượng này. Phần lớn các bài báo, các tiểu luận đề cập nhũng công trình nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu chủ yếu từ sau Cách mạng Tháng Tám, ít nhiều đã khẳng định đóng góp của ông trong thời đại mới của thi ca dân tộc. Các tác giả khá thống nhất khi nói đến cách phê bình phát hiện, tìm tòi, sự nghiên cứu công phu, tài thẩm thơ tinh tế, khiếu thẩm mỹ sành và 9 nhuyễn, tính trung thực, tính chiến đấu, tính sáng tạo của Xuân Diệu - một cây bút phê bình có bản sắc... Song đó mới là những nhận xét chung, những nhận định quá ngắn, hoặc lẻ tẻ từng phương diện, chưa có những công trình nghiên cứu, đánh giá toàn diện, nhiều mặt các hoạt động phê bình nghiên cứu giới thiệu thơ của Xuân Diệu. Công trình của chúng tôi thuộc số những công trình đầu tiên nghiên cứu một cách bao quát, quy mô. 3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu của luận án. Đây là luận án đầu tiên đặt nhiệm vụ tìm hiểu một cách hệ thống, tương đối toàn diện, về hoạt động, thành tựu và bản sắc trong phê bình thơ của Xuân Diệu, bắt đầu từ quan niệm của ông về thơ và phê bình thơ, đến một số đóng góp cơ bản của ông trong việc nghiên cứu phê bình các hiện tượng thơ cụ thể, những đặc điểm nổi bật trong phong cách nghiên cứu phê bình thơ của ông. Đối tượng nghiên cứu của luận án là toàn bộ các bài tiểu luận phê bình của Xuân Diệu mà chúng tôi thu thập được. Đó là một khối lượng không nhỏ gồm khoảng 225 bài tiểu luận bàn về thơ, nghiên cứu phê bình thơ cổ điển, thơ hiện đại, thơ nước ngoài, với khoảng 3411 trang in. Không tiến hành nghiên cứu sâu tất cả mọi hoạt động phê bình thơ, cũng như không xem xét đồng loạt các tác giả, tác phẩm mà Xuân Diệu đã đề cập, chúng tôi ưu tiên tập trung chú ý tới những hiện tượng nổi bật, thể hiện rõ quan niệm nhất quán của nhà thơ về thơ và phê bình thơ, để bước đầu nhận định toàn diện về Xuân Diệu - nhà nghiên cứu phê bình thơ. Luận án coi sự nghiệp nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu là một thể thống nhất hoàn chỉnh.Từ những quan niệm rõ ràng, chuẩn mực về thơ, về phê bình thơ, với những phương pháp phê bình nhất quán, Xuân Diệu đã đạt được không ít những thành tựu trong phê bình thơ cổ điển, thơ hiện đại, thơ nước ngoài, đồng thời thể hiện những điểm đặc sắc trong phong cách phê bình thơ của ông. 4. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu. Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu nói trên, luận án kết hợp vận dụng các nghiên cứu của khoa văn học mác xít, kết hợp các phương pháp chủ yếu sau đây: 4.1. Phương pháp hệ thống : 10 Với quan niệm thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể, xuất phát từ đặc điểm riêng trong thi pháp nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu, luận án chú trọng tìm ra những thành tố tạo nên diện mạo và quy luật hoạt động nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu. Mọi đối tượng, mọi vấn đề khảo sát được chúng tôi đặt trong tương quan, hệ thống, trong quy luật tác động lẫn nhau giữa quan niệm, tư tưởng, phương pháp và phong cách cùng thành tựu của nhà phê bình. 4.2. Phương pháp phân loại thống kê Đối với từng thành tố trong chỉnh thể, khi cần thiết, luận án thực hiện phân loại và thống kê qua các con số cụ thể 4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu Luận án vận dụng cả trên hai chiều lịch đại và đồng đại để khẳng định các mặt tiêu biểu và những nét độc đáo cá nhân về một phương diện trong sáng tác của Xuân Diệu: nghiên cứu phê bình thơ. 4.4. Phương pháp liên ngành : Khi cần thiết, luận án sử dụng những kết luận và phương pháp nghiên cứu của triết học, tâm lý học và ngôn ngữ học... 5. Cái mới của luận án. - Đây là luận án đầu tiên trình bày một cách toàn diện quan niệm của Xuân Diệu về thơ, sáng tác thơ, nhà thơ, về phê bình thơ, tiêu chuẩn đánh giá thơ. - Đánh giá tổng thể hoạt động phê bình, giới thiệu thơ của Xuân Diệu, đặc biệt là những đóng góp trong việc phê bình các hiện tượng thơ ca cụ thể (thơ ca cổ điển, thơ ca hiện đại, thơ ca nước ngoài). - Nhận xét, về những nét độc đáo trong phương pháp và phong cách nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu, cái làm nên ngòi bút đặc sắc của ông. Từ đấy, luận án xác định vai trò, vị trí những đóng góp lớn lao của Xuân Diệu đối với nền lý luận bình thơ, đối với việc nâng cao chất lượng thẩm mỹ của thơ, nâng cao trình độ thưởng thức thơ. 11 Luận án cũng góp phần lưu ý vị trí tiếng nói phê bình, nghiên cứu của Xuân Diệu trong chương trình giảng dạy ở Phổ thông và Đại học với tư cách là một nhà nghiên cứu phê bình thơ. 6. Cấu trúc luận án. Để giải quyết các nhiệm vụ đã trình bày, ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, Nội dung luận án gồm 3 chương: Chương 1: Quan niệm của Xuân Diệu về thơ và phê bình thơ. Chương này tập trung tìm hiểu một cách hệ thống bước đầu quan niệm của Xuân Diệu về thơ, về nhà thơ, về quá trình sáng tác thơ, và về phê bình thơ. Chương 2: Hoạt động và thành tựu nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu. Chương này đi sâu vào những đóng góp của Xuân Diệu trong công việc nghiên cứu phê bình thơ cụ thể. Với phạm vi luận án, chúng tôi chỉ xem xét được trên ba phần lớn: thơ cổ điển Việt Nam, thơ hiện đại Việt Nam, thơ nước ngoài, và đi vào một số vấn đề mà Xuân Diệu đặt ra cho phê bình lúc sinh thời. Chương 3: Một số nét phong cách nghiên cứu, phê bình thơ của Xuân Diệu. Chương này bước đầu phân tích và khái quát một số điểm đặc sắc, độc đáo, nổi bật trong cách nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu. Ông không chỉ là một nhà thơ lỗi lạc làm phê bình mà còn là một người phê bình rất say mê, tâm huyết, rất sáng tạo, có vốn văn hóa rộng lớn, luôn đối thoại với người và đối thoại với mình, tất cả nhằm góp phần nâng cao chất lượng sáng tác thơ và thưởng thức thơ. Phần Thư mục nghiên cứu và tham khảo gồm 297 đơn vị. 12 CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM CỦA XUÂN DIỆU VỀ THƠ VÀ PHÊ BÌNH THƠ 1.1. Quan niệm của Xuân Diệu về thơ. Bất cứ nhà thơ nào khi sáng tác cũng có một quan niệm về thơ làm cơ sở. Đối với Xuân Diệu, quan niệm ấy không chỉ có ý nghĩa cho việc làm thơ mà còn là cơ sơ lý luận cho hoạt động phê bình thơ. Qua khảo sát hơn hai trăm bài viết lớn nhỏ của ông, chúng tôi thấy: so với một số nhà thơ và nhà phê bình thơ khác, ý kiến về thơ của Xuân Diệu rất phong phú, tuy phát biểu có phần tản mạn nhưng khá nhất quán. Nhìn trong tổng thể, đó là một hệ thống quan niệm bao gồm nhiều mặt nội dung liên kết gắn bó hữu cơ với nhau về thơ, về nhà thơ, về sáng tác thơ.... Trong phần này, chúng tôi xin trình bày một số điểm cơ bản, mang tính chất bao trùm, có tác dụng chi phối hoạt động phê bình thơ của Xuân Diệu. 1.1.1. Xuân Diệu bàn về bản chất thơ. Ai cũng biết định nghĩa về thơ là rất khó. Người xưa nói: “Thơ như con rồng thần”. Tố Hữu nói: “Thơ là cái nhụy của cuộc sống”, “Thơ là tấm gương của tâm hồn” Sóng Hồng khẳng định: “Thơ là sự thể hiện con người và cuộc sống một cách cao đẹp”. Theo Huy Cận, “Thơ là một kích thước cơ bản của con người bất cứ ở đâu và bài cứ ở thời nào”. Lưu Trọng Lư cho rằng: “Thơ là cuộc sống tập trung cao độ, là cái lõi của cuộc sống”. Chế Lan Viên đòi hỏi: thơ “trên cơ sở thực và chân ấy, nó cần phải ảo nữa”. Hoài Thanh quan niệm “Thơ là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại”, “muốn thành thơ, trước hết phải có tình”.v.v... Như vậy, “Thơ là gì ?” là một câu hỏi không dễ trả lời. Và hầu như có bao nhiêu người làm thơ thì cũng có thể có bấy nhiêu cách định nghĩa về thơ. Xuân Diệu cũng nói: “Thật là khó định nghĩa thơ là cái gì; tuy nhiên, ai cảm thấy cái kỳ diệu của tình yêu, thì cũng có thể bằng cách tương đương liên hệ, mà lĩnh hội được cái kỳ diệu của thơ” [76, 264]. Đối với ông, đó là một quá trình không ngừng tìm tòi, phát hiện, điều chỉnh, vươn tới... từ thuở hoa niên cho đến những năm tháng cuối đời. 1.1.1.1. Thơ là sự sống mãnh liệt, sâu sắc, say mê...được lọc qua tâm hồn và trí tuệ. Đọc kỹ Xuân Diệu, ta thấy một trong những quan niệm cổ điển, cái tạo nên niềm tin suốt đời, bao trùm quá trình sáng tác và phê bình thơ, xuyên suốt các bài viết của ông từ trước đến sau Cách mạng là: Thơ là sự sống. Đó không chỉ là vấn đề thơ không thoát ly 13 cuộc đời, mà làm thơ tràn đầy xúc động tâm hồn, tràn đầy sự sống đắm say ấm nóng, “trẻ tuổi trẻ lòng”, luôn luôn mới mẻ, không tù đọng, coi trọng sự giải phóng cá tính, tự do trong tư tưởng và trong diễn đạt, không theo một lối mòn nào. Đó là thơ đẹp, tinh tế, tao nhã, làm cho nhân cách con người lớn lên... Quan niệm thơ ấy thể hiện ngay từ Lời dưa duyên mở đầu tập Thơ Thơ (1933 - 1938) Xuân Diệu tự giới thiệu những bài thơ của ông. Đó chính là sự sống mãnh liệt của tâm hồn: “Đây là lòng tôi đương thời sôi nổi, đây là hồn tôi vừa lúc vang ngân, và đây là sự sống của tôi nữa: tôi đem tặng cho người”... “Tôi để lòng tôi trong những câu, những tiếng, tôi đã gửi nhịp máu trong nhịp thơ, đã gói ghém hơi thở của tôi trong ít nhiều âm điệu. Tôi sợ mất sự sống của tôi, không muốn nó rơi rớt chảy trôi theo dòng ngày tháng, tôi đã ráng bỏ từng mảng đời tôi trong hàng chữ, để gửi đi, gửi đi cho người, cho người bốn phương”...[88]. Đúng như vậy, chúng ta thấy ở đây sự sống ăm ắp trong tất cả những nỗi niềm thi sĩ. Cụ thể hơn, đây là sự sống sôi nổi với hồn vang ngân, tràn đầy nhịp thở, nhịp máu, nhịp điệu tâm hồn trẻ trung xúc động... Làm thơ là bỏ từng mảng đời vào trong hàng chữ...Bao giờ Xuân Diệu cũng khẳng định cuộc sống là đáng yêu, đọc thơ ông trước Cách mạng, độc giả như được nạp thêm năng lượng, muốn sống tích cực hơn, ông có ảnh hưởng đến Thơ Mới rất lớn, được: đánh giá “mới nhất mong các nhà Thơ Mới”. Ở bài Cảm xúc tặng Thế Lữ, Xuân Diệu đã quan niệm về người thi sĩ phải sống trong thế giới cảm xúc, trong niềm khát khao giao cảm với thiên nhiên, với mọi người trong cuộc đời, với tình yêu... Là thi sĩ, nghĩa là ru với gió, Mơ theo trăng, và vơ vẩn cùng mây, Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây, Hay chia sẻ bởi Trăm tình yêu mến... Sau Cách mạng, Xuân Diệu có điều kiện kiểm nghiệm, nếm trải, khái quát, làm cho quan niệm thơ đó ngày càng sâu sắc. Khi bàn luận về Công việc làm thơ, về mối quan hệ giữa thực tế và thơ, ông viết : “Thơ của chúng ta là sự sống, mà sự sống là từ thực tế, thực tiễn; cái cốt lõi, máu thịt của thơ chúng ta là thực tế chiến đấu và sản xuất; mặt khác có cốt là để có hồn, hồn thơ. Qui luật lớn của nhà thơ là xúc cảm và suy nghĩ” [76, 149]. Theo ông, xúc cảm ở đây không chỉ là rung động tình cảm, bởi vì người ta có thể rung động rất nhiều, thiết tha, chân thành đến ứa lệ, nhưng ra nước mắt chưa hẳn đã ra thơ; nói “xúc cảm là nói tới rung động tình cảm đồng thời với một cơn rung động về vần điệu, hình tượng, âm thanh, một hứng thú 14 sáng tạo'” [51, 79]; và suy nghĩ ở trong thơ cũng phải đến mức cao hơn suy nghĩ bình thường, “Tức là suy nghĩ trở thành xúc cảm” [76, 149]. Từ đấy, Xuân Diệu xác định : “Bài thơ hay kết hợp được cảm và nghĩ, cảm là xúc cảm và tình cảm; nghĩ hiểu theo nghĩa rộng là có tính tư tưởng, chứ không bắt buộc bài thơ cứ phải suy nghĩ, cố mà “suy nghĩ” đến nỗi thành ra triết lí dễ dàng. Trong xúc cảm, tình cảm cũng mang tính tư tưởng” [76, 175]. Ông quan niệm “bài thơ nên đầy nặng tư tưởng” nhưng tư tưởng trong thơ phải thông qua xúc cảm. Tư tưởng là những khái quát được lọc ra từ sự sống và phải trở về phục vụ sự sống qua những xúc cảm thành thơ. “Nhà thơ hay, là hay bằng tư tưởng, bằng tình cảm, bằng chí khí, bằng tính tình, nhưng tất cả những cái hay phải thông qua xúc cảm, cảm giác” [56, 273]. Khác với một nhà tư tưởng, một nhà triết học, “đặc điểm của nhà thơ là xúc cảm, nhà thơ đầy xúc cảm, diễn đạt bằng xúc cảm, suy nghĩ qua xúc cảm” [76, 175]. Trên cơ sở đó, ông ca ngợi Đào Tấn đã sử dụng một cách tài tình thể “từ” chứa đầy xúc cảm, tình cảm: “Nội dung các bài “từ” không phải ở mức xương thịt nữa, cũng không dừng ở mức máu huyết nữa mà tinh vi hơn, đã là hệ các dây thần kinh rồi. Từ ý, tứ, tình, đã tia lên thành xúc cảm, mỗi bài là một mảnh tâm trạng, và vai trò của nhịp điệu, của âm thanh ở đây thật là quan trọng”... “Đây là một thể loại thơ đặc biệt, một hình thể thơ tinh vi như một mạng lưới li ti huyết quản”... “Nhất điểm linh đài. Trong cái xã hội cũ đau thương, sao tâm hồn của thi sĩ này có một khả năng xúc cảm đén như thế! Vốn đó là suy nghĩ, nhưng ở nhà thơ, thì suy nghĩ hóa thành dây thần kinh run rẩy ngân vang” [87, 284]... Trong hàng loạt các bài tiểu luận (Thêm mấy ý kiến về thơ 1949, Quy luật cuộc sống và quy luật tác phẩm trong thơ 1961, Công việc làm thơ 1973, Hiện tượng Tản Đà 1982...), Xuân Diệu luôn khẳng định “Thơ là kỹ sư tâm hồn hơn loại nào hết, là nội tâm của tình cảm” [76, 139], “Xúc cảm, tình cảm, tâm hồn là quy luật cơ bản của thơ” [76, 140], vì vậy không thể và không bao giờ người làm thơ “mà coi thường nội tâm” [76, 139]. “Thơ là tiếng hát của tâm hồn, thơ là sự chân thực trần trụi của tâm hồn”. “Hơn các thể loại văn học khác, thơ diễn dạt xúc cảm, tình cảm, tâm hồn, tâm trí diễn đạt thế giới bên trong, nội tâm, nếu thơ quá chú ý đến ngoại thể, thì thơ hướng ra bên ngoài, đó là điều mà người đọc không chờ đợi ở thơ” [76, 271]. Ông nhấn mạnh: “Nghĩ cho kỹ thì thơ là nhân những “lượng thông tin” của sự vật mà phát hiện những phản ánh và sáng tạo kỳ diệu trong tâm hồn người” [76, 148]. Vì thế, ngay từ năm 1949, Xuân Diệu phê phán những quan niệm không đúng như “Thơ bây giờ (trong kháng chiến chống Pháp) không nói tâm tình, tình cảm, chỉ nói cảm 15 xúc mà thôi” [29, 82]. Theo ông phân tích, trong hệ thống văn chương tư sản trước kia, một số thi sĩ như Bôđơle chủ trương thơ không nói tình cảm (sentiment) mà chỉ nói đến cảm giác (sensation), chuyên chú vào cảm giác. Các thi sỹ kháng chiến không phải là những con người chỉ đi tìm cảm giác, nhưng nếu cho rằng thơ bây giờ không cần nói tâm tình, tình cảm, thì rơi vào “cảm giác chủ nghĩa”. Bởi vì “một thời đại mới lên rất nhiều tình cảm, những con người trẻ rất nhiều tình cảm”, cho nên thơ kháng chiến không chỉ nói cảm xúc là đủ mà cần phải nói những tâm tình, tình cảm mới của những con người kháng chiến. Khác với những tình cảm ủy mị thời trước, tình cảm của những con người mới trong thời đại mới là “nhựa vọt lên từ lịch sử, từ đất đai” có ý nghĩa tích cực, là “những động cơ mãnh liệt làm cho cuộc đời bước tới”. Nếu người làm thơ cứ tránh né, e ngại, sợ sa vào cái gọi là “chủ nghĩa tình cảm” mà không dám nói tới, không dám phản ánh, không dám đưa tình cảm vào thơ, thì đó là một thái độ cứng nhắc, giáo điều. Ông khẳng định: “ Chỉ còn cẩn thận ở cách nói về tình cảm thế nào nữa thôi... Chứ lấy con mắt nhìn những tình cảm cũ khi trước để nhìn tình cảm mới bây giờ, là nhầm lẫn, và cứ nhất định sợ tình cảm, là một thái độ già” [29, 82–83]. Cao hơn nữa, Xuân Diệu cho rằng Thơ là một sản phẩm của trí tuệ gắn chặt với thực tại, với xã hội, với tình cảm con người.. Ông bàn luận : “Gần đây, nhiều bạn làm thơ có chủ ý tốt, muốn làm thơ chứa đầy trí tuệ, có tầm cao của tư tưởng. Tuy nhiên số bạn đó hiểu nhầm thơ trí tuệ, thơ tư tưởng. Không phải cứ là thơ nói những chuyện tư tưởng, tôi suy nghĩ trước cuộc đời như thế này thì mới là thơ cao, rộng, xa. Cần và nên trở lại với cái từ quen thuộc của ta “tính tư tưởng” cao hay thấp” [76, 59]... Như vậy, thơ cần có tính tư tưởng, nhưng không được trở thành “thơ tư tưởng”. Tự kiểm nghiệm mình, Xuân Diệu nói rõ hơn: “Thơ có tính tư tưởng cao không phải là thơ trừu tượng, thơ thuần lý. Trước Cách mạng, những nhà thơ chúng tôi đã ở trên núi cao siêu hình. Bây giờ, theo ý tôi không nên có thứ thơ ở trên núi cao thuần lý. Những tư tưởng cộng sản xã hội chủ nghĩa của những nhà thơ chúng ta nay cũng phải đi tìm thực tại và quần chúng mà nhập thân vào rồi hóa thành thơ” [76, 59]. Ông phân biệt rõ ràng các khái niệm: “Lý trí là nòng cốt của tư tưởng, là cái sức lí luận của trí tuệ, cái khả năng nhìn sự vật một cách khách quan, khoa học. Lí trí là phần tình ở trong thơ, cái phần dẫn dắt bài thơ, bảo đảm cho nó đúng và tốt”. Còn trí tuệ do đâu mà có: “Trí tuệ là cái kết quả cao cuối rất tinh vi, kì diệu của sự phản ánh thực tại vào trong tâm não con người, và ở trong nghệ thuật, trí tuệ tự nó lại lấy những tài liệu, chất liệu của thực tại mà sáng tạo ra tác phẩm”. 16 Từ đó Xuân Diệu xác định: “Một tác phẩm nghệ thuật là sự quyện xé nhào nặn giữa thực tại và trí tuệ (bao gồm tư tưởng, tình cảm, cảm xúc, cá tính...) của nghệ sĩ khi đã có nguyên liệu của thực tại rồi (do đi thực tế, thâm nhập thực tế, đọc báo chí, nghe đài phát thanh...), người thi sĩ phải làm bài thơ của mình như một công trình kiến trúc” [47, 130-132]. Như vậy, theo Xuân Diệu, bài thơ là kết quả của mối quan hệ hữu cơ giữa lí trí , trí tuệ và tình cảm, tâm hồn. Tính tư tưởng của thơ thể hiện trong xây dựng hình tượng, như thế sức hấp dẫn mới mạnh, sức lôi cuốn mới lớn. Thơ cần chú ý đảm bảo được phần tỉnh táo, đúng đắn của lí trí, nhưng không phải cái lý trí lý luận (theo tiếng Pháp: raison raisonnante). Những sự vật trong đời sống thực tế, những tình cảm, xúc cảm trong con người là những nguyên liệu cho trí tuệ nhào nặn. Nếu không gắn chặt với tình cảm thì thơ sẽ đi vào mờ mịt, mông lung, cuối cùng là trống rỗng, không thực hiện được chứ năng giáo dục. Nếu không có trí tuệ thì thơ sẽ kể lể, chụp ảnh, cóp nhặt, đếm, sẽ thành “một cỗ tùy tùng vụng dại tầm thường của thực tại” [47, 130-133]. Trên cơ sở đó, Xuân Diệu khen cảnh của Nguyễn Đình Chiểu đã kết hợp hài hòa tình cảm và trí tuệ cho nên đầy sức sống, mang vẻ tươi mát của cuộc đời: Nhà thi sĩ đã đưa vào trong thơ “cái ngồn ngộn của đất trời nhiệt đới, cái thiên nhiên rất mực phong phú của núi sông Việt Nam ta, có ong, có ve, có cá, có chim”... Nếu những cảnh đó chỉ thiên về trí tuệ thì sẽ chẳng khác gì những bức tranh “trên men sứ độc bình” khô cứng...[87, 234]. Tóm lại, quy luật quan trọng trước tiên của tác phẩm thơ, cũng như của nhiều tác phẩm nghệ thuật khác, theo cách Xuân Diệu nói, là “sự cộng thêm vào thực tại một tâm hồn, một trí tuệ, một tình cảm, một sáng tạo” [76, 35]. Tác phẩm thơ được sinh ra do “sự quyện xe” rất tập trung, nâng lên cao độ của thực tại khách quan với tâm hồn và trí tuệ con người – sự kết hợp ấy cao nhất, hài hòa nhất. Đó là một quan niệm khá đúng đắn và đầy đủ, kín kẽ. “Thơ là tiếng gọi đàn, là sự đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu của những con người lao động, phấn đấu, suy nghĩ, yêu thương, trong cái phần cao nhất, sâu nhất của họ, tức là tâm trí” [76, 33-34]. Khẳng định tính tư tưởng của thơ là đúng. Tuy nhiên, có khi nhà thơ hiểu tư tưởng trong thơ là tư tưởng tập thể, tư tưởng giai cấp: “Chính giai cấp sinh ra ý nghĩ khơi nên tình cảm, thúc đẩy hành động, gợi thành tác phẩm”[51, 69]. Như vậy, Xuân Diệu phần nào giản đơn hóa tính tư tưởng trong thơ, coi nhẹ nét tư tưởng riêng mang cá tính của người làm thơ. Và rất có thể, sự giảm sút cá tính trong sáng tác của Xuân Diệu thời kì sau có phần gắn liền với cách hiểu sơ lược về tính tư tưởng trong thơ... 17 1.1.1.2. Thơ là tính chất của cuộc đời. Trong bài Tiếp nhận ảnh hưởng của thơ truyền thống, Xuân Diệu kể: “Về phần riêng tôi năm 1937 tôi đã tự viết: Đây là quán tha hồ muôn khách đến Đây là bình thu hợp trí muôn hương... Trí là trí tuệ tức là tinh chất của muôn hương. Đây là một sự ao ước, một tư thế thu hút của tâm hồn...” [76, 96]. Năm 1939, Xuân Diệu bàn về bản chất của thơ (bài Thơ khó): “Thơ thực là thơ thì phải cho “thuần túy”; người thi sĩ gắng sức đi tìm thơ thuần túy (la poésie pure) nghĩa là đi thu góp những cái tinh hoa, những cái cốt yếu, cái lõi của sự vật; vì vậy thơ phải súc tích, phải sắc lại như một thứ thuốc nấu nhiều lần”. “Những sự vật thường thường vẫn nhạt, vẫn loãng, thi sĩ đem kết lại, đọng lại, tụ lại làm nên những câu thơ đậm đà; tài liệu thì vẫn lấy trong đời thường, trong cuộc sống hằng ngày, trong những sự rung động của trái tim, của xương thịt; nhưng khi đã đem vào thơ thì tài liệu biến đi và thành ngọc, châu”. “ Vì sao thơ khó? Vì thơ đi xa văn xuôi, thơ ở trong một thế giới riêng; thơ vẫn là sự sống nhưng đầy sự sống đọng lại, kết tinh lại biến thành cái đẹp” [94, 572]. Đáng chú ý là ở đây Xuân Diệu đã nói đến “ thơ thuần túy” nhưng không đi đến chỗ gạt bỏ những gì gọi là “phi thơ” như các nhà thơ phương Tây, mà chỉ trương gạn lấy tinh chất cuộc đời. Sau Cách mạng, Xuân Diệu tiếp tục khẳng định quan niệm của mình trong nhiều bài tiểu luận: “Tinh chất của sự vật là cái đập được vào sự xúc cảm, sự suy nghĩ của con người; nó không phải ở vỏ ngoài mà lặn ở bên trong: Tìm tinh chất là tìm cái phần người, cái phần nhân hóa ở sự vật”[76, 36]. “Tinh chất tức là cái hồn sự vật”[29, 89], “tức là sự vật được phản ánh vào tâm tình”[51, 74]. “Chân chất mới thật sự là tinh chất của thơ”[76, 278]. Như vậy theo Xuân Diệu tinh chất có nghĩa là các tinh túy, cốt lõi, sâu sắc, bản chất, đẹp đẽ, những gì có giá trị cao nhất rút ra từ mọi sự vật và hiện tượng trong đời sống như rượu nồng cất từ gạo nếp, như tơ óng rút từ ruột tằm, như “những viên ngọc từ hồn nảy ra”...Thông thường, người đọc chỉ in sâu vào những bài thơ hay, câu thơ hay mà họ cho là tinh hoa nhất, sâu sắc nhất. Thơ của các thi hào được các thế hệ truyền cho nhau nhớ mãi. Vì thế, người làm thơ trong khi sáng tác, muốn cho người đọc nhớ rất lâu trong thơ mình, 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan