Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh th...

Tài liệu Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh thanh hóa

.PDF
125
11
106

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN MINH XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA Công trình được hoàn thành tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Hồng Thái Phản biện 1: Phản biện 2: Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2012. TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Có thể tìm hiểu luận văn tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội HÀ NỘI - 2012 1 2 MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA Lời cam đoan MỤC LỤC Danh mục các từ viết tắt DANH MỤC CÁC BẢNG MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIAO THÔNG ĐƢỜNG 8 BỘ 1.1. Giao thông, giao thông đường bộ, hành lang an toàn đường bộ 8 1.1.1. Giao thông 8 1.1.2. Giao thông đường bộ 8 1.1.3. Hành lang an toàn đường bộ 9 1.2. Trật tự an toàn giao thông đường bộ 10 1.3. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ 12 1.3.1. Khái niệm 12 1.3.2. Vai trò của công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ 19 Chƣơng 2: Thực trạng vi phạm pháp luật giao thông Đƣờng bộ trên địa 23 bàn tỉnh Thanh Hóa 2.1. Khái quát hệ thống giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa 23 2.1.1. Vị trí địa lý và dân cư 23 2.1.2. Hệ thống giao thông 24 2.1.3. Đặc điểm giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa 26 4 2.1.4. Cơ cấu quản lý hệ thống giao thông đường bộ 27 2.2. Thực trạng vi phạm pháp luật giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa và công tác xử lý vi phạm 28 2.3. Thực trạng vi phạm hành lang an toàn đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa và công tác xử lý vi phạm 51 2.3.1. Tình hình vi phạm hành lang an toàn đường bộ 51 2.3.2. Công tác xử lý vi phạm hành lang an toàn đường bộ 56 2.4. Nguyên nhân vi phạm pháp luật giao thông đường bộ 62 Chƣơng 3: 80 Một số giải pháp hạn chế vi phạm pháp luật giao thông đƣờng bộ, nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đƣờng bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa 3.1. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật giao thông đường bộ và pháp luật trong các lĩnh vực khác có liên quan 80 3.2. Tăng cường tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm minh, triệt để, kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật giao thông đường bộ 83 3.3. Tăng cường công tác kiểm định chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe cơ giới, quản lý phương tiện xe cơ giới và công tác đào tạo, sát hạch thi cấp giấy phép lái xe 86 3.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ, tăng cường công tác bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ và hành lang an toàn đường bộ 88 3.5. Đổi mới và duy trì thường xuyên công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật giao thông đường bộ 93 KẾT LUẬN 102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104 PHỤ LỤC 113 5 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ATGT : An toàn giao thông ATGTĐB : An toàn giao thông đường bộ GTĐB : Giao thông đường bộ QLNN : Quản lý nhà nước QPPL : Quy phạm pháp luật TNGT : Tai nạn giao thông TNGTĐB : Tai nạn giao thông đường bộ TTATXH : Trật tự an toàn xã hội UBND : ủy ban nhân dân 6 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Thống kê số lượng nhà dân, công trình dịch vụ xăng dầu, 54 bảng 2.1 mở đường ngang đấu nối vào các quốc lộ 1A, 45, 47, 10, 217, 15 đến tháng 12 năm 2010 2.2 Thống kê số công trình nằm trong hành lang ATGT đường Hồ Chí Minh đến tháng 12 năm 2010 7 55 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong đời sống xã hội mỗi hoạt động của con người đều gắn liền với một loại hình giao thông nhất định, nhưng phổ biến nhất là giao thông đường bộ (GTĐB). Là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng, việc phát triển tốt GTĐB sẽ tạo tiền đề cho phát triển kinh tế- xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, đổi mới và phát triển đất nước. Giao thông đường bộ, đường thủy và đường sắt được xây dựng hiện đại không chỉ là trách nhiệm của các cấp chính quyền, mà còn là mong mỏi của mọi tầng lớp nhân. Hệ thống GTĐB hoàn thiện sẽ tạo thuận lợi trong giao thương hàng hóa, giao lưu giữa các vùng miền, các dân tộc, chi phí cho vận tải được giảm xuống, giảm thời gian hành trình cho phương tiện, tiết kiệm chi phí xã hội đồng thời là mục tiêu trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước. Cùng với sự phát triển chung của đất nước về GTĐB, có thể nói chưa bao giờ hệ thống GTĐB ở tỉnh Thanh Hóa phát triển như hiện nay. Đó là nhờ sự nghiệp đổi mới do Đảng và Nhà nước đề ra, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Thanh Hóa, sự nỗ lực của chính quyền địa phương và do sự đóng góp của nhân dân. Thực tế GTĐB luôn là "nguồn nguy hiểm cao độ" hay phát sinh những rủi ro bất lợi cho xã hội như ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông đường bộ (TNGTĐB) do vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này gây ra. Trong những năm qua, không chỉ riêng Thanh Hóa, hiện tượng vi phạm pháp luật GTĐB ngày một gia tăng và diễn biến hết sức phức tạp, tai nạn giao thông (TNGT) luôn có nguy cơ xảy ra, số vụ, số người chết, số người bị thương do TNGT luôn biến động khó lường theo chiều hướng gia tăng, gây khó khăn 8 cho hoạt động quản lý nhà nước (QLNN) và ảnh hưởng lớn đất trật tự an toàn xã hội (TTATXH). Với những hậu quả của việc vi phạm pháp luật GTĐB ngoài việc gây mất TTATXH, thì TNGTĐB còn gây ra sự ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng đồng, lấy đi tương lai thế hệ trẻ của đất nước, làm tăng thêm nỗi lo, gánh nặng cho mỗi gia đình, cho mỗi địa phương và cho toàn xã hội, đồng thời ảnh hưởng to lớn đến tài chính của các địa phương. Nhưng vấn đề TNGTĐB cũng có thể dự đoán và phòng ngừa thông qua các hoạt động của các cơ quan QLNN, hành động của nhân dân và toàn xã hội. Đó là việc xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực này. Đây vừa là biện pháp hàng đầu để ngăn chặn vi phạm pháp luật, nhưng đồng thời "là một biện pháp giáo dục hiệu quả nhất"- Theo ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị An toàn giao thông toàn quốc (Thông báo số 17/TB-VPCP ngày 30 tháng 01 năm 2008). Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB là một hoạt động phức tạp, xuất phát từ sự đa dạng của các đối tượng và các phương tiện tham gia GTĐB, việc thực hiện nhiệm vụ của lực lượng chức năng đôi lúc còn chưa nghiêm, chưa minh bạch, thiếu cương quyết, chưa kịp thời, chưa thấu tình, đạt lý. Hơn nữa, sự phân công, phân cấp quản lý trong lĩnh vực này chưa rõ ràng; bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức đảm nhiệm chức năng xử lý vi phạm hành chính về GTĐB vẫn còn nhiều hạn chế, trang thiết bị, công cụ hỗ trợ cho lực lượng này còn thiếu; hệ thống cơ sở hạ tầng của tỉnh Thanh Hóa cũng chưa đồng bộ, thiếu liên hoàn. Đề nâng cao hiệu quả hiệu công tác QLNN, giữ gìn trật tự an toàn giao thông đường bộ (ATGTĐB), ngăn ngừa vi phạm, giảm nhẹ thiệt hại do vi phạm pháp luật GTĐB gây ra đồng thời tăng cường hiệu quả xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB, trên phương diện lý luận chung về Nhà nước và pháp luật tôi chọn đề tài "Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực 9 giao thông đƣờng bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa" làm luận văn tốt nghiệp cao học luật. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước tình hình phát triển như hiện này, GTĐB luôn là đề tài được được các nhà lập pháp, nhà quản lý, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Ở Việt nam trong những năm gần đây có một số đề tài nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực GTĐB có thể kể ra như sau: - Nguyễn Quang Huy, Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao thông (qua thực tế tỉnh Thái Nguyên), Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội năm 2007. Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật GTĐB, thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực GTĐB; phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật trong việc đảm bảo ATGTĐB, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự ATGTĐB; những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân khách quan, chủ quan của những tồn tại hạn chế trong thực hiện pháp luật trong lĩnh vực bảo đảm trật tự ATGTĐB. Luận văn cũng đưa ra quan điểm, một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự ATGTĐB. - Đào Văn Minh, Quản lý nhà nước bằng pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ của chính quyền cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay. Luận văn thạc sĩ bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008. Luận văn đã đánh giá khái quát thực trạng tình hình trật tự ATGTĐB, những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của công tác QLNN bằng pháp luật của chính quyền xã, thị trấn ở tỉnh Thanh Hóa về trật tự ATGTĐB. Luận văn cũng đã đề xuất một số kiến nghị, trong đó kiến nghị về hoàn thiện thể chế, ban hành văn bản quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền cụ thể của chính quyền cơ sở trong quản lý bằng pháp luật về trật tự ATGTĐB. 10 - Vũ Ngọc Dương, Thực trạng và giải pháp về trật tự an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Hải Dương, tạp chí khoa học công nghệ và môi trường số 4 năm 2009 đề tài nghiên cứu cấp Bộ năm 2009. Đề tài đã nghiên cứu đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp đảm bảo an toàn trật tự giao thông trên địa bàn tỉnh Hải Dương, nâng cao năng lực quản lý trật tự ATGTĐB cho lực lượng công an và lực lượng Thanh tra giao thông. - Trần Văn Luyện, Trần Sơn, Nguyễn Văn Chính, Trật tự an toàn giao thông đường bộ, thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2003. Sách đã trình bày những nhận thức chung về trật tự ATGTĐB, tình hình trật tự GTĐB, những giải pháp bảo đảm trật tự ATGTĐB mà không có mục đích khai thác sâu về xử lý vi phạm pháp luật GTĐB là những nội dung trọng tâm của đề tài "Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa" sẽ đề cập đến. - Lê Ngọc Tiến, Giáo dục pháp luật- biện pháp quan trọng trong giảm thiểu tai nạn giao thông, Tạp chí Giao thông vận tải, số 7, năm 2004. Lý Huy Tuấn, Quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông đô thị, Tạp chí QLNN, số 3, năm 2003. Lê Ngọc Tiến, Giáo dục pháp luật- biện pháp quan trọng trong giảm thiểu tai nạn giao thông đường bộ, Tạp chí Giao thông vận tải, số 7, năm 2004. Từ nội dung của những công trình khoa học trên cho thấy đề tài mà tác giả luận văn chọn sẽ không trùng lặp, là đề tài mới có giá trị thực tiễn tại địa phương tỉnh Thanh Hóa, thuộc chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích 11 Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận chung vấn về GTĐB và một số đặc điểm của hệ thống GTĐB tỉnh Thanh Hóa. Trên cơ sở nắm vững đặc điểm của GTĐB và thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB. - Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau: + Phân tích những vấn đặc điểm hệ thống GTĐB, hành lang ATGTĐB tại tỉnh Thanh Hóa. + Phân tích, đánh giá thực trạng ATGTĐB nói chung và hành lang an toàn đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa từ năm 2003 đến năm 2010, công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB của các lực lượng chức năng. + Tìm ra những nguyên nhân cơ bản dẫn đến vi phạm pháp luật GTĐB, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về GTĐB; đưa ra giải pháp nhằm kiềm chế TNGT, hạn chế vi phạm pháp luật GTĐB, tăng cường hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB, thực hiện tốt công tác giữ gìn trật tự ATGTĐB, quản lý và bảo vệ hành lang ATGTĐB nhằm tăng cường hiệu quả công tác QLNN trong lĩnh vực này trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu Trên cơ sở lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, đối tượng nghiên cứu ở đề tài này là hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. - Phạm vi nghiên cứu Do khuôn khổ có hạn học viên chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích số liệu các vụ vi phạm GTĐB, TNGT do vi phạm hành chính trong lĩnh vực 12 GTĐB, vi phạm hành lang an toàn đường bộ từ năm 2003 đến năm 2010 trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Bám sát chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về giao thông, phát triển hệ thống giao thông, an toàn giao thông (ATGT) và hành lang an toàn đường bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; các chủ trương tỉnh Thanh Hóa về GTĐB, phát triển đồng bộ GTĐB, có sự tính toán khoa học giữa sự phát triển GTĐB và sự phát triển kinh tế - xã hội. Có sự so sánh giữa lý luận và thực tiễn về vi phạm GTĐB, hành lang an toàn đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Để giải quyết những vấn đề do đề tài đặt ra, người viết luận văn sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh để nêu bật tình hình, từ đó đề xuất các giải pháp hạn chế vi phạm pháp luật GTĐB, kiềm chế TNGT và nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành chính về GTĐB trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. 6. Đóng góp của luận văn Từ vấn đề mà luận văn nghiên cứu bước đầu chỉ đạt được một số điểm mới sau: - Xây dựng một số khái niệm liên quan đến GTĐB, vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB. - Phân tích thực trạng vi phạm pháp luật GTĐB trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. - Trên cơ sở thống kê một cách có hệ thống tình hình vi phạm ATGTĐB và việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa từ năm 2003 đến năm 2010. Luận văn sẽ nêu các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành chính, hạn 13 chế tình trạng vi phạm pháp luật GTĐB tại tỉnh Thanh Hóa góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý trong lĩnh vực GTĐB hiện nay và trong thời gian tới. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Thông qua nghiên cứu đề tài xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, giúp cho học viên nắm vững các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về GTĐB, chiến lược phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng GTĐB của tỉnh Thanh Hóa. Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là nguồn tài liệu tham khảo cho các cơ quan QLNN về GTĐB, cơ quan nghiên cứu, giảng dạy, làm tài liệu tập huấn, phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật về GTĐB cho cán bộ, công chức có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về GTĐB. Một số kiến nghị, giải pháp của đề tài có giá trị tham khảo đối với các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật về GTĐB. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về giao thông đường bộ. Chương 2: Thực trạng vi phạm pháp luật giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Chương 3: Một số giải pháp hạn chế vi phạm pháp luật giao thông đường bộ, nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. 14 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ 1.1. GIAO THÔNG, GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ, HÀNH LANG AN TOÀN ĐƢỜNG BỘ 1.1.1. Giao thông Khi nói đến giao thông là nói đến "việc đi lại từ nơi này đến nơi khác của người và phương tiện chuyên chở" [57, tr. 381]. GTĐB là đòi hỏi có tính tất yếu, cần thiết của quá trình phát triển đời sống xã hội ở mỗi một xã hội và mỗi quốc gia. Sự phát triển của giao thông mang tính lịch sử và phụ thuộc vào trình độ phát triển của kinh tế, khoa họccông nghệ nhất định. Lịch sử phát triển của xã hội loài người có thể nói từ khi còn sơ khai đến xã hội văn minh ngày nay đều gắn bó chặt chẽ với hoạt động giao thông mà trước hết là GTĐB, sau đó phát triển các loại hình giao thông khác như giao thông đường thủy, giao thông đường sắt, giao thông đường không. Theo Từ điển Tiếng Việt thì đường bộ được hiểu là "Thứ đường đi trên đất liền dùng cho người đi bộ và xe cộ, nói chung" [57, tr. 356]. Theo Luật GTĐB năm 2008 thì định nghĩa "Đường bộ gồm đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ" [70]. 1.1.2. Giao thông đƣờng bộ Giao thông đường bộ là một hiện tượng xã hội có xu hướng biến động phát triển mạnh mẽ không chỉ ở Việt Nam mà còn diễn ra hầu hết các quốc gia trên thế giới. GTĐB và phát triển GTĐB đang được xem xét ở nhiều góc độ kinh tế- xã hội, chính trị dưới tác động của sự phát triển khoa học- kỹ thuật tiên tiến. Và trên cơ sở của những khái niệm về đường bộ tại mục 1.1.1 có thể 15 hiểu: GTĐB là việc đi lại từ nơi này đến nơi khác của người và phương tiện chuyên chở trên đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ. Khi xem xét GTĐB với tư cách là một hiện tượng xã hội. Dưới góc độ luật học hiện tượng GTĐB đang đặt ra những vấn đề pháp lý sau đây: Thứ nhất, GTĐB là một nhu cầu của con người trong xã hội. Nhưng những cá thể con người, tổ chức người nhất định không thể tự lo để thỏa mãn nhu cầu của mình. Đặc biệt là với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội thì chỉ có Nhà nước mới có thể có khả năng tổ chức, có tiềm lực kinh tế và là chủ sở hữu đất đai mới có thể xây dựng kết cấu hạ tầng GTĐB. Tuy rằng ở mức độ nào đó Nhà nước phải huy động sức dân, nhưng trách nhiệm thuộc Nhà nước. Trách nhiệm này mang tính pháp lý được quy định trong chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Thứ hai, các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực GTĐB luôn là đối tượng điều chỉnh của pháp luật GTĐB. Nhà nước hướng dẫn và điều chỉnh các quan hệ này để các quan hệ này diễn ra có sự kiểm soát và "trong vòng luật". Thứ ba, các quan hệ trong hoạt động GTĐB được thực hiện bởi nhiều chủ thể với những mục đích kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng an ninh khác nhau. Cũng như các loại quan hệ xã hội khác, GTĐB cần được chế định hóa, quy phạm hóa và tiến tới pháp điển hóa do vậy đó là những lý do hết sức cơ bản để tạo ra sự ra đời của các văn bản pháp luật. Luật GTĐB năm 2001, Luật GTĐB năm 2008 ra đời đã tạo ra một "luật chơi" thống nhất, nhất quán, ổn định cho mọi tổ chức và cá nhân. 1.1.3. Hành lang an toàn đƣờng bộ Trong các bộ phận cấu thành mạng lưới GTĐB. Hành lang an toàn đường bộ là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng GTĐB, là bộ phận trọng yếu của tuyến đường, đảm bảo sự bền vững của công trình và sự an toàn cho hoạt động giao thông vận tải, vì vậy việc quản lý, bảo vệ hành lang an 16 toàn đường bộ là hoạt động chung của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội, lực lượng vũ trang và của toàn dân. Giữ gìn, chống lấn chiếm, cơi nới, sử dụng trái phép đất hành lang an toàn các tuyến đường; chấm dứt việc giao đất, cho thuê đất dọc trong hành lang các tuyến đường, không phù hợp với qui định của pháp luật, ảnh hưởng đến an toàn các công trình và hành lang đường bộ; đưa việc quản lý, sử dụng hành lang an toàn đường bộ theo đúng quy định của pháp luật, việc khai thác và sử dụng đất dành cho đường bộ, hành lang an toàn đường bộ cũng như việc, mở đường nhánh, đấu nối đường nhánh vào đường chính phải có trong quy hoạch, được cấp có thẩm quyền cho phép bằng văn bản, tránh vi phạm pháp luật GTĐB là một trong những nội dung hết sức quan trọng trong công tác QLNN và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về GTĐB. Sự an toàn trong hoạt động của đường bộ phụ thuộc rất lớn vào sự ổn định hành lang an toàn. Luật GTĐB quy định: "Hành lang an toàn đường bộ là giải đất dọc hai bên đất của đường bộ, tính từ mép ngoài đất của đường bộ ra hai bên để đảm bảo an toàn giao thông đường bộ" [70]. Bao gồm: giới hạn hành lang đối với đường bộ; giới hạn hành lang an toàn đối với cầu, cống; giới hạn hành lang an toàn đối với hầm đường bộ; giới hạn hành lang an toàn đối với bến phà, cầu phao; giới hạn hành lang an toàn đối với kè bảo vệ đường bộ; giới hạn bảo vệ trên không của công trình đường bộ xây dựng mới; giới hạn khoảng cách an toàn đường bộ theo chiều ngang. Như vậy có thể thấy được hành lang an toàn đường bộ là bộ phận nằm trong kết cấu hạ tầng GTĐB, ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn và bền vững của công trình cũng như những hoạt động diễn ra trên công trình đường bộ. 1.2. TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ Hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau khi đánh giá về trật tự ATGTĐB. Có quan điểm cho rằng: Trật tự ATGT là sự đảm bảo cho mọi hoạt 17 động giao thông được trật tự, an toàn, nhanh chóng, tiện lợi, thống nhất và mỹ quan môi trường, hạn chế thấp nhất vi phạm pháp luật giao thông, hạn chế ùn tắc giao thông, kiềm chế TNGT, ngăn ngừa thiệt hại do TNGT gây ra. Ý kiến khác lại cho rằng: Trật tự ATGTĐB là việc chấp hành triệt để những yêu cầu kỹ thuật, quản lý đối với công trình giao thông và phương tiện giao thông, quy định đối với người tham gia giao thông khi hoạt động trên đường bộ, làm cho giao thông được trật tự, an toàn, thông suốt, thuận tiện. Theo từ điểm Bách khoa Công an nhân dân thì: Trật tự an toàn giao thông đường bộ là hệ thống các mối quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông vận tải công cộng mà mọi người tham gia giao thông phải tuân theo để đảm bảo hoạt động giao thông thông suốt, trật tự an toàn, hạn chế thấp nhất tai nạn giao thông, gây thiệt hại về người và tài sản [76, tr. 130]. Như vậy, trật tự ATGTĐB được hiểu là: - Hoạt động giao thông được điều chỉnh bằng một hệ thống quy phạm pháp luật (QPPL) bắt buộc mọi chủ thể tham gia giao thông phải tuyệt đối tuân theo. - Hạn chế thấp nhất TNGT xảy ra, đảm bảo an toàn cho người và tải sản khi tham gia giao thông. - Hạn chế ùn tắc giao thông, đảm bảo giao thông thuận lợi, có hiệu quả, tiết kiệm được chi phí vận chuyển, thời gian hành trình trên đường. Trật tự ATGTĐB có mối quan hệ khăng khít với TTATXH. Trong đó, TTATXH có thể được hiểu: là trạng thái của các quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh bởi hệ thống QPPL của Nhà nước, quy phạm chính trị, quy phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục trong đời sống cộng đồng của một dân tộc, một Nhà nước, là tình trạng xã hội ổn định, ở đó mọi công dân sống 18 và lao động có tổ chức, có kỷ cương, mọi lợi ích chính đáng được bảo đảm, không bị xâm hại. Trật tự ATGT cũng là một phần quan trọng của TTATXH, có mối quan hệ nhân quả và không tách rời TTATXH. Về mặt nhận thức, thói quen và tâm lý của người tham gia giao thông cũng chính là của con người tham gia hoạt động kinh tế xã hội. Kỷ cương trong quản lý kinh tế- xã hội cũng có ý nghĩa quyết định kỷ cương trong giao thông, vì con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Như vậy, trật tự ATGTĐB có đảm bảo thì mới góp phần đảm bảo TTATXH. Hoạt động GTĐB diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc, liên quan đến mọi tầng lớp dân cư, mọi chủ thể trong xã hội. Trật tự ATGTĐB được bảo đảm sẽ tạo cho GTĐB thông suốt, tài sản, tính mạng, mọi lợi ích chính đáng khác của những chủ thể tham gia giao thông được đảm bảo an toàn hơn, người dân có cuộc sống yên lành, ổn định, nhu cầu đi lại, phát triển kinh tế được thuận lợi. Do vậy TTATXH cần được giữ vững. Trật tự ATGT có tính xã hội sâu rộng, bảo đảm cuộc sống bình an và hạnh phúc cho mọi người, mọi nhà. Thiệt hại do TNGT gây ra về người và của là rất lớn và đang gia tăng những mối nguy hại cho một gia đình, một xã hội, một quốc gia. Những người bị thương vong phần lớn là những người lao động chính, nên để lại nhiều gánh nặng lâu dài. Vì vậy trật tự ATGT ổn định là một yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế xã hội bền vững. Tóm lại, từ vai trò tất yếu của GTĐB là đòi hỏi, yêu cầu phải có sự quản lý của nhà nước đồng thời phải có những biện pháp để hạn chế thiệt hại do vi phạm pháp luật GTĐB để lại, trong đó có biện pháp sử dụng các quy định của pháp luật để xử lý những hành vi vi phạm của các chủ thể tham gia GTĐB. 1.3. XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ 19 1.3.1. Khái niệm Trong một nhà nước, việc quản lý xã hội bằng pháp luật luôn được xen kẽ với việc áp dụng những chế tài xử phạt trong mỗi một lĩnh vực. Nếu không có những quy định cho việc thực hiện các chế tài nghiêm khắc, phù hợp với tính chất và mức độ của hành vi vi phạm, thì sẽ dẫn đến pháp luật khó có thể đi vào cuộc sống và được người dân nghiêm túc thực hiện. Pháp luật và Nhà nước là những hiện tượng đặc biệt luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nhà nước và pháp luật có những nguyên nhân, tiền đề xã hội ngay từ buổi bình minh và trong suốt quá trình vận động, phát triển. Trong lịch sử các học thuyết chính trị Trung Quốc cổ đại, học thuyết của Khổng Tử là một trong những minh chứng rõ nét cho việc đưa ra những tương tưởng QLNN, Ông chủ trương dùng đạo đức để trị nước, lấy đạo nhân làm triết lý, lấy nhân, lễ, nghĩa, trí, lợi làm thành các nguyên tắc căn bản để xây dựng các chính sách cai trị, bên cạnh đó việc sử dụng pháp luật vẫn là cần thiết. Theo dịch giả Nguyễn Hiến Lê trong phần dịch chương "Chính hình" của Khổng Tử bài II.3 có đoạn: "Dùng đạo đức để bắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà làm theo đường chính", bài XII.13 I [75, tr. 175]. Tư tưởng của Hàn Phi Tử thì lại đối nghịch với tư tưởng của Nho gia. Ông cho rằng cách tốt nhất để quản lý xã hội là dùng pháp luật: Pháp luật không hùa theo người sang. Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ không cũng không từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh của của đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót của kẻ thất phu (Hàn Phi Tử. Thiên Hữu Độ). Do đó Hàn Phi Tử không bàn đến nhân nghĩa, cũng không trọng lễ như Khổng Tử, Tuân Tử, mà đề cao phương pháp dùng thế, dùng thuật, dùng luật của pháp gia để trị nước. Montesquieu trong tác phẩm "Tinh thần pháp luật" đã khẳng định: "Sống trong một xã hội, muốn duy trì trật tự phải quy định rõ quan hệ giữa 20 người cai trị và người được cai trị. Đó là luật chính trị. Lại phải quy định quan hệ giữa công dân. Đó là luật dân sự" [64, tr. 44]. Như vậy theo dòng lịch sử, dù ở thời xa xưa việc QLNN dưới quan điểm đức trị, hay pháp trị thì dùng pháp luật quản lý đất nước và sử dụng pháp luật là công cụ để xử lý người không tuân thủ pháp luật luôn là một lựa chọn có hiệu quả để quản lý đất nước, phát triển và ổn định xã hội. Trong xã hội hiện đại ngày nay việc dùng pháp luật để QLNN lại càng quan trọng. Để quản lý xã hội nói chung và hoạt động quản lý nói riêng trong từng lĩnh vực thì việc sử dụng các "hình phạt" luôn được lựa chọn để làm cho pháp luật thể hiện được tính nghiêm minh, mọi người phải tôn trọng và thực hiện. Lĩnh vực GTĐB cũng không phải là ngoại lệ. Thực hiện chủ trương chung của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định "Quản lý xã hội bằng pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng" [49, tr. 120]. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiếp tục khẳng định "Quản lý xã hội bằng pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng" [50, tr. 94]. Để QLNN bằng pháp luật có hiệu quả, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đưa ra yêu cầu: "Quản lý xã hội bằng pháp luật đồng thời coi trọng việc giáo dục đạo đức" [51, tr. 129]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng lại tiếp tục đề cao vai trò của pháp luật trong hệ thống các công cụ quản lý xã hội: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật" [52, tr. 132]. Như vậy từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đến Đại hội IX của Đảng, mục tiêu quản lý xã hội bằng pháp luật là mục tiêu nhất quán. Quan điểm, tư tưởng này của Đảng được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992 và Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 12 Hiến pháp 1992 được sửa đổi, 21 bổ sung theo Nghị quyết 51/2001-QH ngày 25 tháng 12 năm 2001 quy định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật" [67, tr. 17]. Với sự quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực GTĐB, vấn đề đặt ra là những quy định của nhà nước về vấn đề này như thế nào? Vậy luật GTĐB là gì? Có thể hiểu: Luật GTĐB là tổng thể các quy định về quy tắc GTĐB; kết cấu hạ tầng GTĐB; phương tiện và người tham gia GTĐB; vận tải đường bộ và quản lý nhà nước về GTĐB. Pháp luật GTĐB có thể khái quát: Pháp luật GTĐB là tổng thể các QPPL do Nhà nước ban hành có nội dung điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực GTĐB. Với tư cách là công cụ để Nhà nước quản lý GTĐB thì pháp luật GTĐB có nguồn rất rộng. Đó là các QPPL về đất đai, các QPPL về dân sự, các QPPL về kinh doanh vận tải của các thành phần kinh tế, các QPPL hành chính và tư pháp, các tội phạm trong lĩnh vực GTĐB quy định trong Bộ luật hình sự… Trong điều kiện hội nhập khu vực và thế giới hiện nay pháp luật GTĐB còn là các điều ước quốc tế do nước ta tham gia hoặc ký kết. Vấn đề đặt ra là tại sao Nhà nước phải quản lý lĩnh vực GTĐB? Hoạt động QLNN nói chung và quản lý trong một lĩnh vực cụ thể nào đó có thể bằng nhiều phương pháp, cách thức khác nhau. Phổ biến là quản lý bằng phương pháp hành chính, phương pháp kế hoạch chính sách, phương pháp kinh tế và phương pháp tư tưởng. Nhưng tựu chung Nhà nước nào cũng phải dùng pháp luật như một công cụ đồng thời là phương pháp chủ yếu để quản lý xã hội, đó chính là pháp luật. Từ những khái niệm về pháp luật GTĐB, Luật GTĐB, thì có thể khái quát vấn đề vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB như sau: 22
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan