Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xử lý tài sản thế chấp (tstc) hình thành từ vốn vay tại ngân hàng thương mại cổ ...

Tài liệu Xử lý tài sản thế chấp (tstc) hình thành từ vốn vay tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh việt nam

.PDF
73
203
54

Mô tả:

LUẬN VĂN: Xử lý tài sản thế chấp (TSTC) hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam Lời mở đầu Giải quyết nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh luôn là một bài toán lớn đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng và các cơ quan, các cấp ngành liên quan, đặc biệt phải kể đến ngành Ngân hàng.Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang vào thời kỳ đổi mới, Nhà nước với chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, chú trọng phát triển kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo nên những tiền đề quan trọng cho sự phát triển của khối kinh tế này nhưng cũng đặt họ trước nhiều khó khăn lớn về vốn.Bởi bản thân các doanh nghiệp trong quá trình phát triển, bên cạnh việc tự huy động vốn bản thân cùng sự hỗ trợ từ phía Ngân hàng Nhà Nước thì vốn tín dụng ngân hàng đầu tư là một bộ phận rất quan trọng. Song họ thường xuyên gặp phải những trở ngại trong quá trình xin cấp tín dụng ngân hàng để phát triển sản xuất kinh doanh. Chính vì thế, một thực trạng đang đặt ra hiện nay đó là sự mất cân đối lớn giữa cung về vốn ngân hàng và cầu về vốn của doanh nghiệp. Để lý giải cho thực trạng trên, một trong những nguyên nhân khá quan trọng đang được xem xét xuất phát từ chính các NHTM và các văn bản liên quan đến chế độ chính sách của Nhà nước. Về phía Ngân hàng, bảo đảm an toàn trong tăng trưởng tín dụng là một nguyên tắc hết sức quan trọng để đảm bảo sự lành mạnh hoạt động của hệ thống ngân hàng. Muốn vậy các ngân hàng phải quản lý khoản tiền cho vay một cách hữu hiệu, trong đó TSTC được xem là một phần quan trọng để đảm bảo khoản vay của ngân hàng. Hơn nữa trong quy chế cho vay của NHNN,thường yêu cầu các NHTM phải cho vay có TSTC. Tuy vậy, đòi hỏi về TSTC đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi xét duyệt cho vay lại là một yêu cầu khó có thể thực hiện bởi bản thân các doanh nghiệp này hầu như không có tài sản để đem thế chấp hoặc giá trị TSTC là rất nhỏ, không đủ đảm bảo cho khoản vay. Để giải quyết những khó khăn đó, NHNN đã cho phép các doanh nghiệp được sử dụng TS hình thành từ vốn vay làm TSTC. Và thực sự biện pháp đảm bảo tiền vay này đã phát huy được những lợi thế nhất định đối với cả Ngân hàng và các khách hàng, nhất là khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh qua một số năm đi vào thực hiện . Tuy nhiên, bên cạnh đó loại hình cho vay này cũng bộc lộ nhiều vấn đề nảy sinh, dẫn đến những khoản nợ quá hạn, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng, gây nên tâm lý dè dặt của Ngân hàng khi quyết định cho vay, do đó dẫn đến không ít những trở ngại cho các doanh nghiệp khi có nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Vì vậy, để giảm bớt khó khăn đối với những khoản nợ không thu hồi được thì việc chọn hướngxử lý loại tài sản thế chấp này là hết sức quan trọng. Do đó trong quá trình thực tập tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (Hội sở Hà Nội )-VP Bank-,em đã chọn đề tài : Xử lý tài sản thế chấp (TSTC) hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam làm đề tài nghiên cứu. Đề tài nhằm đưa ra giải pháp có tính đồng bộ nhằm xử lý TSTC hình thành từ vốn vay, thu hồi khoản nợ quá hạn, nâng cao chất lượng khoản cho vay này để vừa góp phần từng bước giải quyết nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, vừa tăng trưởng dư nợ tín dụng, đảm bảo đúng quy định của NHNN và hơn hết là duy trì và phát triển khách hàng tiềm năng của Ngân hàng. Đề tài gồm : Lời mở đầu Nội dung : 3 Chương Chương 1: Những nguyên lý chung về TSTC và Cho vay có TSTC trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Chương 2: Thực trạng cho vay có TSTC hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam. Chương 3: Giải pháp và kiến nghị Kết luận Nội dung Chương 1:Nguyên lý chung về TSTC và xử lý TSTC trong hoạt động kinh doanh của NHTM. A: Tín dụng Ngân hàng và bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng của NHTM. I: Khái quát về tín dụng Ngân hàng. Là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, NHTM đảm bảo đồng thời nhiều chức năng khác nhau nhằm hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Bên cạnh chức năng trung gian thanh toán, chức năng tín dụng là chức năng đặc trưng cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc biệt đối với việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Các chức năng của NHTM tác động qua lại lẫn nhau thông qua các nghiệp vụ ngân hàng:Nghiệp vụ huy động vốn ; Nghiệp vụ tín dụng và các nghiệp vụ trung gian khác. Trong đó nghiệp vụ tín dụng chiếm vị trí quan trọng, thể hiện khả năng của các ngân hàng trong việc tìm kiếm lợi nhuận trong nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, các doanh nghiệp và cá nhân thông qua việc Ngân hàng vay vốn từ các nguồn nhàn rỗi và cung cấp cho nơi cần trong một thời gian nhất định.Đến thời hạn do hai bên quy định, Ngân hàng sẽ nhận được vốn và lãi. Thông qua nghiệp vụ này, Ngân hàng với tư cách nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển.Nhờ vậy, tín dụng ngân hàng vừa giúp doanh nghiệp rút ngắn thời gian tích luỹ vốn nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế và đem lại cho ngân hàng nguồn thu nhập đáng kể. 1; Đặc trưng của tín dụng Ngân hàng. Tín dụng Ngân hàng có những đặc trưng sau: Thứ nhất: Sự tin tưởng tín nhiệm giữa Ngân hàng và khách hàng. Phải có sự tin tưởng này thì quan hệ tín dụng mới được thiết lập. Nghĩa là người đi vay phải có uy tín, làm ăn hiệu quả. Để có sự tin tưởng này, Ngân hàng phải thực hiện điều tra, phân tích khách hàng, nhất là những khách hàng mới có quan hệ tín dụng lần đầu. Thứ hai: Tính thời hạn của quan hệ tín dụng: Thời hạn tín dụng chủ yếu phụ thuộc vào đặc điểm luân chuyển vốn của đối tượng vay, ngoài ra nó còn phụ thuộc vào thời hạn huy động vốn của Ngân hàng. Tính thời hạn đã thúc đẩy người vay có trách nhiệm lo lắng, quan tâm tới đồng vốn mà họ đã vay để sao cho có thể hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cho Ngân hàng. Thứ ba: Tính hoàn trả: Ngân hàng đặc biệt quan tâm đến đặc trưng này. Muốn vậy, trước khi Ngân hàng cho vay, Ngân hàng cần xem xét, kiểm tra , đánh giá về khách hàng xem có đủ điều kiện cho vay không. Ngoài ra còn phải có những kiến thức tổng hợp về tình hình xã hội để tư vấn cho khách hàng về hoạt động sản xuất kinh doanh của họ và quan trọng là sẽ giúp Ngân hàng hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra đối với đồng vốn cho vay. 2; Những nguyên tắc tín dụng cơ bản. Tín dụng Ngân hàng dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản. Nguyên tắc thứ nhất: Tiền vay phải hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi vay. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn của Ngân hàng là nguồn vốn huy động của khách hàng. Đó là một bộ phận tài sản của các chủ sở hữu mà Ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng, Ngân hàng cũng có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu rút vốn của khách hàng khi họ yêu cầu. Nếu các khoản tín dụng không được hoàn trả đúng hạn thì nhất định sẽ ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả của Ngân hàng. Để thực hiện nguyên tắc này, mỗi lần cho vay Ngân hàng phải định kỳ hạn nợ phù hợp. Khi đến kì hạn nợ, người đi vay phải lập giấy trả nợ cho Ngân hàng, nếu không Ngân hàng sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của người đi vay để thu nợ. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ số dư thì chuyển nợ quá hạn. Sau một thời gian nếu khách hàng vẫn không trả nợ, Ngân hàng sẽ phát mãi tài sản đảm bảo. Nguyên tắc này hạn chế rủi ro về thanh khoản. Nguyên tắc thứ hai: Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích. Tín dụng cung ứng cho nền kinh tế phải hướng đến mục tiêu và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Đối với các đơn vị kinh tế, tín dụng cũng phải đáp ứng các mục đích cụ thể trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh để thúc đẩy các đơn vị hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình. Tín dụng đúng mục đích không những là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt động của tín dụng. Hiệu quả của nó trước hết là đẩy nhanh nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tạo ra nhiều khối lượng sản phẩm, dịch vụ, đồng thời tạo ra nhiều tích luỹ để thực hiện tái sản xuất mở rộng. Để thực hiện nguyên tắc này, Ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử dụng tiền vay đúng mục đích đã ghi trong đơn xin vay, bởi vì mục đích đó đã được Ngân hàng thẩm định. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này, Ngân hàng được quyền thu nợ trước hạn, nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn. Nguyên tắc thứ ba: Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo. Tài sản đảm bảo có thể tồn tại dưới nhiều dạng:Tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay; Tài sản đảm bảo là tài sản của người đi vay ; Đảm bảo bằng tín chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ 3. Đảm bảo tín dụng là một phương tiện cho người chủ ngân hàng có thêm một nguồn vốn khác dể thu hồi nợ nếu mục đích cho vay bị phá sản. Trong công việc kinh doanh, nguồn thu nợ thứ nhất là doanh thu đối với vốn vay lưu động, hoặc là khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay trung, dài hạn. Trong cho vay tiêu dùng, nguồn thu nợ thứ nhất của ngân hàng là thu nhập của cá nhân như tiền lương, các khoản thu nhập tài chính và các khoản thu nhập khác. Khi đánh giá hoạt động khách hàng vay, nếu thấy nguồn thu nợ thứ nhất chưa có cơ sở vững chắc thì buộc ngân hàng phải thiết lập thêm cơ sở pháp lý dể có thêm một nguồn thu nợ thứ hai. Nguồn thu nợ này bao gồm giá trị TSTC, cầm cố, bảo lãnh của bên thứ ban xuất mở rộng. Đảm bảo tín dụng được coi là tiêu chuẩn xét duyệt cho vay nhưng phải thấy rằng đây không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất , hay nói cách khác nó không phải mang tính nguyên tắc. Tuy vậy, trong nền kinh tế thị trường các hoạt động kinh tế diễn hết sức đa dạngvà phức tạp, vì thế mọi dự đoán rủi ro của ngân hàng đều mang tính tương đối.Trong môi trường kinh doanh như vậy,đảm bảo tín dụng là một tiêu chuẩn bổ sung những hạn chế của nhà quản trị tín dụng cũng như phòng ngừa những diễn biến không thuận lợi của môi trường kinh doanh, tạo điều kiện cho Ngân hàng có thể thu hồi nợ một cách chắc chắn, đồng thời có cơ sở để mở rộng quy mô tín dụng và góp phần nâng cao ý thức hoàn trả của người vay. 3; Rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, dưới giác độ là một tổ chức kinh doanh, NHTM cũng chịu tác động rất lớn từ môi trường kinh tế-xã hội-chính trị-luật pháp-cạnh tranh, làm phát sinh những rủi ro không lường trước được, do đó tác động sai lệch và đảo lộn kết quả hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Một trong những rủi ro thường xảy ra và có ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Ngân hàng là rủi ro tín dụng. Đó là rủi ro gắn liền với hoạt động Ngân hàng, cho vay bao giờ cũng gồm rủi ro và xảy ra mất mát. Ngày nay, dù có rất nhiều hình thức kinh doanh mới trong hoạt động Ngân hàng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng tín dụng Ngân hàng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các Ngân hàng.Vì thế ở tất cả các nước, rủi ro tín dụng là vấn đề được quan tâm không chỉ ở phạm vi ngân hàng mà cả trong toàn nền kinh tế. Rủi ro tín dụng là rủi ro không thu được nợ khi đến hạn.Việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm chính của nghề ngân hàng. Các Ngân hàng luôn tìm cách cực đại lợi nhuận qua việc tìm kiếm những lợi tức cao nhất có thể có ở các món vay và chứng khoán, đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến hoạt động cho vay như: Sàng lọc và giám sát khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ lâu dài, quy định các mức tín dụng, vật thế chấp, số dư bù và hạn chế tín dụng. Dù vậy, không một Ngân hàng nào nghĩ được hết mọi bất ngờ khi viết ra những quy định hạn chế vào một hợp đồng cho vay, sẽ luôn có những hoạt động rủi ro của người vay tiền, chưa có một quy định hạn chế nào loại bỏ được chúng. Vì thế, mỗi Ngân hàng cần phải có chính sách cho vay rõ ràng để xác định phương hướng sử dụng vốn, giảm bớt các rủi ro và duy trì các hoạt động như dự định. Chính sách cho vay của một ngân hàng nên kết hợp sự bảo đảm có thế chấp và khả năng thanh toán nợ. II: Bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng Ngân hàng. 1;Lý do hình thành tài sản đảm bảo trong hoạt động tín dụng Ngân hàng. Tài sản Có là phần sử dụng nguồn vốn đưa vào kinh doanh và duy trì khả năng thanh toán của một Ngân hàng. Chất lượng Tài sản Có là chỉ tiêu tổng hợp nhất, nói lên khả năng bền vững về mặt tài chính, khả năng sinh lời và năng lực quản lý của Ngân hàng. Trong Tài sản Có, cho vay là bộ phận chiếm tỉ trọng lớn nhất, trực tiếp tác động đến lợi nhuận và an toàn đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.Vì vậy, việc quản lý khoản tiền cho vay là một nội dung đặc biệt quan trọng trong hoạt động cho vay của bất cứ NHTM nào. Một trong những nguyên tắc cơ bản của quản lý khoản tiền cho vay là tài sản đảm bảo. Những bắt buộc về tài sản đảm bảo đối với tiền cho vay là một công cụ quan trọng để quản lý Ngân hàng, làm giảm bớt tổn thất của Ngân hàng trong trường hợp người vay mất khả năng hoàn trả nợ. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong những trường hợp Ngân hàng phải đối mặt với rủi ro về đạo đức của khách hàng. Ngân hàng có thể cho vay với phương án xin vay có cơ sở để thực hiện một cách có hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ trong điều kiện không đủ TS đảm bảo. Tuy vậy, không một Ngân hàng nào có thể dự đoán mọi biến động của nền kinh tế, lường trước mọi rủi ro có thể xảy ra, do đó tài sản đảm bảo vẫn luôn là một biện pháp hữu hiệu để ngăn ngừa và chống đỡ rủi ro tín dụng. 2; Các hình thức bảo đảm tín dụng. Bảo đảm tín dụng có thể chia 2 hình thức. Bảo đảm đối vật và Bảo đảm đối nhân. 2.1: Bảo đảm đối nhân. Với hình thức này,Ngân hàng có thể cho vay dựa trên những khả năng của khách hàng không cần đưa ra bất cứ tài sản gì để đảm baỏ cho khoản vay. Khoản vay muốn được Ngân hàng chấp thuận trên cơ sở như thế thì phải đảm bảo các yêu cầu riêng của Ngân hàng. Bảo đảm đối nhân gồm các hình thức: Tín chấp và Bảo lãnh. *Bảo lãnh. Bảo lãnh vay vốn Ngân hàng là việc người thứ ba ( Pháp nhân hoặc thể nhân gọi là bên bảo lãnh ) cam kết với bên cho vay ( Bên nhận bảo lãnh ) sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay vốn ( bên được bảo lãnh ) nếu khi đến hạn mà bên bảo lãnh không hoàn trả được toàn bộ hay một phần nợ vay bao gồm cả gốc và lãi và tiền phạt quá hạn cho bên nhận bảo lãnh.Bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh bằng tài sản của mình hoặc các bên có thể thoả thuận bên bảo lãnh phải thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh bằng uy tín của mình. Bảo lãnh là một hình thức đảm bảo gián tiếp nhưng được sử dụng tương đối rộng. Nó mang ý nghĩa quan trọng với việc mở rộng và khuyến khích đầu tư. Điều quan trọng là người bảo lãnh và được bảo lãnh phải có quan hệ tín nhiệm với nhau,phải biết trước được đạo đức của người vay, tính khả thi của dự án mà người vay thực hiện. Bảo lãnh có thể là bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ số nợ vay. Nhiều bên bảo lãnh có thể bảo lãnh cho một bên để thực hiện một hợp đồng vay vốn. Mỗi bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh một phần nợ gốc, lãi ,phạt quá hạn và ký một hợp đồng bảo lãnh độc lập. Hoạt động bảo lãnh ở Việt Nam chủ yếu do các NHTM đảm nhận cho khách hàng tham gia các dự án hoặc xin vay ở các ngân hàng khác. *Bảo đảm bằng uy tín-hiệu quả hoạt động kinh doanh. Đây là hình thức Ngân hàng cho khách hàng vay dựa trên uy tín của khách hàng, khách hàng không phải trao cho Ngân hàng bất cứ vật gì làm tin. Hình thức cho vay này dựa trên cơ sở tín nhiệm trong quan hệ tín dụng đối với Ngân hàng. Một khách hàng phải có đủ các điều kiện vay vốn như tư cách pháp nhân, không có nợ quá hạn, có một lượng vốn tự có nhất định, có uy tín mới được Ngân hàng xem xét cho vay. Để thực hiện được hình thức bảo đảm này, Ngân hàng cần phải xem xét tình hình tài chính, tình hình kinh doanh của đơn vị để rút ra kết luận về khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh ... Hình thức bảo đảm này thường được áp dụng cho khu vực kinh tế quốc doanh. Hình thức này có nhiều ưu điểm trong việc thúc đẩy mối quan hệ làm ăn lâu dài giữa Ngân hàng và khách hàng, giảm bớt quy trình tín dụng khi thực hiện món vay nhưng rủi ro mang theo là rất lớn. 2.2: Bảo đảm đối vật. Là hình thức bảo đảm tín dụng mà trong đó Ngân hàng đóng vai trò chủ nợ, được hưởng một số quyền hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng nhằm làm căn cứ để thu hồi nợ trong trường hợp con nợ không trả hoặc không có khả năng hoàn trả. Việc bảo đảm bằng tài sản được thể hiện dưới hai hình thức *Thế chấp. Thế chấp là việc bên vay vốn Ngân hàng dùng tài sản là bất động sản và một số động sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ ( bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt quá hạn ) đối với bên cho vay. Đây là phương thức nhất thiết phải bảo đảm trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ sản xuất, cá thể. Đối với doanh nghiệp nhà nước hình thức thế chấp cũng có thể được áp dụng tuỳ thuộc vào mối quan hệ với doanh nghiệp của Ngân hàng. Tài sản được dùng để thế chấp là bất động sản và một số loại động sản nhất định được quy định rõ với thời hạn bất kì ( tàu biển, máy bay ...). Người ta có thể dùng TSTC để vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Đối với thế chấp, Ngân hàng bao giờ cũng nắm giữ các giấy tờ sở hữu gốc. * Cầm cố. Cầm cố tài sản vay vốn Ngân hàng là việc bên vay vốn ( bên cầm cố ) có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay vốn ( bên nhận tài sản cầm cố ) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ ( bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt lãi quá hạn). Nếu tài sản mà pháp luật quy định đăng ký quyền sở hữu hoặc có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố và giao bản gốc giấy tờ quyền sở hữu tài sản cầm cố để vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. B: Tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay và xử lý TSTC hình thành từ vốn vay trong hoạt động kinh doanh của nhtm. I: Tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay và vai trò của nó. Tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay là tài sản mà giá trị của nó do một phần hoặc toàn bộ khoản vay Ngân hàng tạo nên được khách hàng sử dụng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó đối với Ngân hàng bằng cách giao giấy tờ sở hữu tài sản và xác nhận cho Ngân hàng quyền phát mại tài sản khi khách hàng không hoàn trả được nợ vay. Tài sản hình thành từ vốn vay gồm : Nhà cửa, công trình xây dựng ; Máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, tàu biển, máy bay ; Hàng hóa nhập khẩu. Hình thức bảo đảm này đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp không đủ tài sản thế chấp, nhất là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nó vừa góp phần quan trọng giải quyết nhu cầu về vốn để mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vừa giúp Ngân hàng mở rộng phạm vi cho vay bằng nhiều loại tài sản nhằm tăng lợi nhuận, đảm bảo các yếu tố về mặt pháp lý, hạn chế được những quy định khắt khe của NHNN, giảm bớt được rủi ro tín dụng và duy trì mối quan hệ khách hàng tiềm năng để cung cấp dịch vụ Ngân hàng. II: Điều kiện đối với khách hàng vay và TSTC hình thành từ vốn vay khi bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Ngân hàng lựa chọn áp dụng việc bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốnvay khi cho vay trung hạn, dài hạn đối với các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống nếu khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng được các điều kiện quy định sau: 1; Đối với khách hàng. Khách hàng vay được sử dụng TSTC hình thành từ vốn vay làm tài sản đảm bảo phải là khách hành có tín nhiệm đối với Ngân hàng, có khả năng tài chính và có các nguồn thu hợp pháp trong thời hạn vay vốn để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Đồng thời các khách hàng này phải đưa ra dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có khả năng hoàn trả nợ; hoặc các dự án,phương án phục vụ đời sống khả thi, phù hợp với quy định pháp luật. Ngoài ra, khách hàng phải đảm bảo có mức vốn tự có ( vốn chủ sở hữu ) tham gia dự án đầu tư và giá trị tài sản đảm bảo tiền vay bằng các biện pháp thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của bên thứ ba tối thiểu bằng 30% tổng vốn đầu tư của dự án. 2; Đối với tài sản hình thành từ vốn vay. Tài sản hình thành từ vốn vay dùng làm bảo đảm tiền vay phải xác định được: Thứ nhất : Quyền sở hưũ của khách hàng vay. Đối với tài sản là quyền sử dụng đất thì phải xác định quyền sử dụng của khách hàng vay và được thế chấp theo quy định của pháp luật về đất đai. Đối với tài sản của doanh nghiệp nhà nước phải xác định được quyền quản lý, sử dụng tài sản là bất động sản gắn liền với đất, thì khách hàng vay phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của khu đất mà trên đó tài sản sẽ được hình thành và phải hoàn thành các thủ tục về đầu tư xây dựng theo quy hoạch của pháp luật. Thứ hai : Phải xác định danh mục, số lượng, giá trị, đặc điểm của tài sản. Việc xác định yếu tố này dựa vào dự án đầu tư hoặc phương án phục vụ đời sống. Thứ ba : Tài sản được phép giao dịch và không có tranh chấp. Đối với tài sản hình thành từ vốn vay mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm thì khách hàng vay phải cam kết mua vảo hiểm trong suốt thời hạn vay vốn khi tài sản đã được hình thành đưa vào sử dụng. III: Quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong hoạt động cho vay có TSTC hình thành từ vốn vay. Trong hoạt động cho vay có TSTC hình thành từ vốn vay, cả khách hàng và Ngân hàng đều có những quyền lợi và nghĩa vụ nhất định. 1; Về phía khách hàng vay. Khách hàng vay có quyềnlợi sau: Một là : Được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản, trừ trường hợp hoa lợi và lợi tức cùng thuộc tài sản bảo đảm tiền vay. Hai là : Khách hàng thuê, cho mượn tài sản nếu có thoả thuận với Ngân hàng cho vay. Đồng thời khách hàng cũng phải thực hiện các nghĩa vụ như:  Phải giao cho Ngân hàng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cuả khu đất mà tài sản là bất động sản sữ được hình thành khi kí kết hợp đồng thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay.  Thông báo cho Ngân hàng về quá trình hình thành và tình trạng tài sản đảm bảo, tạo điều kiện để Ngân hàng kiểm tra tài sản đảm bảo tiền vay.  Đối với TSTC mà pháp luật quy định đăng kí quyền sở hữu trước khi đưa vào sử dụng phải đăng kí sở hữu tài sản và giao cho Ngân hàng giữ bản chính giấy chững nhận sở hữu đó.  Không được bán, chuyển nhượng, tặng, cho, góp vốn liên doanh, hoặc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ khác khi chưa trả hết nợ cho Ngân hàng, trừ trường hợp Ngân hàng đồng ý cho bán để trả nợ cho chính khoản vay được đảm bảo. 2; Về phía Ngân hàng. Ngân hàng có các quyền và nghĩa vụ sau:  Quyền yêu cầu khách hàng vay thông báo tiến độ hình thành tài sản đảm bảo và sự thay đổi của tài sản đảm bảo tiền vay.  Quyền tiến hành kiểm tra và yêu cầu khách hàng vay cung cấp các thông tin để kiểm tra, giám sát tài sản hình thành từ vốn vay.  Quyền thu hồi nợ trước hạn nếu phát hiện vốn vay không được sử dụng để hình thành tài sản như đã cam kết.  Quyền xử lý tài sản hình thành từ vốn vay để thu nợ khi khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ.  Nghĩa vụ thẩm định, kiểm tra để đảm bảo khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng các điều kiện quy định.  Nghĩa vụ hoàn trả cho khách hàng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản ( nếu có ) sau khi khách hàng hoàn thành nghĩa vụ trả nợ. IV : Quy trình cho vay có TSTC hình thành từ vốn vay trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Là một loại hình trong bảo đảm tiền vay bằng tài sản, quy trình cho vay có thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay đều có những đặc trưng chung của quy trình nghiệp vụ cho vay như: Xem xét yêu cầu vay vốn của khách hàng, nghiên cứu và đánh giá hoạt động của doanh nghiệp, đàm phán về tiền vay, gia hạn nợ và lãi suất kí kết hợp đồng tín dụng và cuối cùng là khách hàng hoàn trả nợ vay và thanh lý hợp đồng. Ngoài ra, quy trình cho vay này còn tiến hành một số công tác riêng biệt sau: 1: Định giá tài sản thế chấp. Sau khi nhân viên tín dụng đã phân tích hồ sơ vay vốn của khách hàng, năng lực vay nợ, mục đích vay vốn, khả năng tài chính và uy tín.Tất cả đều phù hợp với chính sách của Nhà nước và mức độ rủi ro có thể chấp nhận được thì Ngân hàng tiến hành giám định về hồ sơ của tài sản và định giá TSTC. 1.1; Giám định tính chất pháp lý của tài sản. Tài sản đảm bảo phải đủ điều kiện do pháp luật quy định cụ thể : Tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người đem thế chấp, không có tranh chấp, được phép giao dịch theo quy định của pháp luật. 1.2;Kiểm tra tính dễ chuyển nhượng của TSTC. Tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay phải là loại tài sản dễ chuyển nhượng được trên thị trường. Ngân hàng không chấp nhận các loại tài sản thuộc loại ứ đọng, kém phẩm chất, hàng hoá đặc chủng hoặc dễ bị phá huỷ do tác động của môi trường, thời gian ... làm tài sản đảm bảo. Cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm khảo sát, nghiên cứu kỹ lưỡng trên thị trường về các loại hàng hóa mà khách hàng đề nghị dùng làm tài sản đảm bảo để kết luận về tính dễ tiêu thụ của hàng hóa. 1.3; Định giá TSTC. Việc định giá TSTC do cán bộ tín dụng chuyên trách về định giá TSTC tiến hành. Với TSTC hình thành từ vốn vay là nhà cửa, công trình xây dựng thì giá trị tài sản được xác định căn cứ vào dự toán chi phí xây dựng do bên thế chấp xác định trên cơ sở các quy định hiện hành của Nhà nước hoặc phải phù hợp với mức giá thực tế trên thị trường.Với TSTC hình thành từ vốn vay là máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, tàu biển,máy bay ... giá trị tài sản được xác định căn cứ vào mức giá ghi trên hoá đơn chứng từ hoặc hợp đồng mua bán giữa bên thế chấp với người cung cấp máy móc ,thiết bị, phương tiện vận tải và kiểm tra, đối chiếu với mức giá thị trường của tài sản cùng loại. Với hàng hoá nhập khẩu : Giá trị tài sản thế chấp được xác định căn cứ vào giá trị ghi trên hoá đơn chứng từ hàng hoá nhập khẩu nếu tiền vay dùng để thanh toán tiền mua hàng nhập khẩu hoặc căn cứ vào mức giá ghi trên chứng từ hàng nhập khẩu cộng tiền thuế nếu tiền vay dùng để thanh toán tiền mua hàng nhập khẩu và nộp tiền thuế nhập khẩu. 2: Xác định mức cho vay dựa vào TSTC. Sau khi đã xác định được giá trị TSTC thì Ngân hàng xác định mức cho vay dựa vào TSTC . Một trong những nhân tố quan trọng đảm bảo an toàn của tín dụng thế chấp là tỉ lệ giữa giá trị khoản vay và giá thị trường của tài sản dùng làm thế chấp. Nói chung tỉ lệ giá trị khoản vay trong giá trị TSTC càng lớn thì khả năng vi phạm các cam kết của người vay càng lớn vì phần tài sản bỏ ra của người vay trong giá trị tài sản dùng làm thế chấp là nhỏ.Vì vậy, để phòng trường hợp người vay không mất khả năng trả nợ, về mặt quy định, mức cho vay của Ngân hàng bao giờ cũng thấp hơn giá trị tài sản theo định mức ( thông thường là 70% giá trị TSTC ). Tuy nhiên,giá trị của tài sản thường xuyên biến động theo thị trường, vì vậy tuỳ theo mức độ biến động của từng loại tài sản mà ấn định tỉ lệ cho vay thích hợp. Loại tài sản ít biến động giá, mức cho vay có thể lên đến 80% giá trị tài sản. Còn tài sản có mức biến động lớn, tỉ lệ cho vay có thể là 50%. Ngoài ra việc quy định tỉ lệ cho vay còn tuỳ thuộc và từng thời kỳ phát triển kinh tế. 3: Kí kết hợp đồng và quản lý TSTC. 3.1; Lập giấy thế chấp tài sản hoặc hợp đồng TSTC và lưu giữ giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản. Sau khi đã thoả thuận mức cho vay và các điều kiện về tín dụng, khách hàng vay vốn phải lập giấy TSTC đồng thời chuyển giao giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản cho Ngân hàng. Tuỳ theo quy định cụ thể của pháp luật mà thực hiện các thủ tục về hành chính thích hợp như : xác nhận của cơ quan công chứng và đăng ký với cơ quan quản lý tài sản thích hợp. 3.2; Giải toả TSTC và trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản. Sau khi khách hàng đã thanh toán nợ, cả vốn gốc và lãi thì Ngân hàng lập hồ sơ để giải toả TSTC. Giấy đề nghị giải quyết TSTC phải chuyển đến cơ quan thích hợp ( Cơ quan công chứng, cơ quan quản lý tài sản ).Đồng thời Ngân hàng trả lại giấy chứng nhậnvề quyền sở hữu tài sản cho khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng của Ngân hàng rất đa dạng và phức tạp, từ các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp tư nhânđến các hộ gia đình; từ khu vực sản xuất vật chất đến các hoạt động du lịch.Vì vậy yếu tố đầu tiên mà các Ngân hàng dựa vào để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng, từ đó quyết định có cấp tín dụng hay không là sự hiểu biết nhất định về khách hàng. Do đó trong quy trình cho vay ( có tài sản đảm bảo và không có tài sản đảm bảo ) dù có những điểm khách biệt song một nội dung chung mà các Ngân hàng đều phải đặc biệt quan tâm đến là tư cách đạo đức, khả năng lãnh đạo, năng lực hoàn trả của doanh nghiệp vì đó chính là cơ sở quan trọng nhất để Ngân hàng bảo đảm an toàn khoản tiền cho vay. V:Vấn đề xử lý TSTC hình thành từ vốn vay trong hoạt động kinh doanh của NHTM. 1;Thời điểm phát sinh xử lý TSTC. Cho vay có tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay không còn là một hoạt động kinh doanh mới của Ngân hàng nhưng nó lại có tính đặc thù cao bởi lẽ khi Ngân hàng thực hiện những khoản cho vay này đồng nghĩa với việc Ngân hàng nhận chính tài sản hình thành do một phần hoặc toàn bộ khoản vay đó làm tài sản đảm bảo. Khi cho vay có TSTC loại này, Ngân hàng đã phải thực hiện quy trình cấp tín dụng tương đối chặt chẽ thông qua quá trình thẩm định tín dụng một cách kĩ càng, thường xuyên theo dõi, giám sát khách hàng và tiến độ hình thành tài sản. Tuy vậy, bản thân Ngân hàng cũng không loại bỏ hết được những rủi ro tiềm ẩn bên trong đó. Do vậy, việc khách hàng không hoàn trả nợ vay dẫn đến các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi là không tránh khỏi. Vì thế vấn đề đặt ra là Ngân hàng xử lý TSTC loại này như thế nào để thu hồi vốn và giảm bớt thiệt hại trong quá trình kinh doanh Ngân hàng. Có thể nói, xử lý TSTC nói chung và xử lý TSTC hình thành từ vốn vay nói riêng là một biện pháp để thu hồi các khoản nợ mà khách hàng không có khả năng hoàn trả khi đến hạn. Đối với trường hợp khách hàng không trả được nợ đúng hạn, Ngân hàng vẫn tiếp tục xem xét khả năng trả nợ của khách hàng và cho gia hạn nợ nếu xét thấy khách hàng vẫn còn khả năng thanh toán. Mục tiêu của Ngân hàng không phải là bắt nợ khách hàng mà cố gắng tối đa để giúp khách hàng trả nợ được cho Ngân hàng. Ngân hàng có thể cấp thêm vốn cho khách hàng để tiếp tục duy trì sản xuất nếu dự án còn khả thi và nguyên nhân không trả được nợ là do khách hàng thiếu vốn để sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, việc xử lý TSTC chỉ nên áp dụng sau khi đã thẩm định, phân tích kỹ khả năng tồn tại để tiếp tục sản xuất, kinh doanh của đơn vị vay. Nếu xét thấy nhu cầu thị trường vẫn chấp nhận được các sản phẩm và dịch vụ mà đơn vị đó cung ứng với giá đảm bảo kinh doanh thì tốt hơn hết là Ngân hàng không nên xử lý TSTC để thu nợ, mà nên tiếp tục gia hạn, hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ đối với đơn vị đó. TSTC chỉ nên xử lý bằng phát mại khi doanh nghiệp không còn khả năng hoàn trả cho Ngân hàng do dự án vay vốn không khả thi hoặc doanh nghiệp bị phá sản. 2; Phương thức xử lý TSTC. Trong trường hợp đã đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên nhận thế chấp có quyền xử lý tài sản đem thế chấp. Đối với các loại tài sản thông thường: Ngân hàng có thể có các phương pháp như yêu cầu bán đấu giá TSTC để thực hiện nghĩa vụ. Với những tài sản có giá trị nhỏ, Ngân hàng có thể trực tiếp quản lý tài sản đó. Khi đó việc xử lý tài sản do Ngân hàng quyết định đứng ra phát mại. Ngân hàng được ưu tiên thanh toán từ số tiền bán TSTC, sau khi trừ đi chi phí bảo quản, bán đấu giá tài sản. Với những tài sản lớn, có giá trị cao và theo quy định của pháp luật thì sẽ do cơ quan trung gian đứng ra quản lý. Khi xử lý TSTC, Ngân hàng phải làm đơn kiện lên cơ quan có thẩm quyền đòi xử lý bồi thường. Ngoài ra, Ngân hàng có thể áp dụng các hình thức khác như: để bên thế chấp tự đứng ra bán tài sản, hai bên cùng bán tài sản, uỷ quyền cho tổ chức tín dụng khác bán tài sản... Trong trường hợp phải xử lý TSTC để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn, thì các nghĩa vụ khác tuy chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn. Thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự đăng ký thế chấp. Đối với quyền sử dụng đất đã thế chấp: Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp quyền sử dụng đất mà bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì quyền sử dụng đất được xử lý. Trong trường hợp đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng đã thế chấp tại Ngân hàng thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có quyền tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất để thu hồi vốn và lãi, trong trường hợp quyền sử dụng đất ở đã thế chấp với tổ chức kinh tế, cá nhân thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất để thu hồi vốn và lãi. Chấm dứt TSTC : Thế chấp tài sản chấm dứt trong trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp đã được thực hiện, việc tài sản thế chấp được huỷ bỏ hay được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác và trường hợp TSTC đã được xử lý. Khi thế chấp chấm dứt, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã đăng ký việc thế chấp xác nhận việc giải trừ thế chấp. 3; Yêu cầu về xử lý TSTC. Dù là xử lý TSTC hình thành từ vốn vay hay TSTC là tài sản của người đi vay thì cũng luôn là một vấn đề khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải có sự thận trọng lựa chọn chính sách và taọ môi trường cho các giải pháp xử lý. Để đảm bảo tính khả thi cao của giải pháp xử lý, cần đảm bảo các yêu cầu sau: Một là: Các giải pháp phải có tính dân chủ và xã hội hoá cao; Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, các giải pháp có sự thống nhất từ luật pháp, cơ chế, chính sách đến tổ chức thực hiện đòi hỏi phải thu hút được sự hợp tác đầy trách nhiệm của các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng, các nhóm khách hàng cũng như của nhân dân. Hai là: Cần có các giải pháp vĩ mô của Chính phủ để tạo ra thị trường lưu thông nợ và tài sản nhằm đưa tài sản và tiền vốn bị kẹt vào sử dụng sinh lợi, tạo đà đẩy nhanh tiến trình lành mạnh hoá hoạt động tài chính của các khoản vay có thế chấp. Ba là: Các giải pháp xác định được phạm vi,mục tiêu lâu dài để áp dụng và động viên thu hút sự tham gia xử lý ở phạm vi rộng. Bốn là: Các giải pháp phải mang tính đa dạng, có khả năng kết nối, tôn trọng quyền lựa chọn của các bên và xử lý được nhiều tình huống. Năm là: Các giải pháp phải hướng tới việc tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước, đặc biệt là của Ngân hàng Nhà nước, quy định các điều kiện bảo đảm tính an toàn các nghiệp vụ và ổn định toàn hệ thống, khung giám sát và luật lệ cần được củng cố lại. 4; Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xử lý TSTC. 4.1; Các yếu tố thuộc về Ngân hàng. 4.1.1: Chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định. Con người luôn là yếu tố quan trọng quyết định tới sự thành bại của công việc. Đối với ngành Ngân hàng, để đạt được qui mô và chất lượng của hoạt động tín dụng thì trước tiên phải kể đến chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định . Với một đội ngũ cán bộ thẩm định có
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan