Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành tại khoa Sinh, trường Đại học sư phạm Hà
Nội 2.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô hướng dẫn khoa học: Th.S An
Biên Thùy đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ bộ môn phương pháp
giảng dạy sinh học, cùng các thầy cô của khoa Sinh, trường Đại học sư phạm
Hà Nội 2 đã động viên, hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn: BGH trường THPT Nguyễn Du – Kiến Xương –
Thái Bình, trường THPT Vũ Tiên - Vũ Thư – Thái Bình đã tạo mọi điều kiện
giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện luận văn.
Hà Nội, Tháng 5 năm 2012
Tác giả luận văn
Trần Thị Hiển
SVTH: Trần Thị Hiển
1
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu của đề tài đảm bảo tính chính xác,
khách quan, trung thực không trùng lặp với bất kì đề tài nào khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, Tháng 5 năm 2012
Tác giả luận văn
Trần Thị Hiển
SVTH: Trần Thị Hiển
2
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
BGH
Ban giám hiệu
CTC
GD
GV
HS
LL DHSH
NXB
SGK
SH
TĐC
THPT
TNKQ
SVTH: Trần Thị Hiển
Đọc là
Chương trình chuẩn
Giáo dục
Giáo viên
Học sinh
Lí luận dạy học sinh học
Nhà xuất bản
Sách giáo khoa
Sinh học
Trao đổi chất
Trung học phổ thông
Trắc nhiệm khách quan
3
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU.........................................................................................
1. Lí do chọn đề tài:...........................................................................................
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................
3. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................
4. Nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................
5. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................
6. Những đóng góp mới của đề tài....................................................................
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.................
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu liên quan đến đề tài...............................
1.2. Cơ sở lí luận của đề tài.............................................................................
1.2.1. Bài lên lớp, cấu trúc bài lên lớp nghiên cứu tài liệu mới........................
1.2.2. Câu hỏi – bài tập dùng trong khâu củng cố.............................................
1.3. Cơ sở thực tiễn........................................................................................12
1.3.1. Thực trạng sử dụng câu hỏi – bài tập vào dạy học phần củng cố các
bài trong chương II – Phần Sinh học tế bào- SH10- CTC...............................12
1.3.2. Hứng thú của học sinh đối với các hình thức củng cố các bài trong
chương II – Phần Sinh học tế bào- SH10- CTC..............................................16
CHƯƠNG II: THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG CÂU HỎI - BÀI TẬP DẠY
HỌC CHƯƠNG II – PHẦN 2 SINH HỌC TẾ BÀO, SINH HỌC 10 CTC
..........................................................................................................17
2.1. Cấu trúc nội dung các bài trong chương II, phần 2 Sinh học tế bào,
Sinh học 10 – CTC.........................................................................................17
2.1.1. Khái quát nội dung phần sinh học tế bào..............................................17
2.1.2. Phân tích nội dung chương II................................................................18
SVTH: Trần Thị Hiển
4
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
2.1.3. Phân tích nội dung các bài trong chương II..........................................19
2.2. Xây dựng hệ thống câu hỏi – bài tập củng cố......................................24
2.2.1. Nguyên tắc xây dựng câu hỏi – bài tập củng cố....................................24
2.2.2. Yêu cầu sư phạm của câu hỏi – bài tập củng cố....................................25
2.2.3. Quy trình xây dựng câu hỏi củng cố.....................................................26
2.2.4. Sử dụng câu hỏi – bài tập củng cố.........................................................26
2.2.5. Hệ thống câu hỏi – bài tập củng cố các bài trong chương II – Phần 2
Sinh học tế bào – SH 10 – CTC......................................................................26
2.3. Định hướng sử dụng câu hỏi – bài tập vào dạy các bài trong chương
II phần 2 sinh học tế bào – SH10 (CTC )....................................................54
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ CỦA ĐỀ TÀI...........................76
1. Kết luận......................................................................................................76
2. Kiến nghị....................................................................................................76
PHẦN IV: TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................78
PHỤ LỤC.......................................................................................................80
SVTH: Trần Thị Hiển
5
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bài lên lớp là hình thức dạy học cơ bản của quá trình dạy học Sinh học ở
trường phổ thông được diễn ra trong một khoảng thời gian xác định tại một
địa điểm nhất định với một số lượng học sinh ổn định có cùng độ tuổi, cùng
trình độ. Theo mục đích sư phạm các nhà LL DHSH đã phân biệt ba kiểu bài
lên lớp đó là bài lên lớp nghiên cứu tài liệu mới, bài lên lớp củng cố hoàn
thiện kiến thức và bài lên lớp kiểm tra đánh giá. Đối với bài lên lớp nghiên
cứu tài liệu mới thì có cấu trúc gồm 5 bước. Mỗi bước thực hiện một nhiệm
vụ nhất định của tiết học, các bước được sắp xếp theo một trình tự logic nhằm
thực hiện mục tiêu của tiết học, đây là cấu trúc khá chặt chẽ liên hệ mật thiết
với nhau và phản ánh đầy đủ các khâu của quá trình nhận thức. Trong đó,
khâu củng cố có vai trò vô cùng quan trọng không thể thiếu bởi khâu củng cố
nhằm hệ thống hóa lại kiến thức mà HS vừa tiếp thu được để HS khắc sâu
thêm kiến thức. Như vậy, mỗi khâu đều có vai trò nhất định, quan trọng
không thể thiếu được. Nếu thiếu một trong các khâu đó thì quá trình dạy học
không đạt yêu cầu, HS không lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ, sâu sắc. Bởi
vậy, trong quá trình dạy học GV phải đảm bảo đầy đủ các khâu và kết hợp
một cách linh hoạt nhuần nhuyễn giữa các khâu để đạt hiệu quả cao hơn.
Nhưng điều quan trọng là GV phải chú ý đến chất lượng của từng khâu. Muốn
vậy GV phải làm gì?
Thực tế cho thấy năm học 2006-2007 SGK SH 10 theo chương trình mới
đã được triển khai đại trà trên toàn quốc. SGK mới đưa vào rất nhiều kiến
thức, tranh ảnh sơ đồ để minh họa cho các kiến thức đó. Ngoài ra, còn đưa
thêm các tư liệu mới ở cuối mỗi bài như mục “Em có biết”. Trước sự thay đổi
SGK mới như vậy mà thời gian học trên lớp còn hạn chế do đó HS không thể
nào hệ thống hóa được kiến thức sau mỗi bài. Bởi vậy, GV cũng đã quan tâm
SVTH: Trần Thị Hiển
6
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
đến việc thay đổi phương pháp dạy học trong các khâu và đặc biệt là khâu
củng cố.
Mặt khác, trong khâu củng cố hệ thống câu hỏi, bài tập là phương tiện
đắc lực đối với GV, có tầm quan trọng đặc biệt để nâng cao chất lượng dạy
học bộ môn. Vì vậy, GV cũng sử dụng câu hỏi, bài tập và tổ chức dạy học
phần củng cố bằng nhiều cách khác nhau. Nhưng sự đổi mới đó chỉ dừng lại ở
mức độ nhất định chưa kích thích và gây hứng thú cho HS. GV cũng củng cố
bài bằng cách đặt câu hỏi cuối bài song thường củng cố bằng cách tóm tắt nội
dung bài học hoặc sử dụng câu hỏi trong SGK. Những câu hỏi này thường ở
mức độ đơn giản, sơ sài được hình thành dựa trên kinh nghiệm cá nhân mang
tính cá thể chưa có hệ thống. Nếu GV có xây dựng được hệ thống câu hỏi, bài
tập thì chỉ sử dụng chúng trong các giờ thao giảng, các tiết thi giáo viên giỏi,
…còn hầu hết các giờ lên lớp thì củng cố ở mức độ đơn giản. Hơn nữa, đôi
khi còn có những GV không biết cách xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập và
tổ chức hoạt động dạy học như thế nào sao cho phù hợp với trình độ nhận
thức của HS.
Như vậy, GV muốn sử dụng hệ thống câu hỏi bài tập vào dạy phần củng
cố đạt kết quả tốt điều quan trọng GV phải xây dựng được hệ thống câu hỏi,
bài tập phù hợp với trình độ của HS và biết cách tổ chức dạy học sao cho phù
hợp. Nhằm bổ sung câu hỏi củng cố cho GV và đặc biệt là SV mới ra trường
chúng tôi đi vào nghiên cứu đề tài “Xây dựng và sử dụng câu hỏi, bài tập vào
dạy phần củng cố các bài phần 2 Sinh học tế bào SH 10 – CTC”.
2. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống câu hỏi, bài tập củng cố trong chương II –
phần 2 – Sinh học tế bào SH10 – CTC.
- Khách thể nghiên cứu: HS lớp 10 Trường THPT Nguyễn Du – Kiến Xương
– Thái Bình
SVTH: Trần Thị Hiển
7
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
3. Mục đích nghiên cứu
- Xây dựng và sử dụng câu hỏi, bài tập vào dạy phần củng cố các bài trong
chương II– phần 2 Sinh học tế bào SH10 - CTC.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về câu hỏi, bài tập dạy phần củng cố.
4.2. Phân tích nội dung chương II, các bài trong chương II – phần 2 Sinh học
tế bào SH10 – CTC
4.3 Xây dựng, biên soạn hệ thống câu hỏi, bài tập cho phần củng cố chương
II – phần 2 Sinh học tế bào SH10 – CTC
4.4. Định hướng, sử dụng câu hỏi, bài tập vào dạy phần củng cố bài học.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lí thuyết
- Nghiên cứu các tài liệu về chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước
trong công tác giáo dục nói chung và trong công cuộc đổi mới phương pháp
dạy học, đổi mới sách giáo khoa nói riêng.
- Nghiên cứu các tài liệu chuyên môn làm cơ sở lí thuyết cho đề tài.
5.2. Điều tra quan sát sư phạm
- Điều tra, tìm hiểu về tình hình học tập môn Sinh học ở một số trường phổ
thông, tình hình học tập phần củng cố bài học ở một số trường qua phiếu điều
tra.
- Điều tra việc dạy của giáo viên qua việc dự giờ, rút kinh nghiệm qua giáo
án, vở ghi của học sinh.
- Điều tra, trao đổi với giáo viên và học sinh trường thực nghiệm về việc sử
dụng hệ thống câu hỏi, bài tập theo hệ thống mà chúng ta đã xác định.
5.3. Phương pháp chuyên gia
Lấy ý kiến của GV phổ thong có kinh nghiệm trong giảng dạy
5.4. Thực nghiệm sư phạm.
SVTH: Trần Thị Hiển
8
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
6. Những đóng góp mới của đề tài
6.1. Hệ thống hóa thêm cơ sở lí luận về câu hỏi, bài tập sử dụng trong dạy học
đặc biệt dùng trong khâu củng cố bài học.
6.2. Điều tra về thực trạng dạy học Sinh học nói chung và sinh học tế bào nói
riêng ở các trường THPT.
6.3. Đề ra các nguyên tắc, quy trình xây dựng câu hỏi, bài tập trong dạy học
Sinh học phần củng cố.
6.4. Xây dựng được hệ thống câu hỏi, bài tập, đề xuất các biện pháp cụ thể,
sử dụng câu hỏi, bài tập tổ chức học sinh học tập tích cực khi dạy học Chương
II – Phần 2 Sinh học tế bào, SH 10- CTC.
SVTH: Trần Thị Hiển
9
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIẾN
CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu liên quan đến đề tài
a) Trên thế giới
Trên thế giới đã có nhiều tác giả đề cập tới câu hỏi. Trong đó, một số tác
giả ở Liên Xô cũ như: Socolovskaia, 1971 Abramova, Kadosnhicov, Laixeva,
Okarlinxki 1975, 1979 đã đề cập đến vai trò, phương pháp xây dựng sử dụng
câu hỏi, bài tập ở trường phổ thông. Trong các tài liệu đó các tác giả chủ yếu
soạn nhiều câu hỏi dựa vào nội dung từng chương mục của SGK chưa đi sâu
vào cơ sở lí luận của câu hỏi
Ở Pháp những năm 70 các tài liệu về lí luận dạy học đã khuyến khích tăng
cường sử dụng câu hỏi, bài tập để rèn luyện tính chủ động, tích cực của học
sinh ở các bậc học. Họ xem câu hỏi, bài tập vừa là nội dung, biện pháp,
phương pháp vừa là mục tiêu dạy học.
b) Ở Việt Nam
Nhiều tài liệu giáo khoa trong đó có các câu hỏi, bài tập để sử dụng trong
khâu củng cố hoàn thiện nâng cao như: Trần Bá Hoành, Trần Hồng Hải, Vũ
Tam Hiệp, Lê Đình Trung...
Với vai trò như một biện pháp dạy học câu hỏi đã được nhiều tác giả đề
cập tới và trong những năm gần đây cũng có nhiều đề tài của nhiều tác giả đề
cập tới câu hỏi ở nhiều khía cạnh khác nhau như:
- Xây dựng câu hỏi và bài tập hướng dẫn học sinh quan sát phương tiện
trực quan trong dạy học chương III, IV sinh học tế bào, chương II, III Sinh
học vi sinh vật, Sinh học 10 SGK thí điểm bộ 2 của tác giả Trần Bảo Linh
2004
SVTH: Trần Thị Hiển
10
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
- Xây dựng và sử dụng câu hỏi, bài tập chương III, IV phần Sinh học tế
bào nhằm tích cực hóa hoạt động học của học sinh lớp 10 THPT của Phạm
Thị Thanh Mai 2006
- Xây dựng câu hỏi và bài tập chương II phần di truyền nhằm tích cực
hóa hoạt động của học sinh lớp 12 THPT của Nguyễn Trung Thành, 2009
- Xây dựng và sử dụng hệ thống câu hỏi nhằm nâng cao chất lượng dạy
học phần Sinh học tế bào - Sinh học 10 của Vũ Thị Diệu Linh, 2007
- Xây dựng hệ thống câu hỏi TNKQ dạng MCQ phần tế bào học để góp
phần nâng cao hiệu quả kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh của
Nguyễn Minh Hà, 2004
Trong các tài liệu này các tác giả đã đưa ra được các nguyên tắc, quy trình
xây dựng câu hỏi và xây được hệ thống các câu hỏi nhưng chủ yếu dùng trong
khâu nghiên cứu tài liệu mới còn khâu củng cố ít được đề cập đến. Đặc biệt
còn hạn chế các tài liệu hay đề tài đề cập tới việc xây dựng câu hỏi và bài tập
dạy phần củng cố các bài trong chương II - Phần Sinh học tế bào, Sinh học
10- CTC. Chính vì vậy tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài này.
1.2. Cơ sở lí luận của đề tài
1.2.1. Bài lên lớp, cấu trúc bài lên lớp nghiên cứu tài liệu mới
1.2.1.1. Bài lên lớp
Bài lên lớp là hình thức dạy học cơ bản của quá trình dạy học Sinh học ở
trường phổ thông được diễn ra trong một khoảng thời gian xác định tại một
địa điểm nhất định với một số lượng học sinh ổn định có cùng độ tuổi, cùng
trình độ.
Theo mục đích sư phạm các nhà LL DHSH đã phân biệt ba kiểu bài lên
lớp:
- Bài lên lớp nghiên cứu tài liệu mới.
- Bài lên lớp củng cố hoàn thiện kiến thức.
SVTH: Trần Thị Hiển
11
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
- Bài lên lớp kiểm tra đánh giá.
1.2.1.2. Cấu trúc bài lên lớp nghiên cứu tài liệu mới
Bài lên lớp nghiên cứu tài liệu mới có cấu trúc gồm ba khâu chính.Đó là
khâu kiểm tra bài cũ, khâu nghiên cứu tài liệu mới, khâu củng cố. Mỗi khâu
thực hiện một nhiệm vụ nhất định của tiết học, các khâu được sắp xếp theo
một trình tự logic nhằm thực hiện mục tiêu của tiết học. Trong đó khâu củng
cố có vai trò vô cùng quan trọng không thể thiếu bởi khâu củng cố nhằm hệ
thống hóa lại kiến thức mà HS vừa tiếp thu được để HS khắc sâu thêm kiến
thức
1.2.1.3. Củng cố, vai trò của việc củng cố
* Củng cố là nhằm hệ thống hóa lại kiến thức mà HS vừa tiếp thu được để HS
khắc sâu thêm kiến thức.
* Vai trò của khâu củng cố.
Việc củng cố hoàn thiện kiến thức có hệ thống và thường xuyên cung cấp
kịp thời những thông tin “liên hệ ngược” giúp người học tự điều chỉnh hoạt
động học tập và giáo viên điều chỉnh hoạt động dạy học. Cụ thể như sau:
a) Đối với giáo viên
- Tạo điều kiện cho giáo viên nắm được một cách cụ thể và khá chính xác
năng lực và trình độ của mỗi học sinh để tìm biện pháp giúp đỡ riêng, thích
hợp.
- Tạo cơ hội cho giáo viên xem xét hiệu quả của những cải tiến nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học.
Như vậy, việc hệ thống hóa kiến thức có vai trò rất quan trọng vì giúp học
sinh hiểu bài đầy đủ và chính xác hơn, ngoài ra còn có chức năng kiểm tra
đánh giá kiến thức của học sinh.
SVTH: Trần Thị Hiển
12
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
b) Đối với học sinh.
- Về kiến thức: Qua mỗi phần củng cố kiến thức học sinh thấy mình đã
tiếp thu những điều vừa học ở mức độ nào, phần nào cần bổ sung thêm trước
khi bước vào phần tiếp theo của chương trình học.
- Về năng lực: Củng cố hoàn thiện kiến thức học sinh tiến hành các hoạt
động trí tuệ như: ghi nhớ, tái hiện, so sánh, phân tích, chính xác hóa, khái quát
hóa, hệ thống hóa kiến thức. Qua đó, học sinh sẽ phát huy trí thông minh, phát
triển tư duy sáng tạo, linh hoạt vận dụng kiến thức đã học để giải quyết những
tình huống thực tế.
- Về giáo dục: Củng cố hoàn thiện kiến thức thường xuyên, nghiêm túc sẽ
giúp học sinh nâng cao tinh thần trách nhiệm trong học tập, có ý chí vươn lên
đạt kết quả cao hơn, củng cố lòng tin vào năng lực của mình, nâng cao ý thức
tự giác, khắc phục tính chủ quan tự mãn.
1.2.2. Câu hỏi – bài tập dùng trong khâu củng cố
1.2.2.1. Khái niệm, bản chất của câu hỏi
“ Hỏi” là nêu ra điều mình muốn người khác hoặc tự trả lời về vấn đề nào
đó.
Câu hỏi có một tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động nhận thức thế
giới của loài người và trong dạy học. Aristole là người đầu tiên đã biết phân
tích câu hỏi dưới góc độ logic và lúc đó ông cho rằng đặc trưng cơ bản của
câu hỏi là buộc người bị hỏi phải lựa chọn các giải pháp có tính trái ngược
nhau. Do đó, con người phải có phản ứng lựa chọn hoặc cách hiểu này hoặc
cách hiểu khác. Tư tưởng quan trọng bậc nhất của ông còn nguyên giá trị đó
là: “Câu hỏi là một mệnh đề trong đó chứa đựng cái đã biết và cái chưa biết”
Câu hỏi = Cái đã biết + Cái chưa biết
Như vậy, trong đời sống cũng như trong nghiên cứu khoa học con người
chỉ nêu ra thắc mắc tranh luận khi đã biết nhưng chưa đầy đủ cần biết thêm.
SVTH: Trần Thị Hiển
13
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
Còn nếu khi không biết gì hoặc biết tất cả về sự vật nào đó thì không có gì để
hỏi về sự vật đó nữa. Do đó, tương quan giữa cái đã biết và cái chưa biết thúc
đẩy việc mở rộng hiểu biết của con người. Con người muốn biết một sự vật
hiện tượng nào đó dứt khoát chỉ biết khi người đó đặt được những câu hỏi: Đó
là cái gì? Như thế nào? Vì sao?....
Đề Các cho rằng không có câu hỏi thì không có tư duy cá nhân cũng như
không có tư duy nhân loại. Ông cũng nhấn mạnh dấu hiệu bản chất của câu
hỏi là phải có mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết, phải có tỉ lệ phù
hợp giữa hai đại lượng đó thì chủ thể nhận thức mới xác định được phương
hướng mình phải làm gì để trả lời câu hỏi đó. Khi chủ thể nhận thức đã được
định rõ cái mình đã biết và cái mình chưa biết thì lúc bấy giờ mới đặt được
câu hỏi và lúc đó câu hỏi mới thực sự trở thành sản phẩm của quá trình nhận
thức.
1.2.2.2. Khái niệm, bản chất của bài tập.
Theo Nguyễn Ngọc Quang: Bài tập là một nhiệm vụ mà người giải cần
thực hiện trong bài tập bao gồm các dữ kiện và yêu cầu.
Bài tập là một tập hợp các kiến thức xác định bao gồm những vấn đề
đã biết và chưa biết nhưng luôn luôn mâu thuẫn nhau dẫn đến việc phải biến
đổi chúng để tìm lời giải.
Bài tập là bài ra cho HS để vận dụng những điều đã học nhằm hình
thành kiến thức mới, củng cố, khắc sâu, hoàn thiện và nâng cao kiến thức đã
học.
Bài tập có thể là một câu hỏi, một thí nghiệm, một bài toán, một bài
toán nhận thức.
Bài tập được dùng trong tất cả các khâu của quá trình dạy học.
SVTH: Trần Thị Hiển
14
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
1.2.2.3. Phân loại câu hỏi – bài tập trong dạy học
Tùy theo mục đích, bản chất, cách sử dụng mà người ta chia câu hỏi thành
nhiều loại khác nhau. Nhưng theo tôi để phân loại câu hỏi sử dụng trong khâu
củng cố thì cách phân loại sau tôi cho là hợp lí nhất
Theo Benjaminbloom (1956) đã đề ra một thang 6 mức câu hỏi (6 loại câu
hỏi) tương ứng với 6 mức chất lượng lĩnh hội kiến thức
1.
Biết: câu hỏi yêu cầu học sinh nhắc lại một số kiến thức đã biết, học
sinh trả lời bằng sự tái hiện và lặp lại
VD: Thế nào là vận chuyển thụ động?
Khuếch tán là gì?
2.
Hiểu: Câu hỏi yêu cầu học sinh tổ chức, sắp xếp lại kiến thức đã học và
diễn đạt điều đã biết theo ý mình chứng tỏ đã thông hiểu chứ không phải chỉ
biết và nhớ
VD: Em hãy so sánh thành phần cấu trúc của tế bào thực vật và
tế bào động vật?
Em hãy phân biệt tế bào nhân sơ và tế bào nhân thực?
3.
Áp dụng: Câu hỏi yêu cầu học sinh áp dụng những kiến thức đã học
vào tình huống mới khác với tình huống trong bài
VD: Tại sao khi muối dưa bằng rau cải lúc đầu rau quắt lại sau
vài ngày rau trương to lên?
4.
Phân tích: Câu hỏi yêu cầu học sinh phân tích nguyên nhân hay kết quả
của một hiện tượng tìm kiếm bằng chứng cho một hiện tượng
VD: Giải thích tại sao ti thể lại được coi là nhà máy năng lượng của
tế bào?
5.
Tổng hợp: Câu hỏi yêu cầu học sinh vận dụng phối hợp các kiến thức
đã có để giải đáp các vấn đề khái quát hơn bằng suy nghĩ sáng tạo của bản
thân
SVTH: Trần Thị Hiển
15
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
VD: Làm thế nào để khi xào rau muống không bị quắt và dai mà vẫn
xanh giòn?
6.
Đánh giá: Câu hỏi yêu cầu học sinh nhận định phán đoán về ý nghĩa
kiến thức giá trị của tư tưởng vai trò của một học thuyết
VD: Kích thước nhỏ đem lại ưu thế gì cho tế bào nhân sơ?
Như vậy, Benjaminbloom đã đề ra một thang 6 mức câu hỏi tương ứng với
6 mức chất lượng lĩnh hội kiến thức của HS. Và các dạng câu hỏi trên đều
dung trong khâu củng cố và chủ yếu đó là câu hỏi ở mức 2 đến mức 5. Các
dạng câu hỏi trên không những khắc sâu kiến thức mà còn mở rộng thêm kiến
thức cho HS.
1.2.2.4. Vai trò của câu hỏi – bài tập củng cố
- Khi dùng câu hỏi – bài tập để mã hóa thông tin củng cố cho học sinh thì
câu hỏi và việc trả lời câu hỏi là nguồn tri thức cho học sinh
- Câu hỏi – bài tập dùng để củng cố giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một
cách có hệ thống, thâu tóm được kiến thức cơ bản của bài, học sinh ghi nhớ
khắc sâu được kiến thức.
- Học sinh nắm vững kiến thức trọng tâm của bài, chủ động giành lấy
kiến thức thông qua trả lời các câu hỏi, từ đó khắc phục được lối truyền thụ
một chiều.
- Củng cố bằng câu hỏi – bài tập giúp giáo viên đánh giá học sinh về mặt
kiến thức thái độ vì câu hỏi là biện pháp phát hiện, tự phát hiện thông tin
ngược về kết quả nhận thức từ đó giáo viên có các biện pháp nâng cao nhận
thức cho học sinh.
- Củng cố bằng câu hỏi – bài tập dưới các hình thức khác nhau tạo hứng
thú, say mê, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo trong học tập của học
sinh. Do đó, giờ học không còn nặng nề, giảm tải cho học sinh.
SVTH: Trần Thị Hiển
16
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
- Củng cố bằng câu hỏi – bài tập còn rèn cho học sinh kĩ năng diễn đạt
bằng lời nói, kĩ năng phát hiện kiến thức, xử lý thông tin một cách nhanh
nhạy, linh hoạt.
- Củng cố bằng câu hỏi – bài tập không những giúp học sinh hiểu sâu
kiến thức lý thuyết mà học sinh còn liên hệ kiến thức thực tế đời sống vì thế
học sinh thêm yêu thích môn học, hứng thú với môn học hơn.
- Câu hỏi – bài tập củng cố giúp học sinh thấy mình đã tiếp thu kiến thức
ở mức độ nào, những phần nào cần bổ sung thêm trong bài học.
- Giúp học sinh tiến hành các hoạt động trí tuệ, ghi nhớ tái hiện, so sánh
phân tích, chính xác hóa, hệ thống hóa kiến thức. Qua đó học sinh sẽ phát
triển tư duy sáng tạo, linh hoạt vận dụng kiến thức đã học để giải quyết những
tình huống thực tế.
Như vậy, câu hỏi – bài tập không những giúp học sinh lĩnh hội tri thức mới
một cách tích cực, chủ động, sáng tạo mà còn dùng để củng cố khắc sâu thêm
kiến thức cho học sinh. Do đó, câu hỏi là phương tiện tổ chức dạy học tích
cực nên giáo viên khi tổ chức dạy học cần phải chuẩn bị câu hỏi giúp học sinh
tự lực với mục tiêu dạy học.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Điều tra về thực trạng sử dụng câu hỏi – bài tập vào dạy học phần
củng cố các bài trong chương II – Phần Sinh học tế bào - SH10 - CTC
1.3.1.1. Điều tra giáo viên
a) Cách tiến hành
Tôi đã tiến hành điều tra thực trạng sử dụng câu hỏi vào dạy học phần
củng cố các bài trong chương II - Phần Sinh học tế bào - SH10 - CTC bằng
phiếu điều tra với các câu hỏi trắc nghiệm và câu hỏi mở (xem phiếu điều tra
số 1- phụ lục)
SVTH: Trần Thị Hiển
17
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
Tiến hành điều tra giáo viên Sinh học tại trường THPT Nguyễn Du – Kiến
Xương – Thái Bình
b) Kết quả điều tra
Qua phân tích phiếu điều tra kết quả cho thấy :
Số GV trả lời
Thời gian
củng cố
Biện pháp
thường sử dụng
cho củng cố
Biện pháp củng
cố hiệu quả
nhất
Khoảng 2 phút
Trên 3 phút, dưới
5 phút
Không cố định
Gọi HS đọc tóm
tắt cuối bài
Sử dụng câu hỏi,
bài tập cuối bài
Sử dụng câu hỏi
TNKQ
Sử dụng trò chơi
Gọi HS đọc tóm
tắt cuối bài
Sử dụng câu hỏi,
bài tập cuối bài
Sử dụng câu hỏi
TNKQ
Sử dụng trò chơi
0
4
80%
1
0
20%
0%
3
60%
1
20%
Số GV điều
tra
5
1
0
20%
0%
1
20%
3
60%
1
20%
Như vậy, đa phần các thầy cô đều cố định thời gian củng cố bài học. Vì
vậy, biện pháp thầy cô thường sử dụng củng cố là gọi học sinh đọc tóm tắt
cuối bài hay sử dụng câu hỏi cuối bài vì nó đơn giản. Mặc dù học sinh tóm tắt
định hình được kiến thức bài học nhưng không gây hứng thú, say mê cho học
sinh, học sinh làm việc không tích cực. Còn khi sử dụng trò chơi hay các cách
SVTH: Trần Thị Hiển
18
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
củng cố khác thì thời gian củng cố sẽ lâu hơn, cách thiết kế phức tạp hơn nên
các thầy cô không hay dùng.
Khi điều tra hiểu biết về kiến thức câu hỏi bằng các câu hỏi 4,5,6,7 thì kết
quả điều ta như sau:
Số GV được điều tra
Số GV trả lời đúng câu 4
Số GV trả lời đúng câu 5
Số GV trả lời đúng câu 6
Số GV trả lời đúng câu 7
5
3
5
4
0
Như vậy, kiến thức về câu hỏi của các thầy cô còn hạn chế. Các thầy cô
đều xác định đúng mục đích của câu hỏi và xây dựng được câu hỏi nhưng câu
hỏi xây dựng được chỉ dựa trên kinh nghiệm hoặc sao chép hoặc ngẫu nhiên
chứ không tuân thủ theo các bước của quá trình xây dựng câu hỏi vì khi hỏi
đến các bước xây dựng câu hỏi không thầy cô nào trả lời được
1.3.1.2. Điều tra học sinh
a) Cách tiến hành
Tôi đã tiến hành điều tra đối với học sinh lớp 10 trường THPT Nguyễn Du
– Kiến Xương – Thái Bình bằng phiếu điều tra với các câu hỏi trắc nghiệm
và câu hỏi mở (xem phiếu điều tra số 2 - phụ lục)
Ngoài ra, tôi còn trao đổi với học sinh về thực trạng sử dụng câu hỏi vào
dạy phần củng cố các bài trong chương II – Phần Sinh học tế bào - CTC
SVTH: Trần Thị Hiển
19
Lớp K34B - Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S An Biên Thùy
b) Kết quả điều tra
Qua điều tra học sinh thì kết quả thu được đó là 100% các thầy cô đều sử
dụng hệ thống câu hỏi để củng cố cho các em
Khi điều tra về phương pháp thầy cô củng cố cho các em thì kết quả như
sau:
Số HS được
điều tra
40
Gọi HS
Biện pháp củng cố
Sử dụng câu Sử dụng câu
Sử dụng trò
đọc tóm tắt
hỏi, bài tập
hỏi TNKQ
chơi
cuối bài
9
22.5%
cuối bài
23
57.5%
5
12.5%
3
7.5%
Như vậy qua điều tra học sinh cũng cho thấy đa số các giáo viên thường sử
dụng câu hỏi cuối bài hoặc gọi học sinh đọc tóm tắt cuối bài để củng cố cho
học sinh
Ngoài ra khi trao đổi với các em học sinh các em nói GV chỉ sử dụng câu
hỏi TNKQ hay khi sử dụng trò chơi để củng cố bài khi các em được học bằng
máy chiếu còn khi không có máy chiếu thì các thầy cô thường củng cố bằng
các cách nêu trên. Mà thực trạng cho thấy trường tôi về thực tập trường cũng
có hệ thống phòng máy để phục vụ giảng dạy nhưng chủ yếu là phục vụ các
giờ thao giảng hay thi giáo viên giỏi. Vậy còn đối với các trường cơ sở vật
chất còn thiếu thốn thì sao? Các thầy cô cũng chỉ củng cố cho học sinh bằng
các cách đơn giản mà thôi.
SVTH: Trần Thị Hiển
20
Lớp K34B - Sinh
- Xem thêm -