Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân tỉnh phú thọ trong sự nghiệp công nghiệ...

Tài liệu Xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân tỉnh phú thọ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

.PDF
106
36
100

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi Tr−êng ®¹i häc khoa häc x héi vµ nh©n v¨n -------- -------- l−u h÷u hiÕu x©y dùng vµ ph¸t triÓn ®éi ngò c«ng nh©n tØnh phó thä trong sù nghiÖp c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa luËn v¨n th¹c sÜ Chuyªn ngµnh: Chñ nghÜa x· héi khoa häc M· sè: 60 22 03 08 Ng−êi h−íng dÉn khoa häc: GS.TS D−¬ng Xu©n Ngäc Hµ Néi - 2014 1 MỞ BÀI 1. Lý do và tính cấp thiết của đề tài Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị, mỗi người công nhân và toàn xã hội. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, giai cấp công nhân không chỉ là giai cấp lãnh đạo mà còn là lực lượng đi đầu, trực tiếp thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước. Giai cấp công nhân Việt Nam có những sự chuyển biến hết sức quan trọng, phát triển nhanh về số lượng, chất lượng và đa dạng về cơ cấu, hình thành một đội ngũ công nhân trí thức đông đảo. Vị trí của giai cấp công nhân ngày càng được khẳng định, phát huy được vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng cộng sản Việt Nam, vừa tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa. Tuy nhiên sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa và hội nhập quốc tế cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, thiếu các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề... Một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường, chưa được đào tạo bài bản, có hệ thống. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của giai cấp công nhân không đồng đều, sự hiểu biết chính trị, pháp luật còn nhiều hạn chế. Vì vậy, vấn đề xây dựng giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh về mọi mặt là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng, nhà nước của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân. Là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam, trải qua một thời gian phát triển, đội ngũ công nhân Tỉnh Phú Thọ không ngừng trưởng thành, có vai trò lớn trong tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung cũng như đóng góp vào sự phát triển Đất Tổ nói riêng. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước, đội ngũ công nhân Phú Thọ tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng. Tuy nhiên cũng như giai cấp công nhân cả nước, đội ngũ công nhân Phú Thọ đã và đang bộc lộ những những hạn chế và yếu kém đòi hỏi 2 phải từng bước khắc phục để có thể đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề phát triển đội ngũ công nhân Phú Thọ là việc làm vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách. Chính vì vậy tác giả đã lựa chọn và thực hiện đề tài: “ Xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân tỉnh Phú Thọ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, hy vọng góp một phần nhỏ vào việc làm rõ bản chất, vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam, góp phần xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân Tỉnh Phú Thọ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài 2.1. Các công trình nghiên cứu về giai cấp công nhân và xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa Trong những năm qua, vấn đề giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó đã được nhiều công trình khoa học nghiên cứu với nhiều góc độ và phạm vi khác nhau. Đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu: giai cấp công nhân là gì? Thực trạng giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam... Một số công trình nghiên cứu có liên quan tới đề tài nghiên cứu của tôi: - “Tích cực hóa nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình”(Trần Thị Bích Liên- Luận án tiến sĩ, 2001). - “Vấn đề đình công của công nhân ở nước ta hiện nay”( Phạm Thị Xuân Hương, Luận án Tiến sĩ, 2001). - “Xu hướng biến động giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21”( Tổng liên đoàn lao động Việt nam- Viện công nhân và công đoàn, Nxb Lao động Hà Nội, 2001)... - “Về giai cấp công nhân hiện đại, phong trào cộng sản và công nhân, trào lưu xã hội dân chủ trong chủ nghĩa tư bản hiện đại” (Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Đào Duy Quát, 1995). - “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011- 2020”( TS Đặng Ngọc Tùng, đề tài khoa học cấp nhà nước, năm 2011). - “Giai cấp công nhân Việt Nam – thực trạng và suy ngẫm”( Trương Giang Long, Tạp chí Cộng sản số 23 (143) năm 2007) 3 - “Giải pháp đảm bảo việc làm, cải thiện điều kiện làm việc của công nhân các khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay”( TS. Lê Thanh Hà, đề tài khoa học cấp Tổng Liên đoàn, 2011) Các công trình nêu trên đã khai thác tương đối toàn diện những vấn đề liên quan tới công nhân, xu hướng biến động của nó trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, mặt khác đã đề ra những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ công nhân không ngừng lớn mạnh nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Gần đây còn một số công trình khác nghiên cứu trực tiếp đền mối quan ghệ giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự phát triển của giai cấp công nhân; vai trò của giai cấp công nhân trong qúa trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như: - “ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển giai cấp công nhân”( PGS. Cao Văn Lượng( chủ biên)- Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2001) - “ Sự phát triển của giai cấp công nhân Việt nam và vai trò của nó trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”( Trần Ngọc Sơn- Luận án tiến sĩ, 2001). - Kỷ yếu hội thảo:” Về giai cấp công nhân và công đoàn Việt nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.( Trường Đại học công đoàn Việt nam, Hà Nôi, 2002). - “ Giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”( PGS. TS Dương Xuân Ngọc- Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004) - “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh đáp ứng yêu cầu cúa sự phát triển đất nước”(TS. Đặng Ngọc Tùng- Tham luận tại: Phiên họp sáng 14/01/2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam). - Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước” (TS. Đặng Ngọc Tùng- Bài phỏng vấn với phóng viên, đăng trên http://www.baomoi.com nhân ngày 1/5/2009) 4 Trong các công trình các tác giả đã đi sâu nghiên cứu và đề cập đến mối quan hệ biện chứng giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với sự phát triển của giai cấp công nhân, đặt ra những yêu cầu nhằm phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu…để có thể đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn đặt ra. 2.2. Các công trình nghiên cứu về đội ngũ công nhân và xây dựng đội ngũ công nhân Phú Thọ Đối với tình hình nghiên cứu về đội ngũ công nhân và xây dựng đội ngũ công nhân Phú Thọ trong thời gian qua tôi cũng đã tìm hiểu, tiếp cận với một số bài báo, các nghiên cứu cụ thể như sau: - “Quy hoạch phát triển công nghiệp giai đoạn 2011 - 2020 trên địa bàn tỉnh Phú Thọ”, Minh Ngọc, đăng trên http://www.aip.gov.vn/ , 2011. - “Thực trạng công nghiệp tỉnh ta: Nguyên nhân và giải pháp”, đăng trên http://www.baophutho.vn, 2012. - Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ đến năm 2020, đăng trên http://nguoiphutho.com, 2011. - Ủy ban nhân dân Tỉnh Phú Thọ(2009), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ 2010. - Ủy ban nhân dân Tỉnh Phú Thọ(2010), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội năm 2011 và phương hướng nhiệm vụ năm 2012. - Ủy ban nhân dân Tỉnh Phú Thọ(2011), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội năm 2012 và phương hướng nhiệm vụ năm 2013. - Cục thống kê- Liên đoàn lao động Tỉnh Phú Thọ(2010), Thực trạng đội ngũ công nhân Tỉnh Phú Thọ theo kết quả điều tra xã hội học Trong các bài báo chỉ đề cấp tới việc phát triển, quy hoạch chung về công nghiệp, về việc phát triển nền kinh tế chung của Tỉnh Phú Thọ, còn việc đề cấp tới đội ngũ công nhân và xây dựng đội ngũ công nhân Tỉnh là rất ít. Căn cứu vào mục tiêu nghiên cứu, các đề tài nghiên cứu trên chủ yếu nêu vấn đề và giải quyết vấn đề nằm ở tầm vĩ mô, không có nhiệm vụ đi sâu vào nghiên cứu cụ thể về đội ngũ công 5 nhân Tỉnh Phú Thọ một cách khoa học và toàn diện. Chính vì vậy đề tài này tác giả sẽ chỉ ra phương hướng, giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân Tỉnh Phú Thọ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và phát triển. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng việc xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân Phú Thọ, luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân Phú Thọ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.đất nước. 3.2 Nhiệm vụ Để đạt được mục tiêu đề tài xác định và giải quyết những nhiệm vụ: - Làm rõ cơ sở lý luận về việc xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam nói chung, đội ngũ công nhân Phú Thọ nói riêng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Đánh giá thực trạng xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân Phú Thọ, tìm ra những nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân Phú Thọ - Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân Phú thọ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài. 4.1 Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu việc xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân Phú Thọ trong sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa. 4.2 Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu quá trình xây dựng và phảt triển đội ngũ công nhân Phú Thọ trong quá trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa, chủ yếu trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa , hiện đại hóa (từ Đại hội VIII, 1996) đến nay. 5. Cơ sở lý luận và hệ phương pháp nghiên cứu của luận văn. 6 - Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết quả điều tra thực trạng công nhân ở các doanh nghiệp trong và ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. - Vận dụng tổng hợp phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Coi trọng phương pháp logic- lịch sử; kết hợp phương pháp thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,... - Kế thừa một cách chọn lọc các thành tựu nghiên cứu có liên quan đến luận văn. 6. Đóng góp mới của luận văn - Trong đề tài nghiên cứu này tôi đã bước đầu nêu lên được một cách hệ thống thực trạng đội ngũ; thực trạng xây dựng và phảt triển đội ngũ công nhân Phú Thọ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần tạo lập cơ sở khoa học để các cấp lãnh đạo, quản lý ở tỉnh Phú Thọ tham khảo, vận dụng trong việc xây dựng chính sách nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân trên địa bàn toàn tỉnh. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ giảng dạy nghiên cứu về giai cấp công nhân ở các trường chính trị Tỉnh, Thành phố. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đàu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ Lục, luận văn được chia thành 3 chương, 6 tiết. 7 CHƯƠNG 1 GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM VÀ ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN PHÚ THỌ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 1.1. Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1.1.1. Khái lược về giai cấp công nhân và giai cấp công nhân Việt Nam 1.1.1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân Khái niệm về giai cấp công nhân được đề cập đến ngay khi giai cấp công nhân xuất hiện trên vũ đài chính trị. Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu tùy thuộc ở lập trường giai cấp, thái độ chính trị, trình độ nhận thức và phương pháp tiếp cận khác nhau đưa ra nhiều ý kiến không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau. Đến nay giai cấp công nhân là gì? Nó còn hay đã "biến mất"? Địa vị kinh tế - xã hội của nó ra sao? Tất cả vẫn đang là trọng điểm nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học trên thế giới. Thực tiễn cho thấy, quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân vẫn hàm chứa tính khách quan và khoa học hơn cả bởi nó dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận biện chứng duy vật. Trong rất nhiều tác phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem xét khái niệm giai cấp công nhân trên tất cả các khía cạnh, các dấu hiệu đặc trưng nhất và các thuộc tính bản chất của nó. Chẳng hạn như ngay từ năm 1845, khi bắt tay vào nghiên cứu giai cấp công nhân trong tác phẩm "Gia đình thần thánh" C.Mác đã đặt câu hỏi: "Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thực sự là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử" [4, tr.56]. C.Mác, Ph.Ăngghen phân biệt giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thế giới và bản chất cách mạng với bộ phận công nhân đã bị tha hóa, đánh mất mình bằng những thuật ngữ đối ngược nhau: giữa một bên là "giai cấp vô sản cách mạng" với một bên là "tầng lớp vô sản lưu manh" mất gốc, những phần tử cặn bã của xã hội, và như vậy cũng đồng nghĩa với việc phân biệt giai cấp công nhân cách mạng với bộ phận công nhân đã khuất phục, trở thành công cụ của giai cấp 8 tư sản để phá hoại phong trào công nhân từ bên trong, mưu toan kìm hãm và khuôn cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trong trật tự của "chủ nghĩa tư bản" vì mục tiêu kinh tế và lợi ích tầm thường do hệ tư tưởng tư sản và tiểu tư sản thao túng mà ở đây các ông đã sử dụng thuật ngữ: "Công nhân quý tộc". Tựu chung lại, tuy có khác nhau trong cách gọi, cách diễn đạt tùy từng hoàn cảnh lịch sử. Nhưng những thuật ngữ không giống nhau nêu trên về khái niệm giai cấp công nhân đều được các nhà kinh điển Mác xít sử dụng như một khái niệm đồng nhất dựa trên hai tiêu chí cơ bản để phân định giai cấp công nhân với các giai tầng xã hội khác là: Vị trí của giai cấp công nhân trong lực lượng sản xuất Giai cấp công nhân là những người (tập đoàn người) lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa, quốc tế hóa cao. Đây cũng là tiêu chí cơ bản phân biệt người công nhân hiện đại với người thợ thủ công thời trung cổ hay người thợ trong công trường thủ công. C.Mác chỉ rõ: "Trong công trường thủ công và trong nghề thủ công, người công nhân sử dụng công cụ của mình, còn trong công xưởng thì người công nhân phải phục tùng máy móc" [7, tr.605]. Vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động, làm thuê cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại - tức giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, nếu lao động của họ tăng thêm tư bản cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác; vì thế, họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường...[5, tr.605]. Điều này đã khiến giai cấp công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản. 9 Phát triển học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen trong thời đại mới, thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản - thời đại chủ nghĩa xã hội hiện thực. Lênin đã bổ sung, phát triển những thuộc tính mới của giai cấp công nhân. Theo Lênin, giai cấp công nhân là giai cấp thống trị về chính trị, lãnh đạo toàn xã hội trong cuộc đấu tranh lật đổ tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội mới, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp. Xu hướng phát triển của giai cấp công nhân là đi tới tự thủ tiêu mình với tư cách là giai cấp... Về phía cá nhân các nhà nghiên cứu, có một số định nghĩa sau: GS.TS Đỗ Nguyên Phương trong tác phẩm: "Những vấn đề chính trị - xã hội của cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta" do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia và Nhà xuất bản Khoa học - kỹ thuật phát hành năm 1993, viết: "Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội hình thành và phát triển cùng với cách mạng công nghiệp, là lực lượng sản xuất cơ bản, tiên tiến trong sản xuất của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội, động lực chính của tiến trình lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội" GS. Phạm Xuân Nam trong cuốn "Đổi mới chính sách xã hội, luận cứ và giải pháp", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997 đưa ra định nghĩa: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội rộng lớn những người lao động làm việc trong các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ công nghiệp có thu nhập chủ yếu bằng tiền lương hoặc tiền công, do trực tiếp vận hành những tư liệu sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại trong các ngành then chốt của nền kinh tế quốc dân, đại diện cho lựu lượng sản xuất tiên tiến... [37, tr.31]. Trên cơ sở cơ sở kế thừa tư tưởng của các nhà kinh điển Mác xít; những điểm cơ bản của các định nghĩa nêu trên kết hợp với thực tiễn phong trào công nhân, chúng tôi xin đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân như sau: Giai cấp công nhân là một tập đoàn người ổn định, hình thành và phát triển cùng với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại, là lực lượng sản xuất cơ bản và tiên tiến của thời đại ngày nay, là lực lượng lãnh đạo và là động lực chủ yếu của quá trình chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi 10 nước và trên phạm vi toàn thế giới. Trong các nước tư bản chủ nghĩa do không có hoặc cơ bản không có những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, họ phải bán sức lao động làm thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư; trong các nước xã hội chủ nghĩa, họ cùng nhân dân lao động làm chủ các tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động sáng tạo vì lợi ích chung toàn xã hội và của bản thân giai cấp mình. 1.1.1.2. Đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam Giai cấp công nhân Việt Nam là một bộ phận của giai cấp công nhân thế giới ra đời ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Do hoàn cảnh, đặc điểm ra đời và phát triển, giai cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành một lực lượng chính trị độc lập, thống nhất trong cả nước, nhanh chóng vươn lên nắm quyền lãnh đạo cách mạng. Điều đó khẳng định: giai cấp công nhân Việt Nam vừa có đầy đủ những đặc điểm của giai cấp công nhân nói chung, đồng thời còn có những nét riêng biệt do hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở Việt Nam quy định. Khi nghiên cứu về giai cấp công nhân Việt Nam các nhà khoa học ở nước ta đã đưa ra khá nhiều quan niệm khác nhau. Thí dụ: GS. Trần Văn Giàu trong cuốn: Giai cấp công nhân Việt Nam, sự hình thành và phát triển của nó từ giai cấp tự mình đến giai cấp cho mình (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1958), mặc dù không đưa ra một định nghĩa cụ thể về giai cấp công nhân Việt Nam song toàn bộ công trình đã thể hiện rất rõ nội hàm khái niệm giai cấp công nhân Việt Nam . Trong cuốn: "Đổi mới chính sách đối với công nhân và thợ thủ công" của Trung tâm nghiên cứu thông tin lý luận, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam đưa ra định nghĩa: Giai cấp công nhân Việt Nam là một tập đoàn xã hội những người lao động ở Việt Nam có thu nhập chủ yếu bằng lao động làm công ăn lương, sống và làm việc gắn với sản xuất, kinh doanh, dịch vụ công nghiệp. Do nắm giữ những cơ sở vật chất then chốt và đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến của xã hội nên giai cấp 11 công nhân tất yếu có vai trò đi tiên phong trong tiến trình phát triển của lịch sử hiện đại [51, tr.113]. Trên cơ sở khái niệm giai cấp công nhân nói chung, căn cứ những đặc trưng riêng của giai cấp công nhân Việt Nam gắn với thực tiễn cách mạng Việt Nam, đồng thời kế thừa các công trình nghiên cứu trước đây về giai cấp công nhân Việt Nam, chúng tôi hiểu về giai cấp công nhân Việt Nam như sau: Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ đầu thế kỷ XX gắn liền với sự xuất hiện các cơ sở kinh tế của tư sản Pháp, là một tập đoàn gồm những người lao động trên lĩnh vực công nghiệp với trình độ kỹ thuật hiện đại và xã hội hóa ngày càng cao, thu nhập chủ yếu của họ là tiền công. Họ là lực lượng tiên phong trong quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đang lãnh đạo quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm xây dựng một nền kinh tế hiện đại, xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; đảm bảo giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. 1.1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam 1.1.2.1. Về khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa Công nghiệp hóa , hiện đại hóa là quá trình phát triển tất yếu của thời đại ngày nay, là con đường đưa mỗi quốc gia thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước khác trên thế giới và khu vực. Không phải đến bây giờ, các quốc gia trên thế giới mới tiến hành công nghiệp hóa mà công nghiệp hóa đã được khởi đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra ở Anh cuối thế kỷ XVIII và sau đó kéo theo một loạt nước khác ở Tây Âu. Nhưng phải đến cuối thế kỷ XIX thuật ngữ "công nghiệp hóa" mới xuất hiện với ý nghĩa là biến một lĩnh vực sản xuất nào đó sang hoạt động theo tính chất của công nghiệp cơ khí. Mãi đến nửa sau thế kỷ XX, khái niệm công nghiệp hóa mới được hiểu như một giai đoạn lịch sử phát triển kinh tế mà nội dung của nó bao hàm cuộc cách mạng công nghiệp. Từ đó đến nay, cùng với hàng loạt các cuộc cách mạng công nghiệp: từ kỹ thuật cơ khí giản đơn với máy 12 hơi nước làm động lực tới cơ khí phức tạp với động cơ đốt trong rồi điện năng và các dạng năng lượng mới làm động lực, tiếp theo đó là tự động hóa, điện tử hóa... Quan niệm về công nghiệp hóa dần được mở rộng trên nhiều khía cạnh và lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Ví dụ: quan niệm của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (cũ) cho rằng: công nghiệp hóa là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Năm 1963 UNIDO (Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc) đã đưa ra định nghĩa: “công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận năng lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghiệp hiện đại để chế tạo ra các phương tiện sản xuất, hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo một nhịp tăng trưởng cao trong toàn nền kinh tế và đảm bảo sự tiến bộ kinh tế và xã hội” [2, tr.6]... Tóm lại: Tuy có rất nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa nhưng chủ yếu là hai quan niệm sau: Một là: Theo nghĩa hẹp, công nghiệp hóa là quá trình phát triển công nghiệp trong một thời kỳ nhất định, trong đó nền sản xuất xã hội được tổ chức theo lối công nghiệp dựa trên cơ sở thay thế lao động thủ công bằng máy móc và máy móc chiếm ưu thế. Hai là: Theo nghĩa rộng, công nghiệp hóa là quá trình công nghiệp liên tục, cải tổ thường xuyên cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hiện đại, ngày càng đa dạng. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn, hậu quả chiến tranh nặng nề lại phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã sớm nhận thức được vị trí vai trò của công nghiệp hóa , hiện đại hóa. Ngay từ Đại hội III Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, cách mạng kỹ thuật giữ vị trí then chốt. Tiếp sau đó Đại hội IV, V, tư tưởng này lại được tiếp tục khẳng định. Tuy nhiên trong thời gian này tư tưởng công nghiệp hóa chủ 13 yếu tập trung phát triển công nghiệp nặng mặc dù có được điều chỉnh qua các kỳ Đại hội IV, V. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) bên cạnh việc tiếp tục khẳng định vị trí nền tảng của công nghiệp trong thời kỳ quá độ, đã có sự chuyển hướng chiến lược về công nghiệp hóa từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang lấy nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm. Từ đó đến nay, việc nhận thức về đường lối công nghiệp hóa được đưa ra từng bước phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước. Công nghiệp hóa có thể hiểu một cách cơ bản: “Là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội theo hướng phát triển mạnh công nghiệp, tạo ra sự vượt trội của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, áp dụng rộng rãi với hiệu quả cao những tiến bộ khoa học, công nghệ mới hiện đại, làm nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển nhanh, vững chắc của toàn bộ nền kinh tế - xã hội” [46, tr.63]. Quan niệm này không những phản ánh được nội dung của quá trình công nghiệp hóa mà nêu bật được mục tiêu công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa chính là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, chứ không riêng chỉ phát triển ở lĩnh vực công nghiệp. Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ đã tiến lên một nấc thang mới, loài người đang bước vào kinh tế tri thức. Vì vậy, công nghiệp hóa đòi hỏi phải gắn với quá trình hiện đại hóa, kể cả những nước có nền kinh tế lạc hậu như nước ta. Không thể tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu "cổ điển" như ở phương Tây thế kỷ XVIII mà công nghiệp hóa phải gắn với việc tận dụng những thành quả khoa học - kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến của thế giới. Công nghệ truyền thống gắn với ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thời đại, là giải pháp quyết định đưa nước ta thoát khỏi đói nghèo lạc hậu và nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế - công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa và hiện đại hóa là hai khái niệm khác nhau nhưng lại đan xen, tích hợp, lồng ghép và bổ sung cho nhau. Sự gắn kết giữa công nghiệp hóa , hiện đại hóa đã và đang trở thành xu thế 14 tất yếu của các nước đang phát triển. Nó trở thành khái niệm "kép" trong nhận thức về mục tiêu phát triển kinh tế của nhiều quốc gia. Trên tinh thần đó, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã xác định nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa ở nước ta là: Công nghiệp hóa , hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [13, tr.65]. 1.1.2.2. Sự tác động qua lại giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển của giai cấp công nhân Khi luận chứng về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, chủ nghĩa Mác Lênin đã khẳng định rằng: Vai trò, vị trí của giai cấp công nhân được xác định từ vai trò của đại công nghiệp, của lực lượng sản xuất mà giai cấp công nhân là người đại diện. Đại công nghiệp đã sinh ra giai cấp công nhân, đồng thời cũng là cơ sở vật chất thông qua đó, giai cấp công nhân tác động vào tiến trình phát triển xã hội như một lực lượng chủ đạo. Như vậy, có thể thấy rằng công nghiệp hóa , hiện đại hóa và sự phát triển của giai cấp công nhân có mối quan hệ biện chứng. công nghiệp hóa , hiện đại hóa là điều kiện để giai cấp công nhân phát triển về số lượng và chất lượng, đáp ứng được yêu cầu đặt ra của quá trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa. Ngược lại, sự phát triển về mặt số lượng, chất lượng của giai cấp công nhân cũng sẽ tác động trở lại, là nguyên nhân, là nhân tố cơ bản quyết định thành công sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước: Giai cấp công nhân vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của quá trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện để giai cấp công nhân phát triển và lớn mạnh về mọi mặt. 15 Công nghiệp hóa , hiện đại hóa là con đường phát triển tất yếu của xã hội loài người, là con đường duy nhất đưa nước ta thoát khỏi nguy cơ tụt hậu. Tuy nhiên để có thể tiến hành công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước phải có được một lực lượng lao động phát triển hiện đại. Sự thiếu hụt trầm trọng đội ngũ công nhân lành nghề có thể áp dụng được khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản xuất đang là một lực cản đối với sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VIII, khi quyết định đẩy mạnh công nghiệp hóa , hiện đại hóa, cũng chỉ ra rằng: Một trong những tiền đề quan trọng bậc nhất để đẩy mạnh công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước là phải nâng cao trình độ và phát triển nguồn nhân lực trong đó phát triển và nâng cao nguồn nhân lực từ giai cấp công nhân. Như vậy, có thể khẳng định rằng: Sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa, sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới và sự hình thành, phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất đã kéo theo và đặt ra những yêu cầu mới về số lượng, cơ cấu, chất lượng của lực lượng lao động xã hội đặc biệt là công nhân.. Thứ nhất, công nghiệp hóa , hiện đại hóa là điều kiện để giai cấp công nhân phát triển về số lượng. Quá trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước mà trọng tâm trong những năm đầu thế kỷ XXI là công nghiệp hóa , hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; cơ cấu nền kinh tế sẽ có chuyển dịch sâu sắc. Xu hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ là điều kiện phát triển mạnh mẽ số lượng giai cấp công nhân. Đường lối đổi mới của Đảng đã tác động mạnh mẽ đến sự biến động và đặt ra yêu cầu phát triển đối với giai cấp công nhân. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tính đến đầu năm 2004, đội ngũ công nhân làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế là 7,396 triệu (56% nam, 44% nữ) chiếm 9,14% dân số, 17,49% lực lượng lao động xã hội. Thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước, đặc biệt sau khi Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 được ban hành, nước ta đã tiếp nhận được rất nhiều dự án và vốn đầu tư nước ngoài. Tính từ năm 1988 đến 16 đầu năm 2004 theo số liệu của Tổng cục thống kê dựa trên kết quả điều tra doanh nghiệp, cả nước đã có 4892 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép còn hiệu lực từ 66 quốc gia và vùng lãnh thổ với vốn đăng ký lên đến 44,4 tỷ USD. Chính vì vậy mà thu hút hơn 859.000 công nhân với 688.000 công nhân doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, 171.000 công nhân thuộc công ty liên doanh làm việc trong hơn 2300 doanh nghiệp. Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện để nâng cao chất lượng giai cấp công nhân Chất lượng giai cấp công nhân là tổng hợp các yếu tố, thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân bao gồm trình độ học vấn, trình độ tay nghề gắn với máy móc hiện đại, kỹ thuật, công nghệ cao, ý thức chính trị, tính tổ chức kỷ luật cao, tính tiên phong, tác phong công nghiệp... trong đó trình độ học vấn, tay nghề, trình độ khoa học kỹ thuật và ý thức giác ngộ chính trị của giai cấp công nhân là những yếu tố cơ bản nhất. Chất lượng của giai cấp công nhân ở mỗi quốc gia dân tộc chủ yếu được đánh giá thông qua các yếu tố cơ bản này. Sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước đặt ra yêu cầu phải có đội ngũ công nhân có trình độ học vấn, tay nghề cao, có tác phong công nghiệp để tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới. Vì cốt lõi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là "cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao động xã hội cao" [13, tr.43]. Quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức, kinh tế hiện đại đã và sẽ tạo điều kiện thuận lợi, đồng thời cũng đặt cho giai cấp công nhân một thách thức: nếu không vươn lên trong học tập và phấn đấu để tự nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tác phong công nghiệp thì sẽ bị chính nền kinh tế đó đào thải - xu hướng trí thức hóa công nhân ngày càng tăng lên rõ rệt. Tri thức là chìa khóa để tiếp nhận khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Thực tế cho thấy, trình độ học vấn, trình độ tay nghề của công nhân nước ta không ngừng tăng nhanh so với trước thời kỳ đổi mới, song so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì còn là quá thấp. (Hiện nay chỉ có 17 62,22% công nhân có trình độ trung học phổ thông. 27,24% trình độ trung học cơ sở, 4,12 trình độ tiểu học, 0,23% không biết chữ, 11,10% tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, 1,56 trình độ đại học và trên đại học) [37, tr.132]. Số công nhân trẻ dưới 30 tuổi - thường có trình độ cao hơn. Trình độ tay nghề trung bình của công nhân mới ở thợ 3/7; bậc thợ 7/7 mới có 2,38%. Trình độ công nhân cũng không đồng đều, đồng bằng cao hơn miền núi, vùng sâu, vùng xa. Công nhân ngoài quốc doanh có trình độ cao hơn công nhân lao động trong khu vực doanh nghiệp nhà nước. Đội ngũ có trình độ cao đẳng, đại học chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực hành chính sự nghiệp. Vai trò tích cực của giai cấp công nhân Việt Nam đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Giai cấp công nhân Việt Nam thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng bao gồm những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp, là đội tiên phong, là bộ phận tham mưu chiến đấu, là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân là cơ sở chính trị, xã hội của Đảng, lực lượng nòng cốt trong khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, trong khối đại đoàn kết dân tộc. Việc giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước không phải là sự áp đặt vô căn cứ mà vai trò và vị trí đó do chính lịch sử khách quan của cách mạng Việt Nam quy định. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng: trước khi giai cấp công nhân và đảng tiền phong của nó bước lên vũ đài chính trị và nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam, phong trào cách mạng nước ta đứng trước khủng hoảng lớn về đường lối cứu nước. Các giai tầng khác trong xã hội Việt Nam không đủ sức lãnh đạo cách mạng, nhân dân ta chịu sự đàn áp dã man của đế quốc thực dân và tay sai bán nước, chỉ đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm ra con đường cứu nước là chủ nghĩa Mác - Lênin với đường lối cách mạng đúng đắn thì cách 18 mạng Việt Nam mới từng bước đánh đổ thực dân xâm lược, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và cuộc sống tự do. - Giai cấp công nhân là lực lượng lao động cơ bản đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giai cấp công nhân là "con đẻ của nền đại công nghiệp", là một trong những yếu tố cơ bản nhất của lực lượng sản xuất. Vì vậy, sự phát triển và hoàn thiện về mọi mặt của giai cấp công nhân sẽ tác động trở lại tạo điều kiện thúc đẩy nền công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng chủ yếu đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa. Bởi lẽ, họ là lực lượng có mặt trong mọi ngành, mọi thành phần kinh tế, mọi cơ sở sản xuất kinh doanh, trong những trung tâm kinh tế quan trọng, trong những lĩnh vực kinh tế then chốt của đất nước. So với dân số hiện có, đội ngũ công nhân lao động của nước ta vẫn còn rất khiêm tốn, song họ vẫn là lực lượng sản xuất tiên tiến nhất của xã hội, đang nắm giữ những cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Kết quả lao động của họ ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế và đến đời sống hàng ngày của toàn xã hội. Với 40% tổng sản phẩm xã hội, bảo đảm hơn 60% ngân sách, gần 70% GDP, họ vẫn đã và đang là lực lượng đi đầu trong công cuộc kiến tạo đất nước. Xuất phát từ vị trí trong lực lượng sản xuất, từ vai trò trong tiến trình cách mạng Đảng ta đã chỉ rõ: "Giai cấp công nhân Việt Nam thông qua Đảng tiên phong của mình đã lãnh đạo cách mạng nước ta trong hơn nửa thế kỷ qua, ngày nay đang đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [13, tr.67]. Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII Đảng ta đã định hướng: Đối với giai cấp công nhân coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện "trí thức hóa công nhân", nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là lực 19 lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới [14, tr.124-125] Đây là một trong những nội dung quan trọng, một đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ đổi mới. - Giai cấp công nhân là nhân tố đảm bảo cho việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội là chỗ dựa vững chắc của Đảng và Nhà nước. Giai cấp công nhân không những là lực lượng lãnh đạo, đi đầu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà nó còn là cơ sở chính trị - xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, là chỗ dựa vững chắc của Đảng và Nhà nước, là hạt nhân của khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức và khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố cơ bản giữ vững ổn định chính trị xã hội. Đa số công nhân Việt Nam vững vàng về chính trị tư tưởng, tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, mục tiêu chủ nghĩa xã hội, kiên quyết ủng hộ công cuộc đổi mới, kiên cường phấn đấu và đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong suốt tiến trình cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam thực sự là lực lượng tiên phong bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập và cũng là lực lượng đi tiên phong trong mặt trận đấu tranh chống tiêu cực và các tệ nạn xã hội có vai trò to lớn trong giữ vững ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội. 1.2. Tính đặc thù của đội ngũ công nhân Phú Thọ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1.2.1. Đặc điểm đội ngũ công nhân Phú Thọ Là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam, đội ngũ công nhân Phú Thọ là những người trực tiếp lao động sản xuất hoặc tham gia các hoạt động dịch vụ có tính chất công nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh, họ có mặt trong mọi thành phần kinh tế và có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Cũng như giai cấp công nhân Việt Nam, đội ngũ công nhân Phú Thọ có những đặc điểm mà giai cấp công nhân Việt Nam có được. Tuy nhiên, do những điều kiện lịch sử, tự nhiên, kinh tế, xã hội quy định mà đội ngũ công nhân Phú Thọ có những điểm riêng đặc thù đó là: 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan