Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam...

Tài liệu Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam

.PDF
124
415
106

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ THỊ HƢƠNG THƠM XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRỊNH ĐỨC THẢO HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Ngô Thị Hƣơng Thơm MỤC LỤC Trang 1.1. 1.1.1. 1.1.2. 1.1.3. 1.2. 1.2.1. 1.2.2. 1.2.3. 1.3. 1.3.1. 1.3.2. 2.1. 2.1.1. 2.1.2. 2.2. 2.2.1. 2.2.2. 2.3. 2.3.1. 2.3.2. Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt MỞ ĐẦU Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM Khái quát chung về Nhà nước pháp quyền Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền qua các thời kỳ Khái niệm Nhà nước pháp quyền Đặc điểm chung của Nhà nước pháp quyền Khái niệm, đặc trưng và nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam Khái niệm về Nhà nước pháp quyền Việt Nam Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền Việt Nam Nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam Mô hình Nhà nước pháp quyền của một số nước trên thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam Mô hình Nhà nước pháp quyền của một số nước trên thế giới Giá trị tham khảo cho Việt Nam Chƣơng 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM TỪ KHI ĐỔI MỚI ĐẾN NAY (TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY) Thực trạng xây dựng pháp luật Thành tựu đạt được Một số hạn chế Thực trạng xây dựng bộ máy nhà nước Những thành tựu trong tổ chức bộ máy nhà nước đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân Một số hạn chế trong tổ chức bộ máy nhà nước thời kỳ đổi mới Thực trạng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa Những thành tựu về phát huy dân chủ Một số hạn chế 1 4 4 4 9 11 14 14 16 25 26 26 29 31 31 31 36 46 46 55 59 59 62 2.4. 2.4.1. 2.4.2. 2.5. 3.1. 3.2. 3.2.1. 3.2.2. 3.2.3. 3.2.4. 3.2.5. 3.2.6. 3.2.7. 3.2.8. Thực trạng xây dựng mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân Những thành tựu đạt được Một số hạn chế cần khắc phục Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY Quan điểm Những giải pháp để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay Đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội Đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước Đẩy mạnh cải cách tư pháp Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật Thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội Đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và những hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 63 63 65 66 70 70 71 71 82 86 93 99 103 108 111 114 116 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT HĐND : Hội đồng nhân dân QPPL : Quy phạm pháp luật UBND : Ủy ban nhân dân VBQPPL : Văn bản quy phạm pháp luật XHCN : Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Học thuyết nhà nước pháp quyền từ lý luận vận dụng vào thực tiễn như thế nào đến nay vẫn còn là một vấn đề cần bàn luận. Việc vận dụng lý luận xây dựng nhà nước pháp quyền trên các quốc gia trên thế giới không theo một khuôn mẫu xác định, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chế độ chính trị, truyền thống lịch sử và bản sắc văn hoá mà mỗi quốc gia xây dựng một mô hình nhà nước pháp quyền riêng. Hơn hai thế kỷ qua, các quốc gia phát triển đã và đang hoàn thiện việc xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, giảm thiểu biên chế trong bộ máy nhà nước, tiết kiệm ngân sách, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, thực hiện nguyên tắc sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế cũng như giao lưu văn hoá, chuyển giao khoa học - công nghệ, dân chủ hóa toàn diện đời sống xã hội hiện nay, đòi hỏi các quốc gia phải có những quy định pháp lý chung, những chế tài pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ quốc tế. Để hội nhập quốc tế Việt Nam phải cấp thiết xây dựng bộ máy hoàn thiện, trong sạch, vững mạnh, hoạt động linh hoạt có tính hiệu quả cao theo hướng lấy pháp luật làm phương tiện quản lý nhà nước và điều chỉnh các quan hệ xã hội. Xây dựng nhà nước pháp quyền không chỉ là một cuộc cách mạng, nó là một cuộc đại cách mạng chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Cuộc đại cách mạng ấy lại được tiến hành trong bối cảnh đất nước đang trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, còn muôn vàn khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…Vì vậy, đây là quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp phải có sự chuẩn bị chu đáo cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Điều đó đòi hỏi các nhà nghiên cứu lý luận phải khảo sát đời sống thực tế, phân tích phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội. Qua phân tích những phương diện đó, phải vạch ra lộ trình, tìm bước đi thích hợp, xây dựng 1 những giải pháp, từng bước hoàn thiện lý luận, đẩy nhanh tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Tuy nhiên cho đến nay, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam là một vấn đề có nội dung rất lớn, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. Để góp phần vào quá trình nghiên cứu đó, tôi chọn đề tài Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam làm đề tài luận văn của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, luận văn đề xuất các quan điểm và giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. - Để thực hiện mục đích trên luận văn có những nhiệm vụ sau: + Hệ thống hóa và phân tích cơ sở lý luận về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền Việt Nam. + Phân tích, đánh giá thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam từ năm 1986 đến nay. + Đề xuất quan điểm và giải pháp tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận văn nghiên cứu lý luận, thực trạng về nhà nước pháp quyền, nhà nước pháp quyền Việt Nam. - Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu về tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật, về vấn đề dân chủ và mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. - Thời gian nghiên cứu từ năm 1986 đến nay (từ thời kỳ đổi mới). 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền và 2 Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Luận văn cũng kế thừa các thành tựu nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về nhà nước và pháp luật để làm tài liệu tham khảo. - Để thực hiện đề tài, phương pháp nghiên cứu cơ bản mà luận văn sử dụng là phương pháp qui nạp trên cơ sở thống kê, tổng hợp, nghiên cứu và phân tích các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta để làm rõ những quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền. - Ngoài ra, luận văn còn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tuân thủ các nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, thống nhất giữa lôgic và lịch sử, nguyên tắc xem xét khách quan, xem xét toàn diện, lịch sử - cụ thể, đối chiếu, so sánh, v.v.. 5. Đóng góp mới của luận văn - Đưa ra được khái niệm và phân tích rõ hơn những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền Việt Nam. - Luận văn chỉ ra được thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền từ năm 1986 đến nay. - Đề xuất được một số giải pháp có tính khả thi nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu và giảng dạy các vấn đề về nhà nước, nhà nước pháp quyền, làm tài liệu phục vụ các cán bộ, công chức quản lý nhà nước và pháp luật. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam Chương 2: Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam từ khi đổi mới đến nay (từ năm 1986 đến nay) Chương 3: Quan điểm và giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. 3 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM 1.1. Khái quát chung về Nhà nƣớc pháp quyền 1.1.1. Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền qua các thời kỳ 1.1.1.1. Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thời kỳ cổ đại ở Châu Âu Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền đã hình thành sớm trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý, gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ, loại trừ chuyên quyền, độc tài, vô chính phủ, vô pháp luật, đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng thời cổ đại như Xocrat, Đemocrit, Platon, Arixtot, Xixeron… trong đó nổi bật nhất là quan điểm của Đemocrit, Arixtot và Xixeron. Đemocrit (460 - 370 tr. CN): Được coi là người đầu tiên lý giải một cách khoa học về sự xuất hiện và sự hình thành con người, xã hội loài người. Ông cho rằng Nhà nước và pháp luật là sản phẩm của cuộc đấu tranh lâu dài của con người nhằm liên kết với nhau thành cộng đồng. Nhà nước là sự thể hiện quyền lực chung của công dân. Tự do của công dân nằm trong sự tuân thủ pháp luật. Arixtot (384 - 322 tr. CN): Ông được C.Mác đánh giá là nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại cho rằng pháp luật cần thống trị trên tất cả. Theo ông thì yếu tố cấu thành cơ bản của phẩm chất chính trị trong pháp luật là sự phù hợp của tính đúng đắn về chính trị của nó với tính pháp quyền; không thể có pháp luật nếu như việc cầm quyền không tuân theo pháp luật, chà đạp lên pháp luật, mưu toan thống trị bằng bạo lực. Những quan điểm nêu trên được Arixtot trình bày trong tác phẩm “Đạo đức học” và “Thuật hùng biện”. Xixeron (106 - 43 tr. CN): Ông là nhà hoạt động nhà nước, nhà luật học và nhà hùng biện của thời kỳ La Mã cổ đại, tác giả của những tác phẩm nổi 4 tiếng như “Về nhà nước”, “Về những đạo luật” và “Về các nghĩa vụ”… Ông đã có những tư tưởng tiến bộ như: nhà nước là công việc chung của nhân dân; phân biệt ba hình thức nhà nước: dân chủ, quý tộc và quân chủ; người điều hành công việc nhà nước phải sáng suốt, công minh, có khả năng hùng biện và hiểu biết những nguyên lý cơ bản của pháp luật… Đặc biệt, Xixeron đưa ra quan điểm nổi tiếng: tất cả mọi người đều ở dưới hiệu lực của pháp luật và nhân dân phải coi pháp luật như chốn nương thân của mình. Như vậy, theo các nhà triết học thời kỳ này, pháp luật không chỉ là công cụ cai trị của nhà nước mà còn là phương thức điều chỉnh quan trọng nhất đối với các quan hệ xã hội, bản thân nhà nước cũng phải phục tùng pháp luật. 1.1.1.2. Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thời kỳ cách mạng tư sản Những quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền nêu trên được tiếp tục phát triển, nhất là trong thời kỳ các cuộc cách mạng tư sản đánh đổ chế độ phong kiến chuyên chế, độc tài ở châu Âu thế kỷ XVII, XVIII. Trong thời kỳ này tư tưởng về Nhà nước pháp quyền được phát triển khá phong phú, toàn diện, hình thành hệ thống quan điểm trong các học thuyết chính trị - pháp lý. Những người có công xây dựng tư tưởng ấy là các học giả tư sản tự do ở châu Âu như J.Locke, S.L.Montesquieu, I.Kant, Heghel…trong đó đáng chú ý là học thuyết của S.L.Montesquieu và J.J.Rút - xô Nhà tư tưởng vĩ đại nước Pháp S.L.Montesquieu (1698 - 1755) đã xây dựng thuyết phân quyền trong tổ chức nhà nước, ông là tác giả của cuốn sách nổi tiếng Bàn về tinh thần pháp luật (1748). Trong tác phẩm này từ việc phân tích chế độ chuyên quyền độc đoán, chuyên quyền, tùy tiện xâm hại tự do dân chủ, Montesquieu đề cao cơ quan đại biểu của nhân dân, lập luận về sự cần thiết phải phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ông cho rằng ba thứ quyền này phải được tổ chức 5 một cách độc lập và kiềm chế lẫn nhau để chống tư tưởng độc đoán, lạm quyền. Để tránh lạm quyền, ba quyền đó cần nằm trong tay ba cơ quan khác nhau, kiềm chế lẫn nhau. Đây cũng chính là điều kiện chủ yếu để đảm bảo tự do chính trị trong nhà nước. Tư tưởng về mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân thật sự được nâng lên một đỉnh cao mới với tư tưởng về “nguồn gốc quyền lực nhà nước” và “chủ quyền nhân dân” của J.J Rút - xô. Ông là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà biện chứng học lỗi lạc của triết học khai sáng thế kỷ XVIII. Quan điểm về nhà nước và pháp luật của ông được nêu chủ yếu trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”. Trong tác phẩm này Rút - xô đề cập đến sự cần thiết của việc thiết lập công ước xã hội, các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp. Ông đề cao chủ quyền của nhân dân, quyền lực nhà nước phải có sự phân chia rành mạch giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp; pháp luật phải kết tinh ý chí và lợi ích của nhân dân, phải đảm bảo tính độc lập của Tòa án. Triết lý giải phóng quyền, tư tưởng về giá trị tự nhiên bằng nhau của các cá nhân và nguyên tắc dành cho cá nhân “Tất cả những gì pháp luật không cấm thì được phép tự do ý chí” đã dánh dấu một bước ngoặt đối với quan niệm về địa vị của cá nhân. Ngoài các nhà lý luận nói trên, trong thời kỳ này nhiều nhà tư tưởng, triết học, luật học khác đã góp phần phát triển các tư tưởng về Nhà nước pháp quyền như Tomat Jephecxon tác giả của bản Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776, Tomat Pên, Jon Adam, Jem Medison… Những quan điểm, tư tưởng ấy được bổ sung và ngày càng hoàn thiện bằng nhiều quan điểm lý luận mới, trở thành hệ thống các tri thức khoa học dưới dạng các quan điểm, tư tưởng, lý luận rất phong phú và phức tạp về mối quan hệ giữa nhà nước - pháp luật - con người trong xã hội có giai cấp. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng về nhà nước pháp quyền vẫn là thượng tôn vị trí, vai trò của pháp luật trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội. 6 1.1.1.3. Tư tưởng của C.Mác, Ph.Ănghen, V.I. Lênin và Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật kiểu mới  Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ănghen Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của C.Mác và Ănghen tập trung vào các yếu tố chủ yếu liên quan đến Nhà nước pháp quyền, đó là nhà nước, pháp luật gắn với chủ quyền và quyền tự do dân chủ của nhân dân. Về pháp luật, trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ănghen đã khẳng định pháp luật luôn luôn có tính giai cấp, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị về chính trị và kinh tế. Mặt khác, pháp luật phải phản ánh thực tại khác quan và lợi ích chung của xã hội, quan hệ xã hội. Ngay từ những năm 1842 - 1843, trong những cuộc tranh luận về tự do, C.Mác đã khẳng định vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân. Theo nguyên tắc mọi người bình đẳng trước pháp luật thì trong Nhà nước pháp quyền, pháp luật trở thành tối thượng. Mọi thành viên trong xã hội, kể cả nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước đều phải tuân thủ pháp luật, xử sự đúng yêu cầu của pháp luật, không có ngoại lệ. Về nhà nước, trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác chủ trương xây dựng một chế độ dân chủ triệt để trong đó “tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người”, nhà nước kiểu mới phải “giải phóng con người, bảo đảm sự phát triển tự do tối đa và phát triển toàn diện con người”. Muốn vậy phải “biến nhà nước từ cơ quan đứng trên xã hội thành cơ quan hoàn toàn phục tùng xã hội”. Dân chủ trong nhà nước kiểu mới là dân chủ “do nhân dân tự quy định”, là bước chuyển từ xã hội thần dân sang xã hội công dân. Nhà nước pháp quyền phải bảo đảm chủ quyền của nhân dân, nhà nước phải là đại biểu cho chủ quyền nhân dân, thực hiện quyền lực của nhân dân. Yêu cầu nâng cao đạo đức, phẩm chất, năng lực và trách nhiệm của cán bộ, công chức trong Nhà nước pháp quyền. 7  Tư tưởng của V.I.Lênin Những tư tưởng về Nhà nước pháp quyền nêu trên của C.Mác và Ph.Ănghen được V.I.Lênin tiếp thu và phát triển trong quá trình xây dựng nhà nước Xô Viết. Ông chỉ rõ “Mục đích của chính quyền Xô viết là thu hút những người lao động tham gia vào quản lý nhà nước” và “việc thu hút được mọi người lao động tham gia vào quản lý là một trong những ưu thế quyết định của nền dân chủ XHCN” V.I.Lênin đã khái quát nhiều quan điểm về Nhà nước kiểu mới, đó là “nhà nước không còn nguyên nghĩa”, “nhà nước nửa nhà nước”, “nhà nước quá độ” để rồi chuyển dần tới một chế độ tự quản của nhân dân. Muốn vậy, trước mắt phải thực hiện chế độ dân chủ mà nội dung cơ bản là quyền bầu cử, quyền tham gia quản lý nhà nước, quyền bãi miễn, quyền thẩm tra giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và cán bộ công chức nhà nước của nhân dân. Về pháp luật, V.I.Lênin khẳng định vai trò của pháp luật và pháp chế trong quản lý xã hội mới, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật nghiêm chỉnh, thống nhất trên phạm vi toàn quốc, coi đó là một trong những điều kiện cơ bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.  Tư tưởng Hồ Chí Minh Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền thể hiện trình độ kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin với việc kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kho tàng tri thức, kinh nghiệm của nhân loại, vận dụng sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Có thể khái quát trên những nội dung cơ bản sau đây: - Giai cấp vô sản phải lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân. - Nhà nước XHCN là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, bảo đảm nền dân chủ thực sự. - Phải xây dựng Hiến pháp dân chủ để bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân. 8 - Nhà nước XHCN là nhà nước hợp hiến, hợp pháp, thực hiện quản lý xã hội theo pháp luật và kết hợp chặt chẽ với giáo dục đạo đức. - Pháp luật trong nhà nước XNCN là pháp luật dân chủ, thể hiện được ý chí và lợi ích của nhân dân. - Nhà nước XHCN là nhà nước có trách nhiệm và chịu trách nhiệm trước nhân dân, công dân phải làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội. - Nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân là nhà nước trong sạch; ngăn chặn, loại trừ được quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước. Cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước là những “công bộc của dân”. - Nhà nước XHCN phải có biện pháp kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước [26, tr.57]. Có thể nói, tư tưởng về nhà nước pháp quyền được hình thành trong cuộc cách mạng giải phóng nhân loại khỏi chế độ phong kiến chuyên chế, nhưng những tư tưởng ban đầu của nó đã bắt nguồn từ thời cổ đại. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền ra đời gắn liền với sự khẳng định chủ quyền của nhân dân, nhân dân là gốc của quyền lực, gắn liền với sự tự do của nhân dân được bảo đảm, với sự tuân thủ pháp luật của nhà nước, sự phụ thuộc của nhà nước vào xã hội. Xu thế chung của các quốc gia trên thế giới là hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền và do đó, tư tưởng về nhà nước pháp quyền lại tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện. 1.1.2. Khái niệm Nhà nước pháp quyền Thuật ngữ “nhà nước pháp quyền”, về cơ bản được hình thành vào thời Khai sáng. Hai tác phẩm đặt nền móng tư tưởng nhà nước pháp quyền là “Tinh thần pháp luật” của Montesquiue và “Khế ước xã hội” của Rousseau, trong đó các tác giả đã đề cao quyền công dân và vai trò pháp luật, coi pháp luật như phương tiện quản lý xã hội. Thuật ngữ nhà nước pháp quyền được ba 9 nhà tư tưởng là Carl Theodor Welcker (1790-1869), Johann Christopher Freiher (1772-1824) và Robert von Mohl (1799-1875) chính thức vận dụng vào thực tế nước Đức đầu thế kỷ XIX với nghĩa Nhà nước coi trọng tính tối cao của pháp luật, không ai có quyền đứng trên, đứng ngoài vòng pháp luật. Hiện nay, trong lý luận còn có các quan điểm khác nhau về khái niệm và các yếu tố cơ bản của nhà nước pháp quyền (tính tối cao của pháp luật, nghĩa vụ tuân thủ pháp luật của nhà nước, nguyên tắc phân công quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp; dân chủ, xã hội công dân; quyền tự do cơ bản của công dân; chủ quyền nhân dân…). Có quan điểm cho rằng, nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó mọi chủ thể (không ngoại trừ nhà nước) đều tuân thủ nghiêm chỉnh, phục tùng pháp luật - một pháp luật có tính pháp lý cao, phù hợp với lí trí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao nhất của xã hội, của con người. Quan điểm khác cho rằng: Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật với hình thức pháp lý của tổ chức quyền lực chính trị; đó là hai yếu tố không thể thiếu khi nói đến nhà nước pháp quyền. Quan điểm khác nữa lại định nghĩa về nhà nước pháp quyền dựa trên các đặc trưng của nó, theo đó, nhà nước pháp quyền là nhà nước dựa trên các nguyên tắc như tính tối cao của luật; chủ quyền của nhân dân; phân công quyền lực; tính vững chắc của các quyền tự do của con người… Tuy có nhấn mạnh về các khía cạnh khác nhau trong nội dung nhà nước pháp quyền, nhưng quan điểm chung đều cho rằng, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mới. Trong lịch sử loài người chỉ có 4 kiểu nhà nước là nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước XHCN. Nhà nước pháp quyền là hình thức phân công và tổ chức quyền lực nhà nước, nó có những đặc trưng riêng: đó là nhà nước mà hiến pháp và các đạo luật phải giữ vị trí tối cao; quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân công quyền lực; con người là giá trị cao quý và mục tiêu cao nhất; bảo đảm chủ quyền của nhân dân. Như vậy, Nhà nước pháp quyền là vị 10 thế pháp lí hay một hệ thống thể chế, nơi mỗi người đều phải phục tùng và tôn trọng luật pháp, từ cá nhân đơn lẻ cho tới cơ quan công quyền. Nhà nước pháp quyền liên hệ chặt chẽ với sự tôn trọng trật tự thứ bậc của các quy phạm, tôn trọng sự phân chia quyền lực và tôn trọng các quyền căn bản. Nhà nước pháp quyền là nhà nước nơi những người được ủy giao trọng trách thông qua phiếu bầu phải có trách nhiệm với những luật lệ mà họ đặt ra. 1.1.3. Đặc điểm chung của Nhà nước pháp quyền Nhìn chung, lý luận về nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan điểm tư tưởng rất phức tạp, phong phú và có các cách tiếp cận khác nhau. Tuy vậy, nghiên cứu tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử có thể khái quát những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền như sau: Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo tính tối cao và vị trí tối thượng của Hiến pháp và pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản. Đây là một trong những đặc trưng quan trọng của nhà nước pháp quyền. Tính tối cao của pháp luật được thể hiện trên hai phương diện: một là, đảm bảo sự thống trị của pháp luật trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; hai là, tính bắt buộc của pháp luật đối với bản thân nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân. Pháp luật là tiêu chuẩn, là căn cứ cho mọi hoạt động của nhà nước và xã hội. Muốn vậy, hệ thống pháp luật phải hoàn thiện, có cơ chế hữu hiệu để đảm bảo vai trò tối thượng của các đạo luật. Tất cả các đạo luật phải phù hợp với Hiến pháp và các văn bản cao nhất của cơ quan lập pháp. Những văn bản dưới luật phải phù hợp với luật, quá trình áp dụng pháp luật, các hoạt động cá nhân đều phải tuân thủ theo luật và các văn bản dưới luật. Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó các quyền tự do, dân chủ của công dân được nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Mọi hành vi vi phạm pháp đều phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật. Mục tiêu cao nhất của nhà nước pháp quyền là đảm bảo quyền tự do, dân chủ của con 11 người. Nhà nước pháp quyền không chỉ công nhận và tuyên bố các quyền tự do của công dân mà còn phải bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi chúng bị xâm hại. Tự do của một người là được làm những gì pháp luật không cấm trong khuôn khổ không xâm phạm đến tự do của người khác. Pháp luật chỉ cấm những gì có hại cho xã hội. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền là phương tiện ghi nhận quyền dân chủ, tự do và lợi ích chính đáng của con người, đồng thời cũng qui định cả những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và trừng trị những hành vi xâm hại đến các quyền và lợi ích đó. Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm chịu trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của mình, còn công dân phải thực hiện các nghĩa vụ với nhà nước. Nhà nước coi quyền của công dân là nghĩa vụ của mình và công dân cũng xem quyền của nhà nước là nghĩa vụ của mình. Khi vi phạm pháp luật thì cả hai bên đều phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau, không có ngoại lệ. Để đảm bảo yêu cầu đó trong nhà nước pháp quyền phải có hình thức tổ chức quyền lực nhà nước thích hợp và có cơ chế giám sát sự tuân thủ pháp luật, xử lý các vi phạm pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện. Theo đó, ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân định rõ ràng, rành mạch cho ba hệ thống cơ quan tương ứng trong mối quan hệ cân bằng, đối trọng, chế ước lẫn nhau, tạo thành cơ chế đồng bộ bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân. Hành pháp mạnh, đủ năng lực xây dựng chính sách, thể chế hóa chính sách thông qua cơ chế làm luật, năng lực tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật. Tư pháp phải độc lập và bảo đảm công lý cho mọi cá nhân trong xã hội. Nguyên tắc này cũng đặt ra yêu cầu mọi thiết chế quyền lực nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, không ai có thể lạm dụng quyền lực, và vì lẽ đó, cần phải sắp xếp quyền lực sao cho không có sự lạm quyền. Cơ chế bảo hiến là một bộ phận không thể thiếu trong nhà nước pháp quyền. Cơ chế bảo hiến ngày nay đã trở thành một phần quan trọng trong tổ 12 chức của đại đa số các nhà nước đương đại, do tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã được thừa nhận rộng rãi với đặc trưng cơ bản nhất là tính tối cao của của Hiến pháp và pháp luật. Trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia, Hiến pháp là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất, là đạo luật cơ bản và quan trọng nhất. Với ý nghĩa quan trọng và giá trị pháp lý của Hiến pháp như trên, việc hình thành cơ chế bảo vệ và bảm đảm thực thi Hiến pháp là không thể thiếu, đặc biệt là trong nhà nước pháp quyền, nơi Hiến pháp và pháp luật giữ vị trí thượng tôn. Để đảm bảo sự tuân thủ pháp luật, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật phải bảo đảm sự độc lập của Tòa án và tính chất dân chủ, minh bạch của pháp luật. Có thể nói, những đúc kết cơ bản trên về nhà nước pháp quyền của các triết gia, các nhà lý luận, các nhà tư tưởng vĩ đại cho thấy, nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước trong một “xã hội công dân” thay thế “xã hội thần dân”. Giá trị của lý luận về nhà nước pháp quyền trong lịch sử được thể hiện ở chỗ: coi nhà nước là tổ chức công quyền chịu sự ràng buộc của pháp luật và thống nhất quản lý xã hội bằng pháp luật, chống lại sự chuyên quyền, độc đoán và sự tùy tiện trong bộ máy nhà nước và nhân viên của nó; coi công dân là chủ thể của “xã hội công dân”, công dân là đối tượng phục vụ của nhà nước, nhà nước có trách nhiệm với công dân và bảo đảm tự do của công dân trong khuôn khổ pháp luật, ngăn ngừa sự xâm hại tự do của người khác và lợi ích của xã hội. Các đặc điểm, tiêu chí của nhà nước pháp quyền có những mức độ thể hiện khác nhau ở các quốc gia tùy thuộc và điều kiện cụ thể của mỗi đất nước. Có thể nói về nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước, một trong những tiêu chí quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền tư sản thì các nước cũng có cách áp dụng khác nhau, không theo một khuôn mẫu chung. Có những nhà nước tư sản áp dụng việc phân quyền một cách mềm dẻo (ở các nước theo chính thể đại nghị, giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp có sự phối hợp với nhau 13 và hành pháp phải chịu trách nhiệm trước lập pháp); có những nhà nước áp dụng phân quyền một cách cứng rắn (ở các nhà nước theo chính thể cộng hòa tổng thống có sự độc lập của các cơ quan quyền lực, hành pháp không chịu trách nhiệm trước lập pháp). Như vậy, có thể thấy rằng không có một khuôn mẫu nhất định về nhà nước pháp quyền để áp dụng cho mọi nhà nước tư sản với các hình thức nhà nước khác nhau và càng không thể có một khuôn mẫu chung về nhà nước pháp quyền áp dụng cho mọi nhà nước với những chế độ chính trị khác nhau. 1.2. Khái niệm, đặc trƣng và nội dung xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam 1.2.1. Khái niệm về nhà nước pháp quyền Việt Nam Ở Việt Nam, thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” được nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười nêu ra tại Hội nghị tư pháp toàn quốc năm 1989: “Hiện nay trên thế giới đang trở lại khái niệm nhà nước pháp quyền mà nội dung quan trọng của nó là thừa nhận sự thống trị của pháp luật đối với xã hội. Ở nước ta, có dùng khái niệm đó hay không thì tuỳ, các nhà khoa học nên nghiên cứu” [36, tr.83]. Tiếp sau đó, tại Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành Trung Ương Đảng khóa VII (1991), khái niệm nhà nước pháp quyền một lần nữa được nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đề cập đến. Vậy nhà nước pháp quyền là gì? Theo cách hiểu của các nhà lý luận Việt Nam, nhà nước pháp quyền có những đặc trưng cơ bản nào? Trong cuốn “Từ điển xã hội học” do Nguyễn Khắc Viện chủ biên viết: “Nhà nước pháp quyền xây dựng trên cơ sở dân chủ, đối lập với nhà nước độc tài, chuyên chế toàn trị….Nhà nước pháp quyền không đồng nghĩa với nhà nước cai trị bằng pháp luật….Nhà nước pháp quyền xây dựng trên cơ sở “xã hội công dân”... pháp luật là thước đo của tự do” [35, tr.135]. Đây là cách hiểu bao quát, dễ hiểu về khái niệm nhà nước pháp quyền. Quan niệm này đưa ra sự đối lập giữa nhà nước pháp quyền với nhà nước độc tài, chuyên chế 14 toàn trị mà điển hình là nhà nước chiếm hữu nô lệ và nhà nước phong kiến, một kiểu nhà nước mà quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều nằm trong tay một hoặc một nhóm người. Tuy nhiên, cách hiểu này còn nặng về phương diện xã hội học mà chưa quan tâm đến phương diện luật học, trong đó nhấn mạnh hai điểm cơ bản là đảm bảo dân chủ và tự do mà chưa phản ánh được tính tối thượng của pháp luật và vai trò quản lý xã hội bằng pháp luật. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vấn đề nhà nước pháp quyền thu hút sự tham gia đông đảo của các nhà lý luận. Ở Việt Nam hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm nhà nước pháp quyền. GS.VS. Nguyễn Duy Quý cho rằng, một nhà nước được công nhận là nhà nước pháp quyền khi đạt các tiêu chí: 1.Tôn trọng tính tối cao của luật; 2. Lập pháp, hành pháp, tư pháp phân định rõ rệt nhằm kiểm soát, kiềm chế nhau; 3. Bảo đảm quyền công dân; 4. Thực hiện các cam kết quốc tế. Nhóm tác giả công trình KX.04.01 đưa ra quan điểm “Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước. Đó là một nhà nước tồn tại, phát triển và vận hành trong môi trường pháp luật, coi pháp luật là tối thượng” [24, tr.89]. GS.TSKH. Đào Trí Úc viết trong cuốn Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Nhà nước pháp quyền là một khái niệm có thể được hiểu ở hai mức độ, với tính cách là học thuyết, là tư tưởng và với tính cách là thực tiễn tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, thực thi dân chủ.... Chủ điểm của các tư tưởng, quan niệm, quan điểm về nhà nước pháp quyền đều là vấn đề giá trị của pháp luật được thừa nhận đến đâu trong xã hội” [31, tr.33-34]. Ở đây, tác giả đã nêu ra việc phân định hai cấp độ lý luận và thực tiễn trong quan niệm về nhà nước pháp quyền, trong đó nhấn mạnh khía cạnh giá trị xã hội của pháp luật, tức bản chất của nhà nước pháp quyền được quy định bởi nội dung của hệ thống pháp luật mà trên đó nó được xây dựng. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan