Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xây dựng môi trường văn hóa trong các trường đại học ở thành phố hồ chí minh n...

Tài liệu Xây dựng môi trường văn hóa trong các trường đại học ở thành phố hồ chí minh nghiên cứu trường hợp trường đại học kinh tế thành phố hồ chí minh

.PDF
140
207
106

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Ngày nay, khi văn hoá đã trở thành một trong những lĩnh vực quan trọng nhất của đời sống xã hội, vấn đề xây dựng môi trường văn hoá trên cơ sở kế thừa, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại cần phải được coi là vấn đề bức thiết để xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện. Hiểu theo nghĩa rộng, văn hoá bao hàm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, những giá trị hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững ch c của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững ch c Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là mục tiêu được thể hiện trong Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Nghị quyết nhấn mạnh mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, lối sống. G n kết xây dựng môi trường văn hóa với bảo vệ môi trường sinh thái. Đưa nội dung giáo dục đạo đức con người, đạo đức công dân vào các hoạt động giáo dục của xã hội. Xu hướng hội nhập quốc tế đang mở ra không ít những triển vọng phát triển giáo dục cho các quốc gia nói chung và cho giáo dục đại học nói riêng, đồng thời, cũng đặt ra những thách thức to lớn đối với việc giữ gìn, phát triển văn hóa nói chung và môi trường văn hóa nhà trường nói riêng. Nghiên cứu về môi trường văn hoá nhà trường cũng chính là nghiên cứu một hệ thống giá trị và chuẩn mực giá trị đặc thù, được con người tích lũy trong quá trình tích hợp các hoạt động sáng tạo văn hóa, giáo dục và khoa học. 1 Hệ giá trị môi trường văn hoá nhà trường được biểu hiện thông qua vốn di sản văn hóa và các quan hệ ứng xử văn hóa giữa những người trong một môi trường giáo dục, có tác động chi phối nhiều chiều đến mọi hoạt động và đời sống tâm lý của chính những con người sống trong môi trường đó: ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo dục trong nhà trường theo hướng phát triển con người toàn diện; ảnh hưởng rõ rệt cách suy nghĩ, cảm nhận và hành động của mỗi thành viên trong nhà trường, do đó có thể nâng cao hoặc cản trở động cơ, kết quả dạy - học của giảng viên và sinh viên... Môi trường văn hóa nhà trường thể hiện ở mọi mặt, bao gồm từ cơ sở vật chất, cảnh quan cây xanh, nơi giải trí, sinh hoạt, hội họp, học tập, bảng tên trường, phòng học, phòng làm việc…đến nền nếp, chuẩn mực, lễ nghi, niềm tin, giá trị, hành vi ứng xử của các chủ thể tham gia hoạt động giáo dục đào tạo trong nhà trường, là lối sống văn minh trong trường học. Nói chung, môi trường văn hóa nhà trường lành mạnh sẽ giảm bớt được nguy cơ xung đột và tăng tính ổn định. Thế nhưng, vấn đề môi trường văn hóa nhà trường và tìm kiếm các biện pháp quản lý sự hình thành và phát triển môi trường văn hóa nhà trường hiện nay vẫn còn chưa được quan tâm đúng mức, mặc dù muốn hay không muốn, những yếu tố tiêu cực từ môi trường văn hoá nhà trường tự phát đang hàng ngày, hàng giờ tác động rất sâu s c đến quá trình giáo dục - đào tạo trong các trường, đến sinh viên - thế hệ tương lai của đất nước. Vậy các nhà quản lý giáo dục cần phải làm gì để xây dựng và phát triển một môi trường văn hóa nhà trường lành mạnh, tích cực? Hiện nay trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, giáo dục bậc đại học có trên 80 trường, đa số do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, trong đó có 2 trường đại học công lập (Trường Đại học Sài Gòn và Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch) do thành phố quản lý. Là thành phố lớn nhất Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh cũng là trung tâm giáo dục bậc 2 đại học lớn bậc nhất. Nhiều đại học lớn của thành phố như Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Kiến trúc, Đại học Y Dược, Đại học Ngân hàng, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Tài chính - Marketing đều là các đại học quan trọng của Việt Nam. Trong số học sinh, sinh viên đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng của thành phố, 40% đến từ các tỉnh khác của quốc gia. Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập vào năm 1976. Trải qua gần 40 năm hình thành và phát triển, trường đã đào tạo hàng chục ngàn cán bộ, nhà doanh nghiệp, nhà quản lý có trình độ đại học và sau đại học cho Thành phố và đất nước; đảm bảo chất lượng, uy tín và được xã hội thừa nhận. Nhiều năm qua nhà trường luôn ý thức và phấn đấu không ngừng cho một mục tiêu chất lượng đào tạo, nhằm đáp ứng nguồn nhân lực có đủ phẩm chất chính trị, có chuyên môn vững vàng, có khả năng hội nhập vào thị trường lao động trong bối cảnh đất nước gia nhập vào cộng đồng kinh tế ASEAN, việc này một mặt tạo cơ hội cho dịch chuyển lao động có chất lượng, song mặt khác lại đặt ra những thách thức lớn cho lao động thiếu kỹ năng, điều này đồng nghĩa với việc tạo ra sức cạnh tranh về đào tạo giữa các trường trong khu vực nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao. Trước tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố và đất nước, trước yêu cầu đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết 29-NQ/TW, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là xây dựng một môi trường văn hóa tiên tiến trên cơ sở tiếp tục phát huy “Đề án xây dựng văn hóa trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh” (hay còn gọi t t là Văn hóa UEH), trong quá trình triển khai thực hiện đã tạo ra môi trường hoạt động và tổ chức các 3 phong trào đa dạng về nội dung, phong phú về hình thức; là nơi tạo ra các mô hình hoạt động tiêu biểu trong cán bộ, công chức, viên chức, sinh viên của thành phố và cả nước. Chính vì thế, tôi chọn đề tài: “Xây dựng môi trƣờng văn hoá trong các trƣờng đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh: nghiên cứu trƣờng hợp Trƣờng Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn cao học của mình. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Vấn đề văn hóa nói chung và môi trường văn hóa nói riêng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, ở mức độ khác nhau, họ đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau: - Trong tác phẩm “Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin”, nhà xuất bản Văn hóa, 1981 của Ác - môn - đốp A.I (chủ biên), đã đưa ra khái niệm văn hóa: Văn hóa là do con người sáng tạo ra, vận động và biến đổi theo thời gian và không gian. - Đỗ Huy, Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay từ góc nhìn giá trị học nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2001, đã phân tích thế nào là môi trường văn hóa và đưa ra các cách tiếp cận, trong đó tác giả dùng cách tiếp cận qua các giá trị, cho rằng môi trường văn hóa cần g n với cái đúng, g n với cái tốt và tính thẩm mỹ. - Tác phẩm “Xây dựng môi trường văn hóa - Một số lý luận và thực tiễn” của Ban tư tưởng văn hóa Trung ương, 2004, các nhà nghiên cứu cho rằng xây dựng môi trường văn hóa tức là xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với tự nhiên, với xã hội và với bản thân mình. Công trình cũng đưa ra những vấn đề thực tiễn khá quan trọng trong việc thực hiện Nghị quyết Trung ương V, đó là sự tổng kết những kinh nghiệm bước đầu trong việc xây dựng môi trường văn hóa. - Trịnh Thị Minh Loan, Một số khái niệm về văn hóa, Viện nghiên cứu sư phạm, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2005, đưa ra khái niệm văn hóa theo các 4 góc độ khác nhau: Góc độ lịch sử, dân tộc học, khảo cố học, văn học, nghệ thuật, triết học, tâm lý học, xã hội học,... - Nguyễn Thị Hậu, Xây dựng môi trường văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh văn minh hiện đại, nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh 2014, cho rằng môi trường văn hóa là một trong những nội dung quan trọng bởi sự tác động của nó đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội đô thị. Xây dựng môi trường văn hóa đô thị văn minh hiện đại là tiền đề quan trọng nhất để hình thành và duy trì nếp sống văn minh đô thị của Thành phố. - Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Nghị quyết được ban hành trên cơ sở đánh giá 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và đề ra mục tiêu là “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững ch c của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững ch c Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Về môi trƣờng văn hóa trƣờng học, rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục đã quan tâm nghiên cứu nhƣ: - Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới, nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 1994, Phạm Minh Hạc cho rằng các thành tố cơ bản của môi trường văn hóa trường học gồm chủ thể và khách thể, chủ thể là giảng viên, sinh viên, cán bộ công nhân viên, khách thể là hệ thống các giá trị văn hóa, các hình thức vận động văn hóa, cảnh quan văn hóa. - Nguyễn Phương Hồng, Thanh niên, học sinh, sinh viên với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997. Tác giả đề cao trách nhiệm của sinh viên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục đích của việc xây dựng môi trường văn hóa trường học là 5 để đào tạo ra những sinh viên có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn cao. - Trương Lưu, trong tác phẩm “Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội”, nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội 1998, cho rằng thông qua môi trường văn hóa trường học, sinh viên và giảng viên nhận ra điểm mạnh và điểm yếu của chính mình. - Phạm Minh Hạc trong tác phẩm Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, nhà xuất bản Giáo dục quốc gia, Hà Nội 1999, nhấn mạnh giáo dục nếp sống văn hóa cho sinh viên trong học tập, sinh hoạt, văn hóa, tiêu dùng và trong ứng xử giữ vai trò quan trọng. - Thành Lê, trong tác phẩm “Văn hóa và lối sống”, nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội 2001 đã xác định các thành tố của môi trường văn hóa trường học gồm chủ thể (con người) và khách thể (môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và môi trường văn hóa). - Phạm Minh Hạc, Hồ Sĩ Quý, Nghiên cứu con người, đối tượng và những hướng chủ yếu, Niên giám nghiên cứu số 1, nhà xuất bản KH - XH, Hà Nội 2002, các tác giả cũng cho rằng xây dựng môi trường văn hóa trường học tạo điều kiện để đưa tiêu chí chân, thiện, mỹ vào trong trường đại học. - Nguyễn Thanh Tuấn, Văn hóa ứng xử Việt Nam hiện nay, nhà xuất bản Từ điển bách khoa và Viện văn hóa, Hà Nội 2008, cho rằng khái niệm lối sống hay văn hóa lối sống tương đương với văn hóa ứng xử. Lối sống là cách ứng xử của con người với môi trường sống gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. - Kỷ yếu Hội thảo Văn hóa trường Đại học trong bối cảnh mới, nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, năm 2015. Thông qua các tham luận, các tác giả khẳng định môi trường văn hóa trường đại học ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng giáo dục của nhà trường, trong xu thế hội nhập, cạnh tranh gay g t, các trường không thể không tích lũy và phát huy giá trị văn hóa của mình, 6 thể hiện qua việc tạo động lực làm việc, điều phối và kiểm soát hành vi của cá nhân, hạn chế tiêu cực và xung đột… Văn hóa nhà trường là văn hóa của một tổ chức. Xét về bản chất, mỗi nhà trường là một tổ chức hành chính - sư phạm. Đó là một thế giới thu nhỏ với cơ cấu, chuẩn mực, quy t c hoạt động, những giá trị, điểm mạnh và điểm yếu riêng cho những con người cụ thể thuộc mọi thế hệ tạo lập. Với tư cách là một tổ chức, mỗi nhà trường đều tồn tại dù ít hay nhiều một nền văn hóa nhất định. Tuy nhiên cho đến nay, lại có rất ít tác giả quan tâm đi sâu vào nghiên cứu về lý luận một cách có hệ thống về việc xây dựng môi trường văn hóa nhà trường. Nhìn chung, trong các đề tài nghiên cứu trên đây chưa phải là những khảo cứu chuyên sâu về môi trường văn hóa nhà trường, nhất là chưa đề cập đến công tác xây dựng môi trường văn hóa nhà trường ở các trường đại học. Từ việc khái quát tình hình nghiên cứu, có thể nhận thấy một số nhà khoa học tuy có đề cập đến xây dựng môi trường văn hoá trường học ở nhiều góc độ khác nhau nhưng nhìn chung đó là những vấn đề mang tính tổng hợp và lý luận, chưa có nhiều công trình thực sự đi sâu vào nghiên cứu những thiết chế cụ thể, trong đó có trường đại học - một thiết chế văn hoá học đường đặc biệt. Theo đó thì tiêu chí xây dựng văn hoá trong trường đại học tuy có được gợi mở nhưng lại chưa được xem xét một cách toàn diện với tư cách là một đối tượng nghiên cứu của một công trình khoa học. Còn vấn đề xây dựng các mô hình môi trường văn hóa trường học trong trường đại học thì cho đến nay vẫn chưa thấy một công trình nghiên cứu nào đề cập đến. Tuy nhiên, tất cả các công trình, tài liệu khoa học trên đây đều là nền tảng khoa học quý giá, cung cấp cơ sở lý luận cũng như để vận dụng vào việc nghiên cứu của luận văn. Tôi chọn nghiên cứu đề tài này với mong muốn góp phần vào cơ sở lý luận về xây dựng môi trường văn hóa nhà trường ở trường đại học thông qua trường hợp cụ thể là Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ 7 Chí Minh, qua đó đề xuất những biện pháp nâng cao hiệu quả công tác xây dựng môi trường văn hóa nhà trường, góp phần xây dựng một môi trường giáo dục tích cực cho viên chức và sinh viên, góp phần thực hiện tốt mục tiêu đào tạo của các trường đại học trên địa bàn thành phố trong giai đoạn hiện nay. 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu vai trò của việc xây dựng môi trường văn hóa trong trường đại học nhằm góp phần nâng cao chất lượng quản lý nhà trường và chất lượng giáo dục toàn diện trong điều kiện phát triển và hội nhập hiện nay. - Trên cơ sở nghiên cứu kết quả việc triển khai thực hiện Văn hóa UEH (Đề án Văn hóa Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh), đề xuất những giải pháp phù hợp với thực tế quản lý giáo dục đào tạo ở Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, tăng cường xây dựng môi trường văn hóa trong nhà trường. Từ đó có thể đề xuất mô hình nhân rộng trong các trường đại học trên địa bàn thành phố. 4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Đối tƣợng nghiên cứu: Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng và triển khai thực hiện Văn hóa UEH giai đoạn 2011 - 2016. Chủ thể nghiên cứu: lãnh đạo nhà trường, viên chức (làm công tác quản lý, là giảng viên, làm công tác phục vụ) và sinh viên trường. Khách thể nghiên cứu: các yếu tố cấu thành môi trường văn hóa Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và những biện pháp xây dựng môi trường văn hóa, thông qua triển khai thực hiện “Văn hóa UEH” tại Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2016. 8 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Việt Nam học là một khoa học có phương pháp nghiên cứu liên ngành trong đó có thể sử dụng cách tiếp cận của một ngành phù hợp với nội dung và mục đích nghiên cứu của đề tài, vì vậy thực hiện đề tài này, tôi tiếp cận từ hướng nghiên cứu văn hóa học, với 3 yếu tố: chủ thể, không gian và thời gian của “môi trường văn hóa”, như đã xác định trong phần Phạm vi nghiên cứu. Dựa trên quan điểm nền tảng về xây dựng môi trường văn hóa của Đảng và Nhà nước; Tiếp cận vấn đề nghiên cứu các góc độ: văn hóa và môi trường văn hóa, hệ thống và chủ trương chính sách phát triển văn hoá giáo dục của Đảng và Nhà nước; thực tiễn hoạt động quản lý đào tạo chuyên môn và giáo dục nhân cách cho sinh viên của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, tôi đã thực hiện cuộc khảo sát ý kiến của viên chức và sinh viên Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh về một số biểu hiện trong môi trường văn hóa trường đại học để phân tích những tác động tích cực và hạn chế của nó đến việc dạy và học. Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên với số lượng mẫu là 400, phạm vi không gian của luận văn tập trung nghiên cứu và khảo sát môi trường văn hóa Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó phương pháp nghiên cứu sẽ được vận dụng thông qua các nhóm cơ bản như sau: - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Tổng hợp, phân tích, hệ thống hoá các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra bằng phiếu hỏi; Phỏng vấn; Quan sát; Xin ý kiến chuyên gia; Tổng kết kinh nghiệm. - Phương pháp xử lý số liệu: Biểu đồ, bảng số thống kê... Ngoài ra tôi còn sử dụng phương pháp tổng hợp để phân tích tài liệu và xử lý số liệu thu thập được từ nhiều nguồn tài liệu khác (từ sách, báo, Internet…); phương pháp lịch sử và phương pháp logic để nhận định, nối kết và đánh giá vấn đề cần nghiên cứu. 9 6. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN: - Về lý luận: Nghiên cứu bổ sung và góp phần sáng tỏ cơ sở lý luận về công tác xây dựng môi trường văn hóa trong các trường đại học. - Về thực tiễn: Trên cơ sở nguồn dữ liệu có được, đề tài đề xuất những giải pháp xây dựng môi trường văn hóa ở các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh, góp phần xây dựng nếp sống văn minh ở đô thị và xây dựng con người mới phù hợp với thời đại toàn cầu hóa. 7. CẤU TR C CỦA LUẬN V N Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về xây dựng môi trường văn hóa trường đại học: trình bày những khái niệm cơ bản hỗ trợ nghiên cứu cho luận văn như văn hóa và môi trường văn hóa, môi trường văn hóa trường đại học, các thành tố cơ bản của môi trường văn hóa trường đại học, vai trò của môi trường văn hóa trường đại học, những yếu tố tác động đến môi trường văn hóa trong trường đại học... Chương 2: Thực trạng công tác xây dựng môi trường văn hóa Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh: nghiên cứu các vấn đề liên quan đến công tác xây dựng môi trường văn hóa Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua; phân tích, đánh giá thực trạng và rút ra những kinh nghiệm trong công tác xây dựng môi trường văn hóa. Chương 3: Giải pháp tăng cường hiệu quả xây dựng môi trường văn hóa Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh: Định hướng công tác xây dựng môi trường văn hóa của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng nhu cầu phát triển của trường trước m t và lâu dài, từ đó đề xuất các nhóm giải pháp về kỹ thuật, về chế tài, về định hướng giá trị đạo đức trong trường đại học để tăng cường công tác xây dựng môi trường văn hóa. Qua đó, đề xuất một số kiến nghị đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh để tạo điều kiện thực hiện tốt hơn công tác xây dựng môi trường văn hóa. 10 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ X DỰNG M I TRƢ NG V N H A TRƢ NG ĐẠI HỌC 1.1. Văn hóa và môi trƣờng văn hóa 1.1.1. Văn hóa Văn hóa là một thuật ngữ có nội hàm ngữ nghĩa khá phong phú và phức tạp, có nguồn gốc cả ở phương Tây và phương Đông. Ở phương Tây, từ văn hóa xuất hiện rất sớm trong đời sống ngôn ngữ, ban đàu nó là một từ có căn gốc La tinh “colere”, sau trở thành “cultura” nghĩa là cày cấy, vun trồng, về sau, “cultura” được chuyển sang nghĩa rộng hơn là sự vun trồng tinh thần, trí tuệ. Cicéron, nhà chính trị hùng biện thời La Mã (thế kỷ I Tr.CN) từng có câu nói nổi tiếng: “Filosofia cultura animiest” nghĩa là: Triết học là văn hóa (sự vun trồng) tinh thần, chính là nói về quá trình giáo dục, bồi dưỡng về các mặt tinh thần, trí tuệ cho con người. Ở phương Đông, từ văn hóa xuất hiện vào thời Tây Hán. Lưu Hướng (năm 77-6 Tr.CN) trong sách Thuyết Uyển, bài Chỉ Vũ có viết: “Bậc thánh nhân trị thiên hạ, trước dùng văn đức, sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ lực đều để đối phó kẻ bất phục tùng, dùng văn hóa không thay đổi được thì sau đó sẽ chinh phạt” [11, tr.13]. Ở đây, văn hóa được hiểu như một cách giáo hóa đối lập với vũ lực, theo đó văn hóa là “văn trị giáo hóa” tức là dùng “văn trị” (cái hay, đẹp) để “giáo hóa” (giáo dục cảm hóa) con người. Như vậy có thể thấy, ngay từ thuở rất xa xưa, ở cả phương Tây và phương Đông, con người đã ý thức được về văn hóa và vai trò của nó đối với việc giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, trí tuệ và tình cảm con người. Mặc dù có mặt rất sớm trong đời sống ngôn ngữ như vậy, nhưng phải đến thế kỷ XVIII, từ văn hóa mới được đưa vào sử dụng như một thuật ngữ khoa học với ý nghĩa: văn hóa là toàn bộ những gì được tạo ra do hoạt động xã hội của con người, nghĩa là văn hóa đối lập với trạng thái tự nhiên. Cuối thế kỷ XIX, sau khi công trình “Văn hóa nguyên thủy” của E.B. Taylor được công bố (1871), ngành khoa học về văn hóa mới chính thức được khẳng định. 11 Tuy nhiên, chỉ đến thế kỷ XX, đặc biệt là những thập niên cuối của thế kỷ, việc nhận thức về văn hóa và vai trò của nó đối với đời sống xã hội mới thực sự được chú ý. Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ khiến con người tiến nhanh về phía trước với những bước đi của “người khổng lồ”, song bên cạnh đó là sự sụp đổ về mô hình phát triển ở một số quốc gia dân tộc chỉ chú trọng phát triển kinh tế thuần túy, xem nhẹ vai trò của văn hóa đã khiến cho con người b t đầu nhìn nhận văn hóa với một nhãn quan mới. Văn hóa được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Bằng lập luận của mình, mỗi nhà khoa học đều có sự phân tích, bổ sung thêm, làm cho văn hóa trở thành một đối tượng đặc biệt có nội hàm không ngừng được mở rộng, được nhìn nhận với một thái độ rất văn hóa và cũng rất khoa học. Có thể nói, có bao nhiêu người nghiên cứu văn hóa thì có bấy nhiêu định nghĩa về văn hóa, và việc đưa ra một khái niệm đầy đủ về văn hóa là vô cùng khó khăn. Jacques Dérrida, nhà nghiên cứu văn hóa người Pháp đã phải thốt lên: “Văn hóa chính là cái tên mà chúng ta đặt cho điều bí ẩn không cùng với những ai ngày nay đang tìm cách suy nghĩ về nó” [21, tr.35]. Từ điển Triết học đưa ra định nghĩa: “Văn hóa gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội lịch sử và tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội... Văn hóa là một hiện tượng lịch sử, phát triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội” [58, tr.1329-1330]. Hiện nay UNESCO đang nhìn nhận văn hóa với một ý nghĩa rộng rãi hơn, coi văn hóa như một phức thể - tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm... kh c họa nên bản s c của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng miền, quốc gia, xã hội. Năm 1988, khi phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Tổng giám đốc UNESCO, Federico Mayor cũng đưa ra một định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của cá nhân và cộng đồng trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, 12 các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Với ý nghĩa đó, văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con người, dù đó là hoạt động sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần, hay trong quan hệ giao tiếp ứng xử xã hội, trong thái độ đối với thiên nhiên. Ở Việt Nam nước ta, văn hóa từ danh từ chuyển hóa thành thuật ngữ đa nghĩa cả trong ngôn ngữ thường ngày lẫn trong luận điểm khoa học. Xa xưa, ông cha ta dùng từ “văn hiến” thay cho từ văn hóa như hiện nay và nội hàm của nó cũng chưa mở rộng như các giai đoạn sau này. Từ đời Lý (1010), người Việt đã tự hào nước mình là một “văn hiến chi bang”. Đến đời Lê (thế kỷ XV), danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi đã khẳng định: “Duy ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang” (nước Đại Việt ta từ xưa thực sự là một nước văn hiến). Từ “văn hiến” mà Nguyễn Trãi dùng ở đây là một khái niệm rộng chỉ một nền văn hóa cao, trong đó nếp sống tinh thần, đạo đức được chú trọng [89]. Năm 1942, tại “Mục đọc sách” viết xen trong bản thảo “Nhật ký trong tù”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa hết sức xác đáng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [40, tr.431]. Với định nghĩa này, Hồ Chí Minh bằng cách tiếp cận biện chứng đã n m b t trạng thái vận động và cả trạng thái tĩnh của văn hóa. Học giả Đào Duy Anh trong cuốn Việt Nam văn hóa sử cương cũng đưa ra một nhận định mang dáng nét tương đồng với quan niệm của Hồ Chủ tịch: “Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương tiện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: “Văn hóa tức là sinh hoạt” [2, tr.13]. Những năm gần đây, nghiên cứu văn hóa thực sự trở thành một môn khoa học tại Việt Nam. Một số học giả tập trung nghiên cứu về văn hóa tiếp 13 tục đưa ra các quan niệm của mình về văn hóa. Trên cơ sở phân tích các định nghĩa về văn hóa, Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn tong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [56, tr.27]. Định nghĩa này đã nêu bật bốn đặc trưng quan trọng của văn hóa là: tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử, tính nhân sinh. Ngoài ra, một số các định nghĩa khác của Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, Hoàng Vinh, Trần Văn Bính, Trường Lưu... cũng là những đóng góp quan trọng bổ sung cho nhận thức chung về văn hóa. Mặc dù đứng ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau nên cách giải thích, cách quan niệm cũng khác nhau song nhìn chung, đại đa số các nhà nghiên cứu văn hóa đều quan niệm văn hóa g n với con người, là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra, trở thành bộ phận cơ bản trong xã hội. Tóm lại, văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt có tính ngành nghề. Đó là hoạt động nhằm phát huy những năng lực bản chất của con người, vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ. Văn hóa là hoạt động nhằm tạo ra những giá trị, những chuẩn mực xã hội. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân và hoạt động có hướng đích nhằm đạt tới một giá trị nào đó trong xã hội. Văn hóa là “thiên nhiên thứ hai”, là “cái nôi' nuôi dưỡng tâm hồn và hình thành nên phẩm giá con người. Một không gian văn hóa lành mạnh bao gồm toàn bộ những sản phẩm, hành động, khuôn mẫu ứng xử... chứa đựng hệ thống giá trị nhân văn và vốn kinh nghiệm xã hội, sẽ tạo thành “môi trường văn hóa” lành mạnh nuôi dưỡng đời sống tinh thần con người, phát triển con người ngày càng hoàn thiện về mọi mặt. Đây chính là cơ sở lý luận quan trọng để tiếp cận, nghiên cứu về môi trường văn hóa. 1.1.2. Môi trƣờng văn hóa Khái niệm “môi trường” chỉ một phạm vi rất rộng lớn. Theo định nghĩa của UNEP (chương trình môi trường của Liên hợp quốc) thì: “Môi trường là 14 thế giới mà chúng ta đang sống trong đó”; trong quan niệm của nhà nghiên cứu Ấn Độ Suriyakuran, “môi trường có thể được xác định như là tổng di sản hành tinh và tổng số của tất cả các tài nguyên” [45, tr.25]. Michel Batisse, nhà nghiên cứu người Pháp nổi tiếng về môi trường và tài nguyên thiên nhiên đã khẳng định: “Môi trường không chỉ bó hẹp ở những không gian được gọi là tự nhiên và đã bị biến đổi ít nhiều qua các thời kỳ mà còn bao gồm cả những không gian nhân tạo làm thành khung cảnh cho cuộc sống của hầu hết mọi người” [39, tr.47-48]. Trên cơ sở những quan niệm về môi trường theo nghĩa rộng mà các nhà nghiên cứu đã đưa ra, Trường Lưu khái quát lại: “Về một định nghĩa chung nhất thì môi trường là những gì g n chặt và bao quanh con người” [37, tr.241]. Nói đến văn hóa là nói đến con người, chỉ có con người mới có văn hóa và sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới. Và cũng dễ thấy rằng môi trường sống của con người không chỉ là môi trường tự nhiên mà còn là môi trường xã hội. Hơn thế nữa, đó còn là môi trường văn hóa - môi trường sống đặc thù chỉ có ở cộng đồng người - cộng đồng xã hội mà thôi. Các nhà nghiên cứu văn hóa nói chung và triết học văn hóa nói riêng đã sử dụng phạm trù “môi trường văn hóa” để thể hiện mối quan hệ giữa con người và văn hóa. Khái niệm môi trường văn hóa lần đầu tiên được đề cập đến trong tác phẩm “Sinh thái nhân văn” năm 1975 của Giáo sư sinh - nhân chủng học người Pháp Georges Olivier, trong đó môi trường văn hóa hay môi trường nhân văn được tạo nên bởi “sự tác động của con người tới con người” và “tổ chức xã hội của chúng ta”, còn “sự tác động của con người với tự nhiên cũng như sản phẩm từ nền công nghiệp đương nhiên đã có và phải có” [23, tr.10]. Theo ý nghĩa này, môi trường văn hóa là khái niệm mang tính đa phương, đa diện: môi trường văn hóa là không gian văn hóa chứa đựng các mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, con người với xã hội, con người với con người. Theo quan niệm của nhà nghiên cứu Xô viết A.I.Ác-nôn-đốp, môi trường văn hóa là “tổng thể ổn định những yếu tố vật thể và nhân cách, nhờ đó 15 các cá thể tác động lẫn nhau. Chúng ảnh hưởng tới hoạt động khai thác và sáng tạo giá trị văn hóa, tới nhu cầu tinh thần, hứng thú và định hướng giá trị của họ. Môi trường văn hóa không chỉ là tổng hợp những yếu tố văn hóa vật thể mà còn có những con người hiện diện văn hóa” [1, tr.75]. Huỳnh Khái Vinh nhấn mạnh: “Với tính chất là tổng thể (các hoạt động và sinh hoạt của con người các và giá trị vật chất tinh thần cũng như điều kiện và cơ chế vận hành các hoạt động hiện và giá trị vật chất ấy), môi trường văn hóa luôn luôn can thiệp và quy định các hoạt động sống, cách thức sống và cả lẽ sống của con người. Cái cốt lõi tạo nên khuôn mẫu và chiều hướng vận động của môi trường văn hóa là chuẩn mực giá trị xã hội”. [60, tr.382] Từ góc nhìn giá trị học, Đỗ Huy nhấn mạnh vai trò của con người khi đưa ra định nghĩa: “Môi trường văn hóa chính là sự vận động của các quan hệ của con người trong các quá trình sáng tạo, tái tạo, đánh giá, lưu giữ và hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của mình” [41, tr.35]. Nguyễn Thị Hậu cũng xác định “Môi trường văn hóa là tổng hòa những thành tố vật chất và tinh thần, trong một không gian và thời gian cụ thể, trong đó con người và quan hệ trực tiếp của con người với tự nhiên, với xã hội là nhân tố quan trọng nhất” [31, tr.21]. Là chủ thể tích cực của môi trường văn hóa, con người luôn luôn đóng vai trò quyết định trong việc sáng tạo những giá trị văn hóa, hình thành những quan hệ văn hóa, lựa chọn, tổ chức, tham gia những hình thái hoạt động văn hóa và điều tiết, phát huy tác dụng của những thiết chế đảm bảo đời sống văn hóa, hợp thành môi trường văn hóa. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của môi trường văn hóa, con người vừa là chủ thể xây dựng môi trường văn hóa, vừa là sản phẩm chủ yếu nhất của môi trường văn hóa. Tách khỏi đời sống xã hội và môi trường văn hóa, con người không thể hình thành và phát triển nhân cách của mình được: “Người không đẻ ra người, đứa trẻ chỉ trở nên người trong quá trình giáo dục” [59, tr.129]. “Yêu cầu xây dựng một môi 16 trường văn hóa lành mạnh để nhân cách con người phát triển tốt đẹp, xây dựng một xã hội nhân văn hiện nay là một vấn để quan trọng ở những nước đang phát triển” [31, tr.21]. Tiếp thu những định nghĩa và quan niệm của các nhà nghiên cứu, có thể rút ra: Môi trường văn hóa là giới hạn cụ thể xác định trong mối quan hệ biện chứng giữa môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, chỉ toàn bộ không gian diễn ra các hoạt động văn hóa của cộng đồng để tạo nên các giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần tác động đến con người trong một thời gian cụ thể. Trong môi trường này, thông qua các quan hệ văn hóa và cùng với hệ thống thiết chế văn hóa, các cá nhân tác động lẫn nhau, cải biến nhau hướng tới các giá trị và chuẩn mực xã hội mang tính Chân, Thiện, Mỹ. Và do đó, con người có quan hệ trực tiếp với nhau là nhân tố quan trọng nhất quyết định đến chất lượng của môi trường văn hóa. Theo quan niệm trên thì bản chất của môi trường văn hóa là kết hợp hài hòa giữa môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, là sự vận động của các mối quan hệ văn hóa trong hoạt động giao tiếp, ứng xử của cá nhân trong cộng đồng và với chính bản thân mình. Có thể nói việc phân chia thành ba dạng môi trường (tự nhiên, xã hội và văn hóa) chỉ là thao tác để dễ tìm hiểu và nhận dạng, còn về bản chất, khi nói xây dựng môi trường văn hóa ở một không gian và thời gian xác định thì việc làm này cũng bao hàm nhiệm vụ xây dựng môi trường cảnh quan tự nhiên và xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tốt đẹp. Vì vậy, để phát triển con người một cách toàn diện theo yêu cầu của xã hội và thời đại, chúng ta cần phải tiến hành xây dựng và bảo vệ tốt môi trường văn hóa. 1.2. Môi trƣờng văn hóa trƣờng đại học 1.2.1. Khái niệm văn hóa và văn hóa ứng xử trong nhà trƣờng Các nhà nghiên cứu về văn hóa như Nguyễn Minh Chung trong Văn hóa lớp học và mô hình lớp học văn hóa trong nhà trường đại học hiện nay [12], Đỗ Huy trong Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay từ góc 17 nhìn giá trị học [32], Văn Đức Thanh trong Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở [55]… đều khẳng định: Văn hóa nhà trường là văn hóa diễn ra trong trường học, thể hiện các chuẩn mực đạo đức của xã hội, trong đó, quan hệ giữa thầy với thầy, giữa thầy với trò, giữa trò với trò là quan hệ chủ đạo. Văn hóa nhà trường có ý nghĩa quyết định tới chất lượng giáo dục đào tạo và có ảnh hưởng rất lớn tới cộng đồng xã hội. Theo Phạm Minh Hạc thì “Thuật ngữ văn hóa nhà trường xuất hiện tại các nước nói tiếng Anh vào những năm 1990. Một số nước như Mỹ, Úc đã có trung tâm nghiên cứu, khảo sát thực tiễn và đánh giá vấn đề này. Dù có nhiều ý kiến khác nhau nhưng đều thống nhất mỗi trường học đều có văn hóa nhà trường của mình”, ông khái quát “Văn hóa nhà trường là hệ các chuẩn mực, giá trị giúp cán bộ quản lý nhà trường, thầy cô, phụ huynh, học sinh, sinh viên có cách thức suy nghĩ, hành động, tình cảm tốt đẹp. Văn hóa nhà trường ở Việt Nam cần đảm bảo 3 yếu tố: Cơ sở vật chất đảm bảo, môi trường giáo dục tốt và văn hóa ứng xử, giao tiếp” [29, tr.33]. Các nhà khoa học đã xác định thực chất của văn hóa nhà trường là văn hóa ứng xử. Nội hàm khái niệm “văn hóa ứng xử” gồm cách thức quan hệ, thái độ và hành động của con người đối với môi trường thiên nhiên, đối với xã hội và đối với người khác. Nghĩa là, văn hóa ứng xử gồm 3 chiều quan hệ: Với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và môi trường văn hóa. Văn hóa ứng xử g n liền với các thước đo mà xã hội dùng để ứng xử, đó là các chuẩn mực xã hội. Cho đến nay ở Việt Nam, nhìn chung khái niệm văn hóa ứng xử đã được gián tiếp, trực tiếp làm rõ gồm: Thái độ, cách thức quan hệ, hành động và cả kỹ năng lựa chọn nhằm tận dụng, ứng phó và thể hiện tình người đối với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và với bản thân. Thái độ, cách thức quan hệ, hành động và kỹ năng lựa chọn đều bị chi phối bởi các giá trị được biểu hiện dưới dạng chuẩn mực cơ bản của xã hội. 18 1.2.2. Khái niệm môi trƣờng giáo dục, môi trƣờng văn hóa nhà trƣờng Theo “Từ điển giáo dục học” thì môi trường giáo dục là “Tập hợp những không gian, những hoạt động xã hội và cá nhân, những phương tiện về giao lưu, những quá trình, phối hợp lại với nhau và tạo điều kiện thuận lợi để đạt những kết quả giáo dục có hiệu quả nhất [46, tr.264]. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, Luật Giáo dục quy định mọi tổ chức, gia đình và công dân đều có trách nhiệm chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục. Khái niệm môi trường giáo dục có liên quan mật thiết đến các khái niệm như môi trường học tập, môi trường nhà trường. - Môi trường học tập là tập hợp những yếu tố không gian, nhân lực, vật lực và tài sản nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc học tập đạt kết quả tốt. Theo đó, môi trường học tập cần được tạo ra ở nhà trường, ở gia đình, ở cộng đồng và xã hội. - Môi trường nhà trường là tập hợp những con người, những cơ sở vật chất, kỹ thuật và những phương tiện quản lý, có tương tác lẫn nhau một cách thường xuyên, nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho sự thành công của việc dạy và học ở nhà trường đạt kết quả tốt. Với ý nghĩa đó, môi trường nhà trường có ảnh hưởng lớn đến người học. 1.3. Các thành tố cơ bản của môi trƣờng văn hóa trƣờng đại học 1.3.1. Chủ thể của môi trƣờng văn hóa trƣờng đại học - Giảng viên: Đây là đội ngũ những người trực tiếp đứng trên bục giảng với nhiệm vụ cao quý là trao truyền những tri thức chuyên môn (chủ yếu) và cả kiến thức xã hội cho sinh viên. Với vai trò, vị thế là chủ thể quá trình dạy - học, giảng viên là nhân tố có vai trò quyết định hàng đầu trong việc xây dựng môi trường văn hóa - trường lành mạnh, phong phú ở trường đại học. 19 - Sinh viên: Nếu xét ở góc độ tiếp nhận kiến thức thì sinh viên là khách thể của quá trình dạy - học, còn khi xét ở góc độ thu nhận kiến thức thì sinh viên lại là chủ thể của lượng kiến thức được thu nhận đó. Suy cho cùng, xây dựng môi trường văn hóa trường đại học là cho sinh viên, nhằm tạo lập cho chính họ có được một môi trường học tập, nghiên cứu và rèn luyện thuận lợi nhất để phát huy năng lực của mình.Theo đó sinh viên là bộ phận đông đảo nhất và là nhân tố tích cực và quyết định nhất trong toàn bộ quá trình xây dựng, duy trì và củng cố chất lượng, hiệu quả của môi trường văn hóa trường đại học. - Cán bộ, viên chức, ngƣời lao động: Cán bộ có thể là những người tham gia công tác quản lý mà không trực tiếp giảng dạy, có thể vừa giảng dạy vừa phụ trách một mảng hoạt động, một bộ phận nhất định trong cơ cấu trường học. Nhân viên có thể là những người làm những công việc chuyên biệt ở các khoa, phòng, ban, trung tâm hoặc bộ phận nhân viên bảo vệ... có trách nhiệm g n với công việc được giao. Như vậy có thể nói cán bộ, công nhân viên cũng là một nhân tố rất quan trọng góp phần xây dựng và nâng cao chất lượng môi trường văn hóa nhà trường ở trường đại học. Tuy nhiên, có thể thấy được rằng chủ thể của môi trường văn hóa cũng chính là khách thể vì con người là nhân tố quan trọng tạo ra môi trường văn hóa và quyết định đến chất lượng của môi trường văn hóa, cũng chính môi trường văn hóa này tác động, cải biến hướng con người đến những giá trị và chuẩn mực xã hội. 1.3.2. Khách thể của môi trƣờng văn hóa trƣờng đại học - Hệ thống các giá trị môi trƣờng văn hóa trƣờng đại học Giá trị là những tư tưởng bao quát, được tin tưởng mạnh mẽ chung cho một nhóm người, một cộng đồng người, một giai cấp, một dân tộc, một thời đại về cái gì đó được coi là điều đúng, điều sai, điều thiện, điều ác, điều hợp lý, điều không hợp lý, điều xấu, điều tốt, điều mong muốn hoặc không đáng mong muốn. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan