Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xây dựng mô hình quản lý khai thác khu du lịch chùa hương...

Tài liệu Xây dựng mô hình quản lý khai thác khu du lịch chùa hương

.DOC
64
104
139

Mô tả:

LỜI NÓI ĐẦU Chùa Hương! hai tiếng ấy dường như đã quá đỗi gần gũi mà thiêng liêng với tất thảy mỗi người Việt Nam, để rồi: "Chẳng đi thì nhớ thì thương Ra đi mến cảnh chùa Hương không về" Nhưng Hương Sơn không chỉ là một chốn non kỳ thuỷ tú, là danh thắng biệt chiếm "nhất Nam thiên". Mà nơi đây còn là cội nguồn của các tín ngưỡng dân gian, là cõi tâm linh huyền ảo, một trong những trung tâm lớn nhất của Phật giáo Việt Nam đương đại. Theo như Phật tích còn lưu lại cho đến nay thì đây là nơi lưu dấu Đức Quan Thế Âm Bồ Tát ứng thân làm công chúa Diệu Thiện con vua Diệu Trang Vương đã tẩy bụi trần tại suối Giải Oan rồi tu hành đắc đạo tại Hương Tích Bảo Động, trở thành bà mẹ độ lượng, bao dung cho mọi sinh linh mà ngày nay linh tượng của người còn lưu lại ở nơi đây mà dân gian vẫn gọi là Bà Chúa Ba. Theo những tư liệu lịch sử cho thấy chùa Hương có thể đã ra đời từ thời Lê Thánh Tông niên hiệu Quang Thuận thứ 8 (1476). Khi đi tuần phú phương Nam ngài đã nghỉ ở chốn này và cho đến khi Tĩnh đô vương Trịnh Sâm xa giá đến đây vào năm Canh Dần (1770) thì ông đã khẳng định đây chính là "Nam Thiên đệ nhất động" và cho tạc vào cửa động dòng chữ này. Để rồi cùng với tạo hoá, con người đã góp công cho chùa Hương trở thành một quần thể kiến trúc nguy nga tráng lệ giữa ngàn non mà có "cao chất ngất mấy toà cổ soái". Nhưng đáng tiếc thay, trải qua bao dâu bể thăng trầm giặc ngoại xâm bao lần gây binh lửa can qua, xoá đi bao công trình tú lệ. Nhưng không vì thế mà "Hương Tích" ngớt hương thơm, ngược lại hàng năm chùa Hương vẫn rộng mở thiền môn đón hàng chục vạn chúng Phật tử hành hương về đất phật. Tạo ra một lễ hội tôn giáo lớn và kéo dài bậc nhất ở nước Nam ta và cũng là lễ hội dài hiếm thấy trên thế giới. Đây chính là cơ hội lớn cho ngành du lịch nước nhà, vì thế từ nhiều năm nay khu danh thắng di tích Hương Sơn đã được đưa vào khai thác phục vụ ngành du lịch, là một trong những địa chỉ quan trọng trên bản đồ du lịch Việt Nam. Tuy nhiên cũng 1 như hầu hết các điểm du lịch khác, nhiều tiềm năng của khu danh thắng Hương sơn chưa được khai thác hoặc khai thác chưa đúng mức, nhiều giá trị về tín ngưỡng, tâm linh, khảo cổ học, dân tộc học… còn chưa được biết đến. Trong khi đó, nhiều vấn đề đặt ra đã ở mức báo động. Vì vậy, đề tài “Xây dựng mô hình quản lý khai thác khu du lịch Chùa Hương” là một đề tài mới mẻ và có nhiều ý nghĩa thực tiễn. Qua đó người viết muốn góp một cái nhìn nhỏ bé cho sự phát triển của khu danh thắng này trong quá trình chuẩn bị cho việc đề nghị trở thành di sản văn hoá thế giới. Cũng nhân đây, người viết xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Tiến sĩ Trần Nhạn, các thầy cô giáo thuộc trường đại học Văn hoá Hà Nội, Sở du lịch Hà Tây, Ban tổ chức lễ hội chùa Hương, Ban quản lý thư viện quốc gia – TT Thông tin Khoa học Xã Hội và Nhân văn, các cơ quan tập thể và cá nhân đã giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận này 2 A. PHẦN MỞ ĐẦU. 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại cũng như nền kinh tế trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong cuộc sống con người. Trong xu thế mới, với mong muốn hiểu biết về văn hoá, nâng cao dân trí, tiếp nối truyền thống thì niềm khát khao được đi du lịch để tìm hiểu và tận mắt chứng kiến các di tích lịch sử, các phong cảnh hữu tình ngày càng mạnh mẽ hơn. Đây cũng chính là một động lực chủ yếu thúc đẩy du lịch phát triển. Du lịch Việt Nam với khẩu hiệu “ Việt Nam - điểm đến của thiên niên kỷ mới” sẽ cố gắng để tạo được các sản phẩm du lịch có chất lượng cao vừa mang tính dân tộc, vừa mang tính hiện đại, có sức hấp dẫn lớn đối với du khách trong và ngoài nước. Du lịch Hà Tây cũng không nằm ngoài guồng máy đó. Đặc biệt, Chùa Hương là một trong những tài sản du lịch vô giá của Hà Tây nói riêng và của Việt Nam nói chung. Đây là một quần thể di tích và danh lam thắng cảnh nổi tiếng, bao gồm một hệ thống hang động, đền chùa xen lẫn trong rừng núi, hoa lá cỏ cây ở một vùng văn hoá đặc sắc với các lễ hội và phong tục nếp sống sinh hoạt đặc trưng của làng quê Việt Nam. Đây còn là miền đất của đạo Phật với nhiều truyền thuyết mang ý nghĩa tôn giáo đặc biệt là lễ hội chùa Hương có sức hấp dẫn đặc biệt với người dân Việt ở mọi miền đất nước. Có thể nói, khu Du lịch thắng cảnh chùa Hương là một bức tranh “ sơn thuỷ hữu tình” rất đep, rất nên thơ do thiên nhiên và con người tạo dựng. Chẳng thế Chùa Hương đã được thi sĩ Tản Đà phác họa bằng bốn câu thơ : “ Chùa Hương trời điểm lại trời tô Một bức tranh tình trải mấy thu Xuân lại xuân đi không dấu vết Ai về ai nhớ vẫn thơm tho” Theo Quy hoạch tổng thể phát triển Việt Nam nói chung và Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Hà Tây nói riêng thời kì 1995 ( 2010 đã xác định Chùa Hương 3 là điểm Du lịch quan trọng có ý nghĩa quốc gia và Quốc tế ở khu Du lịch Bắc Bộ. Do cách Hà Nội không xa và tương đối thuận lợi trong giao thông, chùa Hương là một trong những điểm du khách quốc tế quan tâm hàng đầu khi đặt chân đến thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, việc khai thác các hoạt động du lịch ở Chùa Hương thực sự vẫn chưa tương xứng với những tiềm năng to lớn về tài nguyên nhân văn và tự nhiên của khu vực. Trong những năm gần đây đã xuất hiện nhiều vấn đề cần quan tâm nghiên cứu một cách nghiêm túc trước những thực trạng đang đặt ra đối với vấn đề phát triển của khu du lịch. Một trong những vấn đề bức xúc kìm hãm sự phát triển của Chùa Hương là cho đến nay khu Du lịch thắng cảnh chùa Hương vẫn chưa tìm được mô hình quản lý phù hợp làm cơ sở cho sự phát triển của khu vực. Việc xây dựng một mô hình quản lý khai thác tài nguyên khu Du lịch chùa Hương là một yêu cầu cấp thiết mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao không chỉ đối với sự phát triển của du lịch Hà Tây mà còn góp phần tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Ngoài ra, sự phát triển bền vững của khu Du lịch thắng cảnh chùa Hương còn đáp ứng được yêu cầu chiến lược, phát triển trung tâm Du lịch Hà Nội và phụ cận, cũng như của vùng Bắc Bộ và Du lịch cả nước. Với những lý do trên, được sự giúp đỡ tận tình của TS. Trần Nhạn cùng các thầy cô giáo khoa Văn hoá du lịch trường ĐH Văn Hoá, ban lãnh đạo, các chuyên viên tại Sở du lịch Hà Tây em đã mạnh dạn chọn vấn đề: “ Xây dựng mô hình quản lý khai thác khu du lịch Chùa Hương” làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp của mình. 2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU. - Đối tượng: Mô hình quản lý khai thác tài nguyên khu Du lịch - thắng cảnh – lễ hội chùa Hương. - Phạm vi nghiên cứu: + Về không gian lãnh thổ: Đề tài có giới hạn phạm vi nghiên cứu trong khu vực địa bàn xã Hương Sơn và các xã liền kề, và một số đặc điểm chung khu vực huyện Mỹ Đức. Nhưng chủ yếu tập trung vào khu di tích thắng cảnh, lễ hội chùa 4 Hương đặc biệt là một số khu quan trọng như Đền Trình, động Hương Tích... + Về thời gian : Phân tích dựa trên cơ sở số liệu theo báo cáo tổng kết các năm 1997 đến năm 2003 và dự báo phát triển toàn khu đến năm 2010 + Nội dung: Mô hình quản lý hiện tại và giải pháp cho tương lai. 3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU. - Mục tiêu chung: Xây dựng một mô hình quản lý tối ưu cho khu Du lịch chùa Hương phù hợp với vị trí tiềm năng phát triển, trở thành khu Du lịch Văn hoá có sức hấp dẫn đặc biệt của Hà Tây nói riêng và của trung tâm Du lịch Hà Nội và phụ cận nói chung. - Mục tiêu cụ thể: + Đánh giá đúng tiềm năng của khu Du lịch chùa Hương + Nghiên cứu xem xét hiện trạng phát triển chùa Hương (1997 - 2003) đặc biệt là những mô hình tổ chức quản lý khai thác tài nguyên khu Du lịch chùa Hương, tìm ra những mặt đã đạt được cần phát huy và những mặt hạn chế tồn tại cần khắc phục. + Đề xuất một mô hình quản lý khai thác mới cho khu Du lịch chùa Hương nhằm khắc phục những hạn chế đến sự phát triển du lịch, phát huy được tiềm năng, lợi thế để có thể phát triển đa dạng và bền vững. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. Nhằm thực hiện những mục tiêu đã đặt ra ở trên trong quá trình thực hiện tuỳ theo từng giai đoạn công việc khác nhau, các phương pháp được sử dụng thích hợp bao gồm các phương pháp sau: Duy vật lịch sử, duy vật biện chứng, phương pháp thu nhập số liệu (thứ cấp, sơ cấp), phương pháp khảo sát thực địa, thống kê, phân tích, tổng hợp. 5. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI. Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài nghiên được bố cục làm 3 chương: Chương 1: Khái quát về khu Du lịch chùa Hương. Chương 2: Thực trạng phát triển Du lịch và tổ chức quản lý khai thác tài nguyên khu Du lịch chùa Hương. Chương 3: Một số kiến nghị xây dựng mô hình quản lý khai thác tài nguyên 5 khu Du lịch chùa Hương. B. PHẦN NỘI DUNG. CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ KHU DU LỊCH CHÙA HƯƠNG. 1.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ CỦA KHU DU LỊCH CHÙA HƯƠNG. Khu Du lịch thắng cảnh chùa Hương bao gồm phân giới hành chính của 4 xã Hương Sơn, An Tiến, Hùng Tiến và An Phú thuộc huyện Mỹ Đức tỉnh Hà Tây, với diện tích 5131 ha. Khu Du lịch chùa Hương nằm trong toạ độ địa lý từ 20 029' đến 20024' vĩ độ Bắc và 105041' kinh độ Đông. Phía Nam giáp tỉnh Nam Hà, phía Bắc và Đông thuộc tỉnh Hà Tây, phía Tây giáp tỉnh Hoà Bình. Khu Du lịch thắng cảnh chùa Hương cách Hà Nội về phía Tây- Nam khoảng 60km. 1.2. ĐIỀU KIỆN DÂN SỐ VÀ LỊCH SỬ. 1.2.1. Dân số. Khu Du lịch Hương Sơn nằm ngay trong khu dân cư bao gồm 4 xã Hương Sơn, An Tiến, Hùng Tiến, An Phú. Trong đó Hương Sơn là xã đông dân cư nhất với gần 7000 hộ có 32.210 nhân khẩu.Đây là vùng đất nông nghiệp nên nhân dân chủ yếu sống bằng nghề nông. Khi vào hội nhân dân trong vùng tập chung chủ yếu là phục vụ khách du lịch. Nhân dân xã Yến Vĩ chủ yếu sống bằng nghề chèo đò còn các xã khác chủ yếu là bán hàng lưu niệm hoặc gánh hàng thuê cho khách. 1.2.2. Lịch sử chùa Hương. Theo Phật Thoại thì đây là nơi Đức Quan Thế Âm Bồ Tát tu hành đắc đạo . Bồ Tát đã ứng thân làm công chúa Diệu Thiện, con vua Diệu Trang Vương ở nước Hưng Lâm, tu hành trong 9 năm trong động Hương Tích. Khi đắc đạo rồi Người trở về chữa bệnh cho cha ,trừ nghịch cho đất nước và phổ độ chúng sinh. 6 Khi câu chuyện này được truyền bá ra, các thiền sư , cổ đức đã chống gậy tích tới đây, nhàn du mây nước. Kết quả ba vị hoà thượng đời vua Lê Thánh Tông (14421497) đã tìm thấy động Hương Tích và dựng lên thảo am Thiên Trù . Kể từ đó động Hương Tích thường được gọi là Chùa Trong, Thiên Trù được gọi là Chùa Ngoài, rồi người ta lấy tên chung cả hai chùa và cả khu vực là Chùa Hương, hay “Hương Thiên Bảo Sái”. Hương Tích có nghĩa là dấu vết thơm tho, ý nói đây từng là nơi tu hành của Bồ Tát Quan Thế Âm, còn Thiên Trù đọc theo âm Hán Việt nghĩa là Bếp Trời, vì chùa nằm trong khu vực ứng với một ngôi sao chủ về việcẩm thực. Do đó nói đi trẩy hội Chùa Hương tức là đi chiêm bái cả khu vực Hương - Thiên của vùng núi Hương Sơn. Hàng năm có mấy chục vạn lượt người hành hương tới đây để dâng lên đức Phật một lời nguyện cầu, một nén tâm hương hoặc thả hồn bay bổng hoà quyện với thiên nhiên ở vùng rừng núi thơm tho in dấu Phật này. Kể từ khi vua Lê Thánh Tông đi tuần thú Phương Nam lần thứ II và chư vị Liệt Tổ chống tích trượng khai sơn phát hiện đến nay. Trải qua mấy trăm năm với chiều sâu lịch sử và bề dầy truyền thống văn hoá đã tô bồi cho vùng thiên nhiên hùng vĩ này một bức tranh “kỳ sơn tú thuỷ”. Dãy núi đã bị sự xâm thực lâu đời của thiên nhiên nên mạch nước khoét núi đã tạo thành nhiều hang động với nét đẹp tự nhiên. Năm 1687 hoà thượng Trần Đạo Viên Quang mới chống thiền trượng hoằng truyền và xiển dương đạo Phật khiến vùng này trở thành nơi linh sơn phúc địa. Đến đầu năm 1947 chùa Hương đã trải qua 9 đời tổ sư nối tiếp xây dựng và luôn được sự ủng hộ của thiện tín muôn phương và nhân dân sở tại. Ngày 17/02/1947 giặc Pháp đã tàn phá Thiên Trù và Tiên Sơn nhưng sau hoà bình lập lại với sự chỉ đạo của nghành văn hoá và chủ trương đúng đắn của nhà nước, thắng cảnh chùa Hương không những được khôi phục mà ngày càng được mở rộng và phát triển đến hôm nay. 1.3. TÀI NGUYÊN DU LỊCH CHÙA HƯƠNG. Toàn bộ khu thắng cảnh là một bức tranh toàn mỹ cả về bố cục lẫn màu sắc, nội dung và đường nét. Âm hưởng chính của bức tranh ấy là sự hoà quện của đạo với đời, của thiên nhiên hoang sơ với bóng dáng con người. Hàng năm Chùa Hương đón 7 tiếp đông đảo nhân dân ở các mọi miền đất nước, kiều bào ở nước ngoài và khách quốc tế đến thăm. Trong tâm trí của mỗi người dân Việt Nam, Chùa Hương được coi là báu vật của quốc gia, một tài sản vô giá của hôm qua, hôm nay và mai sau. Đây là nơi hội tụ của những giá trị to lớn về tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn đã khiến Chùa Hương trở thành điểm du lịch nổi tiếng trong và ngoài nước. 1.3.1. Tài nguyên Du lịch tự nhiên. 1.3.1.1. Vị trí địa lý. Vị trí địa lý của Du lịch chùa Hương có lợi thế hơn hẳn các điểm Du lịch khác. Từ thủ đô Hà Nội hoặc các tỉnh đồng bằng có thể liên hệ thuận tiện với khu Du lịch bằng đường bộ, đường sông. Ngoài ra, nơi dừng chân của khách quốc tế ở khu vực phía Bắc thường là Hà Nội nên chùa Hương chính là điểm thu hút khách tới tham quan để tìm hiểu phong tục tập quán của người Việt Nam cũng như tín ngưỡng Phật Giáo. Đây là điểm du lịch văn hoá, tham quan, nghiên cứu có ý nghĩa quốc gia và quốc tế, không chỉ đối với Hà Tây mà còn với trung tâm du lịch Hà Nội và phụ cận, vùng du lịch Bắc Bộ. 1.3.1.2. Địa hình, địa mạo, địa chất. Khu Du lịch chùa Hương thuộc phần cuối của dẫy núi đá vôi kéo dài từ Lan Nhi Thăng, cao nguyên Sơn La, cao nguyên Mộc Châu, vùng đá vôi Hoà Bình - Ninh Bình đến tận bờ biển Nga Sơn - Thanh Hoá, với độ cao từ 1444m (đỉnh Bu Lan Nha Thăng) giảm xuống 100m - 300m về phía biển đi xuống. Khu vực này tiếp giáp với châu thổ sông Hồng, đây chính là ranh giới giữa rừng núi, đồng bằng về phía Tây Nam, đồng bằng sông Hồng. Do vậy, dẫy núi Hương Sơn cũng chỉ là núi thấp, đỉnh cao nhất là 381m. Tuy nhiên, do độ chia cắt ngang dày đặc với hệ thống hố rụt, phễu, máng trũng; những dẫy chuỗi, các hố nhỏ riêng biệt dạng tháp và tháp cụt được liên kết với nhau ở mạng phức tạp, các hệ thống khe dòng chẩy, những mảng rừng nhiệt đới gió mùa xen kẽ đã tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về một vùng núi non hùng vĩ, đa dạng cạnh đồng bằng. Địa hình, địa mạo của khu du lịch mang đặc điểm của một thời kỳ chấn động 8 của vỏ trái đất được tạo thành từ thời Triat cách đây xấp xỉ 250 triệu năm. Hiện nay, do quá trình xâm thực, rửa lũ vẫn đang diễn ra nên khối núi Hương Sơn chính là mẫu tiêu biểu cho quá trình địa chất, đã và đang diễn biến. Mang đặc trưng rất rõ nét của karst nhiệt đới ẩm đa dạng về hình thái trong các thung lũng đã tạo thành những phong cảnh trông như viện bảo tàng đá tuyệt đẹp. Khu vực Chùa Hương có ba nhóm dạng địa hình : +Nhóm dạng địa hình nguồn gốc karst xâm thực tích tụ. +Nhóm dạng địa hình nguồn gốc karst. +Nhóm dạng địa hình bãi bồi. Một số hang động dạng karst ngầm đẹp nh Hinh Bồng, Long Vân, đặc biệt Hương Tích được chúa Trịnh Sâm khắc vào động: "Nam thiên đệ nhất động" với chiều dài từ 20-25m, cao 10-15m. Hệ thống núi ở đây không chỉ đẹp ở chiều cao mà còn đẹp ở chiều dầy, chiều rộng ở các quần tụ bố cục nhịp nhàng giữa núi với núi và núi với nước. Những dãy núi ở đây đều có hình dáng độc đáo và có ý nghĩa ở chốn cửa phật như núi mâm xôi với hình ảnh mâm xôi con gà hay núi voi phục mang vẻ đẹp tự nhiên của tạo hoá. Đánh giá chung về địa hình, địa mạo khu vực Chùa Hương cho thấy đây là nơi có địa hình núi thấp xâm thực nhưng nằm ngay cạnh đồng bằng, có phong cảnh “sơn thuỷ hữu tình” có lợi thế rất lớn về mức độ hâp dẫn du khách. 1.3.1.3. Khí hậu, thời tiết. Khí hậu thời tiết luôn là yếu tố ảnh hưởng lớn tới khách du lịch. Chính khí hậu tạo ra từng loại thời tiết và định ra mùa du lịch. Khu du lịch chùa Hương nằm hoàn toàn trong vành đai khí hậu nóng, hàng năm có hai lần mặt trời đi qua thiên đỉnh. Đặc biệt với lễ hội chùa Hương thì thời tiết mùa xuân là quan trọng vì nó trực tiếp tác động tới hoạt động của lễ hội. Thòi tiết mùa xuân với nhiệt độ dễ chịu 16200C. Mặt trời chuyển dịch lên cao,nắng xuân ấm dịu. Mưa chủ yếu là mưa bay, mưa bụi, mưa phùn lên một màn trắng hư ảo, mong manh trước cổng chùa và trên cả núi rừng Hương Sơn. Đó là yếu tố thuận lợi cho khách vì khách sẽ cảm thấy bầu không khí khác lạ, yên tĩnh, tôn nghiêm, linh thiêng và phần nào bớt mệt khi leo núi. 9 - Tổng nhiệt độ đạt từ 80000C – 85000C/năm. Nhiệt độ trung bình năm là 23.30C/năm. Một năm chia làm hai mùa nóng lạnh rõ rệt. Thời kỳ nóng nhất nhiệt trung bình là 270C . Thời kỳ lạnh nhất có nhiệt độ trung bình 18 0C. Thời kỳ tháng 3,4,9,10,11 tương đối thích nghi với sức khoẻ con người thuận lợi cho tham quan, nghỉ dưỡng. Chế độ gió nói chung không gây tác động xấu đến sức khoẻ con người, tạo độ thông thoáng vừa phải tương đối thuận lợi cho các hoạt động tham quan Du lịch, nghỉ dưỡng. - Chế độ bức xạ nắng,mây, mưa tương đối thích nghi với sức khoẻ con người thuận lợi cho hoạt động tham quan nghỉ dưỡng. - Lượng mưa trung bình 1800-2000mm /năm với ngày mưa 140-150 ngày/năm ở ngưỡng thích hợp đến khá thích hợp .Tuy có lượng mưa nhiều nhưng số ngày mưa không quá cao do vậy ít cản trở đến hoạt động tham quan du lịch ngoài trời. Với số giờ nắng cao và lượng nhiệt như vậy nên ở đây cây cối có thể ra hoa kết quả quanh năm. Các học giả ấn Độ đã đưa ra các chỉ tiêu khí hậu sinh học đối với con người như sau : Bảng 1: Chỉ tiêu khí hậu sinh học đối với con người. Hạng Ý nghĩa Nhiệt độ Nhiệt độ Lượng mưa trung bình trung bình trung bình năm năm (độ C) tháng (độ C) (mm) Biên độ của t0 độ trung 1 2 3 4 5 Thích nghi Khá thích nghi Nóng Rất nóng o K thích nghi 8-24 24-27 7-29 29-32 >32 bình (độ C) 24-27 27-29 29-32 32-35 >35 10 <6 6-8 8-14 14-19 >19 1250-1902 1900-2550 >2550 <1250 <650 (Nguồn : Viện nghiên cứu và phát triển du lịch) Qua bảng số liệu trên và tình hình khí hậu khu du lịch Chùa Hương ta thấy khí hậu ở đây thuộc vào loại thích nghi và khá thích nghi, phù hợp với sức khoẻ con người. Đây là một trong những yếu tố hấp dẫn thu hút khách du lịch. Trên cơ sở đó khu du lịch cần khai thác triệt để khía cạnh này, một mặt cũng cần có những biện pháp phòng chống những khó khăn do khí hậu gây ra như nhiệt độ vào mùa hè cao, cần có những thiết bị chống nóng trong nhà nghỉ cho khách, hay trồng nhiều cây để lấy bóng mát và tạo cảnh quan thêm đẹp. 1.3.1.4. Thuỷ văn. Để phục vụ cho khách du lịch thì nguồn nước đóng vai trò quan trọng. Nguồn nước ảnh hưởng tới môi trường sống còn lại trong khu vực và phục vụ cho môi trường sinh hoạt vệ sinh của dân c và khách du lịch.Mạng lới thuỷ văn của huyện Mỹ Đức rất phong phú gồm lưu lượng nước của hai con sông lớn: sông Đáy, sông Thanh Hà và hệ thống suối : suối Yến, suối Long Vân … đều do nguồn nước ngầm Karst cung cấp tạo ra dòng chảy quanh năm. Đặc biệt với dòng suối Yến hiền hoà thơ mộng uốn lượn quanh co chạy dài 3km mất khoảng một giờ đi đò đưa du khách đến chùa Thiên Trù để vào động Hương Tích. Không chỉ đóng vai trò là dòng chảy đón đưa du khách mà suối Yến còn tạo cho du khách cảm giác lãng mạn, thả hồn trước cảnh “Sơn thuỷ hữu tình “. Chẳng thế mà Chu Mạnh Trinh đã phải thốt lên khi tới Chùa Hương “ kìa non non, nước nước, mây mây\ Đệ nhất động hỏi rằng đây có phải”. Đây chính là một yếu tố tăng sức hấp dẫn ở Chùa Hương. Theo điều tra nghiên cứu của Viện nghiên cứu và phát triển du lịch thì hệ thống thuỷ văn rất phong phú, với tầng nước ngầm dồi dào sẽ là một điểm mạnh để cung cấplượng nước đảm bảo cho việc khai thác, phục vụ các nhu cầu du lịch, sinh hoạt của khách và dân cư. Bảng 2: Thành phần cán cân nước trong khu vực P (mm) 1900 R(mm) 1083 E(mm) 817 11 α 0.57 ( Nguồn : Viện nghiên cứu và phát triển du lịch) P : lượng nước mưa năm E : lượng bốc hơi năm R : lượng dòng chảy năm α : hệ số dòng chảy Tóm lại, nhìn chung về mặt tài nguyên nước ở khu vực có thể thấy lượng nước trong khu vực là khá đủ, và sạch phục vụ cho nhu cầu du lịch và sinh hoạt .Nhưng do tính chất đặc biệt của cấu tạo địa chất nên cần có những biện pháp khai thác hợp lý để cho môi trường nước luôn trong sạch, góp phần vào phát triển du lịch bền vững ở khu vực. 1.3.1.5. Tài nguyên đất và Sinh vật. *. Tài nguyên đất Khu du lịch Chùa Hương thuộc vùng núi Hương Sơn. một vùng núi trong dãy “Hạ Long cạn” của hệ thống đồi núi sót nổi lên giữa trung tâm Bắc Bộ. Là vùng chuyển tiếp giữa hệ thống đồi núi đá vôi từ Tây Bắc qua Hoà Bình, và bên kia là thềm đồng bằng châu thổ sông Hồng, nên mặc dù có diện tích không lớn (5000 ha) nhưng có sự phân hoá mạnh mẽ của địa hình thổ nhưỡng. Điều này đã tạo cho khu du lịch nhiều danh lam thắng cảnh, đặc biệt là hệ thống hang động trong các núi đá vôi. Với tổng diện tích đất của vùng trên 5000 ha bao gồm 2 dãy núi đá vôi chính, kẹp giữa là thung lũng suối Yến, ngoài ra còn có các đồng bằng và các khu dân cư. Khu du lịch thuộc vùng núi và rừng núi còn rất thấp do chặt phá rừng bừa bãi. Đất chưa sử dụng ở Hương Sơn chiếm tới 53%, đất cho nông nghiệp chiếm 24.5% . Điều này chứng tỏ tài nguyên đất ở đây đang được sử dụng một cách lãng phí. * Sinh vật Sinh vật của khu Du lịch chùa Hương có diện tích 5130 hecta là một quần thể núi rừng, núi đá nguyên sinh những thảm thực vật đa dạng phong phú. Rừng của huyện Mỹ Đức thuộc rừng kín thường xanh, mưa ẩm nhiệt đới. Diện tích rừng toàn huyện là 694 hecta bao gồm rừng tự nhiên và rừng thường. Trước hết, khu vực này là nơi giao thoa của ba luồng thực vật : Bẵc - Việt Nam - Indonêxia, Skim - Malayxia nên hệ thực vật khá đa dạng với đặc trưng cho hệ thực vật đá vôi ở vùng thấp. 12 Theo điều tra thống kê sơ bộ thì nơi đây có khoảng 350 loài thảo mộc, thuộc 92 họ. ở đây có 6 ngành thực vật bặc cao đó là ngành lá thông, ngành tháp bút, ngành thông đất, ngành dương xỉ, ngành hạt trần, ngành hạt kín. Trong rừng có nhiều loại gỗ quý như : lát hoa, thông. bắch, lim …Có những cây cổ thụ sống lẻ loi như cây sang (hoa phớt vàng, quả giống quả bồ kết). Tuy nhiên cây ở đây phần lớn là cây thứ sinh :dẻ, gai, muồng,cây dây leo. Nhiều nhất là cây Quạch. Cũng có nhiều cây làm thuốc như cây ổ rồng vàng chữa bệnh lành xương, củ khúc chữa bệnh tê thấp, củ sâm làm thuốc bổ....Ngoài ra có một lớp phủ thực vật dày đặc mọc ở các ngọn núi như lan, cỏ tranh, cỏ vông....tạo nên một bức tranh thiên nhiên tạo cảm giác khá hấp dẫn du khách du lịch. Đặc biệt khi nói đến tài nguyên thực vật không thể không nhắc tới một số loài cây quý, trong đó có một số loài đang có nguy cơ tuyệt chủng được đưa vào “Sách Đỏ” của Việt Nam. Rừng núi nơi đây còn cung cấp cho con người những đặc sản mà ít ở đâu có được như mơ Hương Tích, canh rau sắng, củ mài chùa Hương. Như vậy khách dến đây không chỉ tham quan ngắm cảnh đẹp mà còn được thưởng thức những món đặc sản của khu du lịch. Đây không chỉ là yếu tố thu hút một lượng khách lớn mà còn tăng thêm nguồn thu cho người dân địa phương. Nhìn chung hệ động vật trong khu vực không đa dạng vê số lượng loài nhưng xét về giá trị tài nguyên của động vật lại khá độc đáo. Nơi đây có những dấu hiệu của một số loài động vật quý hiếm và đặc hữu. Qua điều tra sơ bộ đã phát hiện thú thuộc 17 họ, 7 bộ; 88 loài chim thuộc 37 họ, 15 bộ và 35 loài bò sát thuộc 16 họ, 3 bộ , riêng về côn trùng đã liệt kê được 56 loài. Rừng còn có những loại động vật quý hiếm gà lôi trắng, trăn đất, hoa mai, báo gấm, voọc má trắng, ôrô vảy, kỳ đà nước...là những loài được ghi vào sách đỏ của Việt nam và thế giới 1.3.1.6. Đánh giá chung về tài nguyên Du lịch tự nhiên. - Khu Du lịch chùa Hương thuộc vùng núi Hương Sơn - Mỹ Đức - Hà Tây và nằm cách Hà Nội không xa trên trục đường giao thông thuận tiện nên có vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển Du lịch. Do đặc điểm cấu tạo địa chất nên địa hình ở khu vực khá đa dạng, phong phú, sinh động hấp dẫn du khách với những phong cảnh ngoạn mục. 13 Các điều kiện khí hậu, thời tiết tại khu vực tương đối thuận lợi cho sức khoẻ của con người và các hoạt động Du lịch. Môi trường sinh thái của khu vực khá đa dạng, phong phú phù hợp cho phát triển du lịch sinh thái. Tài nguyên đất của khu vực còn nhiều tiềm năng có thể mở rộng phát triển dịch vụ cho hoạt động Du lịch. - Ngoài ra một yếu tố làm tăng sức hấp dẫn đối với khách du lịch tạo một lợi thế lớn cho du khách chính là mùa lễ hội diễn ra trong thời gian đầu năm khi công việc còn chưa nhiều. Nhiều gia đình tới lễ hội trong tâm hồn thanh thản hy vọng một ngày mai tốt đẹp hơn. Đặc biệt đây là thời điểm vẫn còn dư âm của đầu năm con người vẫn quyến luyến sức xuân tươi đẹp Như vậy, khu Du lịch chùa Hương là khu vực có tiềm năng tài nguyên du lịch tự nhiên dồi dào nếu được quan tâm thích đáng và việc quản lý khai thác hợp lý thì chắc chắn nơi đây sẽ là điểm Du lịch hấp dẫn của nước ta và nổi tiếng trên thế giới. 1.3.2. Tài nguyên Du lịch nhân văn. Huyện Mỹ Đức là một vùng văn hoá đặc sắc với các lễ hội và nếp sống thuần khiết của nông thôn Việt Nam đặc biệt là vùng phía Nam huyện Mỹ Đức là một chiếc nôi văn hoá, cội nguồn tâm linh và đạo lý cổ truyền dân tộc. Một vùng đất Phật trong lành nhiều huyền thoại, tín ngưỡng dân dã. 1.3.2.1. Lễ hội chùa Hương. Lễ hội chùa Hương là tài nguyên nhân văn thu hút du khách không kém gì tài nguyên thiên nhiên mà điêù hấp dẫn khách nước ngoài khi đến Việt nam là các lễ hội. Đến đây họ có thể tìm hiểu về văn hoá, tập tục, tín ngưỡng....của dân tộc ta. Trong dịp hội hàng năm đã có tới 4 - 5 chục vạn lượt người về đây vãn cảnh hành hương về miền đất Phật. Người chưa đi thì mong mỏi sẽ đi, người đi rồi thì vẫn muốn đi nữa vì say mê với cảnh “ hương trời sắc núi , cảnh bụt trời tiên”. Hội chùa Hương hàng năm được tổ chức bắt đầu tưừ ngày mùng 6 tháng 2 và kéo dài đến hết tháng 3 âm lịch. Đây là lễ hội kéo dài nhất và thu hút lượng khách đông nhất trên toàn quốc. Lễ hội tập chung vào dịp đầu xuân khi công việc còn chưa 14 bận rộn và mọi người đang còn trong không khí vui xuân của ngày tết. Hội Chùa Hương có từ xa xưa là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hoá độc đáo như hội bơi thuyền, leo núi, hát văn....Đến với lễ hội du khách có được dịp chứng kiến tham dự vào không khí sinh hoạt của hội làng, cảm nhận được tinh thần hồi âm về quá khứ của tổ tiên của một làng ven sông kề núi, sẽ thấy hiện ra bóng dáng lịch sử dân dân tộc. Ngoài ra, quanh năm khu du lịch chùa Hương còn hấp dẫn khách trong và ngoài nước đến để chiêm ngưỡng và tìm hiểu văn hoá, tập tục tín ngưỡng của dân tộc ta. 1.3.2.2. Các di tích văn hoá. Tháng 3 năm Canh Dần (1770) trong một chuyến du xuân, Chúa Trịnh Sâm đã khắc vào đá 5 chữ "Nam thiên đệ nhất động" – Nghĩa là Động đẹp nhấ trời Nam -trước cửa động Hương Tích. Cách đây 2000 năm toàn bộ vùng núi Hương Sơn là rừng tự nhiên bao phủ. Đó là một nơi luyện võ của nhiều anh hùng hào kiệt nước ta chống giặc ngoại xâm, cũng từng là con đường tiến quân của Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng, vua Quang Trung mà hiện nay còn để lại nhiều dấu tích. Khu Du lịch chùa Hương gắn liền với truyền thuyết về Phật Bà Quan Âm tụ tại động Hương Tích đã mang lại cho chùa Hương một ý nghĩa tôn giáo to lớn đồng thời cũng là nơi thể hiện mong ước của người dân Việt nam . Khu Du lịch chùa Hương là một quần thể các chùa như chùa Giải Oan, chùa Thiên Trù, Chùa Long Vân, Suyết Sơn, đền Trình... mỗi ngôi chùa lại có một nét độc đáo riêng: Chùa Tiên Sơn : Có 5 pho tượng đá trắng như ngọc, nơi đây thờ bà chúa Ba, nàng công chúa hiếu hạnh nhân từ, xuất thế tu hành để chuộc tội cho chưa. Người thợ tạc tượng đã mô tả những nét bình dị và đôn hậu của nhân gian qua hình ảnh nhân vật trong tượng. Chùa Giải Oan với ao trong thiên nhiên chứa nước mạch trong núi chảy ra rất trong và mát. Theo truyền thuyết nơi đây bà chúa Ba đã tắm gội để giũ sạch bụi trần. Gần chùa giải oan có am phật tích nơi lưu giữ dấu chân phật bà khi bước từ trên lng hổ xuống. Đền Trình, suối Tuyết có nhiều cây cổ thụ và ở bên ngoài có một tượng mãnh 15 hổ trạm bằng đã rất đẹp Động Tuyết Sơn còn có ngôi chùa ở sâu trong dưới đất còn gọi là chùa Âm. Xa kia vào lúc đêm khuy thường có tiếng chuông , tiếng mõ vang lên người ta cho rằng đây là hầm bí mật của nghĩa quan Tuyết Sơn . Trong hcùa còn có tượng Phật Bà đẽo gọt rất công phu. Trong đó nổi bật nhất là Hương Tích, một động được chính chúa Trịnh Sâm khắc lên trước cửa động : “Nam thiên đệ nhất động”. Không chỉ có những vẻ đẹp của thiên nhiên tạo hoá ban cho mà còn có những công trình điêu khắc tuyệt đẹp. Giá trị nhất về mặt điêu khắc ở đây là pho tượng Phật Bà Quan Âm bằng đá xanh tạc vào thời Tây Sơn vào năm Quý Sửu (1873). Khác với ớc lệ có sãn về tượng phật Bà mặt vàng tai to...mà một phần dựa vào chân dung của bà Chúa Ba một phần rút từ những nét đẹp của con người nên pho tượng có dáng người thon, mặt hơi trái xoan, thanh tú đầu đội mũ l (mũ Bồ Tát ) lại búi tóc tạo nét đặc sắc riêng thu hút khách du lịch. Phật hiện thân trong tín ngưỡng thờ đá, dân quen gọi là Bụt mọc. Sức mạnh huyền diệu của Phật Pháp đồng nhất với linh hồn thiêng liêng trong những măng đá, nhũ đá có hình thù kỳ lạ sẽ truyền cho các tín đồ niềm tin,sản sinh sinh ra năng lượng, tăng thêm sức mạnh cho mỗi người. Chốn cảnh bồng lai lại xuất hiện khát vọng rất phồn thực của con người cầu mong sự sinh sôi nảy nở ước muốn đầy đủ. Dưới góc độ văn hoá dân gian, chùa Hương mang màu sắc cầu may (cầu may trong làm ăn, cầu con cái) .... 1.3.2.3. Các di tích khảo cổ. Các di tích khảo cổ học tiền sử và sơ sử ở Chùa Hương bao gồm một số di tích thuộc văn hoá Hoà Bình cách đây trên dưới một vạn năm và một số địa điểm thuộc thời đại đồ Đồng. Những di tích khảo cổ học này mới được phát hiện trong thời gian hơn chục năm trở lại đây, vả lại, nó chủ yếu nằm trên một tuyến chùa thuộc tuyến Long Vân Đục Khê (còn gọi là chùa Hinh Bồng mới bến Đục Khê hay chùa Hinh Bồng cũ bến Yến Vĩ) nên cũng mới chỉ một số ít người biết tới và cũng chưa được tổ chức để đông đảo khách tới tham quan các di tích khoa học này. 16 - Hang Sũng Sàm: được khai quật tháng 3 năm 1975 do đoàn khảo cổ khoa sử trường Đại học Tổng hợp. - Hang chùa Mới: hang này đã bị cải tạo song trên vách hang còn sót lại lớp trầm tích sét vôi bở vụn, ở đây đã tìm thấy di tích xương thú, vỏ nhuyễn thể và một cái chầy nghiền bằng đá. - Hang Sập Bon: là một di tích dưới mái đá nhỏ thuộc núi Bon là một quả núi lẻ nằm phía ngoài chùa Long Vân. - Hang Thanh Sơn: nằm dưới chân núi Thanh Sơn, qua cầu Hội, băng qua đồng trũng Hội Xá thì đến hang này. Hang này có chứa di tích nhưng đã bị cải tạo làm chùa. Di tích khảo cổ chỉ còn thấy ở các lớp kết tầng trên vách và lớp vỏ ốc trên mặt hang. - Hang Luộn: từ núi Thanh Sơn, vượt qua núi Cật Trúc sẽ tới thung lũng, băng qua bên trái lũng sẽ thấy hang Luộn. Đây là một hang to, rộng đã bị cải tạo làm chùa. Trong chùa có thể thấy vết tích của tầng văn hoá còn lại, có nơi lộ rõ dầy tới 2m. trên nền và vách hang đã thu lượm được nhiều hiện vật đá cuội kiểu Hoà Bình. Dẫy núi Hương Sơn là vùng cư trú của người xa. Trước kia người ta đã tìm thấy nhiều hiện vật thời đồ đá và đồ đồng. Gần đây dưới sự nghiên cứu của Viện khảo cổ đã phát hiện và khai quật các di tích văn hoá ở các hang Sũng Sàm , Sập Bom, động chùa Thanh Sơn, hang Luôn ở chùa Hương Đài. Các di tích khảo cổ thời tiền sơ sử ở một số hang động trên bao gồm một số đồ vật thuộc nền văn hoá Hoà Bình có niên đại dưới một vạn năm, với nhiều đồ đá cuội ghè đẽo, công cụ mài lưỡi, rìu xương mài lưỡi, mảnh gốm thô và cả di cốt người tiền sử, họ đã hái lượm săn bắn làm nguồn sống chính và cũng là bước dạo đầu của nền nông nghiệp nông sản xuất. Ngoài ra, còn có rất nhiều ngôi chùa mang đầy vẻ huyền bí, cuốn hút người dân Việt Nam, một dân tộc luôn hướng về cái thiện mong muốn cuộc sống tốt đẹp hơn, có lòng tin và luôn hướng về cội nguồn. 1.3.2.4. Đánh giá chung về tài nguyên Du lịch nhân văn. Vùng đất này không chỉ là vùng đất có ý nghĩa dành riêng cho Phật giáo mà còn là vùng chứa đựng tinh thần văn hoá sâu sắc của dân tộc Việt Nam và toàn thế 17 giới. Đây là khu đặc trưng cho Phật giáo không chỉ ở vùng Bắc Bộ Việt Nam mà còn tất cả khu vực Đông Nam á và toàn thế giới. Chùa Hương là cơ sở hàng đầu hiếm thấy cho sự phát triển của Du lịch Việt Nam bởi vì sự kết hợp giữa thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng kết hợp với tài nguyên kinh tế - xã hội, nhân văn đặc sắc và đa dạng. 1.4. CÁC LOẠI HÌNH DU LỊCH Ở KHU DU LỊCH CHÙA HƯƠNG. Khu Du lịch chùa Hương là nơi hội tụ những giá trị to lớn về tài nguyên Du lịch thiên nhiên và nhân văn vô cùng hấp dẫn với khách du lịch. Tuy nhiên, tài nguyên Du lịch dồi dào đó còn chưa được khai thác để có hiệu quả cao. Từ trước tới nay, ngoài Du lịch lễ hội là loại hình Du lịch tham quan đã được áp dụng những chủ yếu là tham quan các di tích văn hoá, chùa, đình gắn liền với truyền thuyết Phật giáo của vùng này mà chưa khai thác được những thế mạnh sẵn có mà thiên nhiên ưu đãi bằng cách phát triển đa dạng các loại hình du lịch, các tuyến du lịch phong phú và hấp dẫn. Dựa vào các tài nguyên Du lịch của khu vực, kết hợp với việc bảo vệ môi trường, cảnh quan và coi trọng giá trị tinh thần (ý nghĩa tâm linh của khu vực), có thể xây dựng những loại hình du lịch với các mục đích sau: 1.4.1. Du lịch lễ hội. Trong hình thức này mục đích chủ yếu đi sâu vào thực hành tôn giáo, tín ngưỡng của đạo Phật. Khách đi lễ hội phần lớn để cầu tài, cầu lộc, cầu tự, sám hối cho gia đình và bản thân được thanh thản trước cử Phật. 1.4.2. Du lịch tham quan. Là hoạt động Du lịch nhằm đáp ứng được nhu cầu mong muốn được tìm hiểu nâng cao nhận thức của con người tại các khu vực khác nhau trong khu du lịch. - Khu vực 1: Tại các vùng đỉnh núi đá vôi với hệ sinh thái rừng thứ sinh tuy các cây gỗ lớn đã ít nhiều bị chặt phá nhưng sinh cảnh rừng vẫn rất thích hợp phục vụ du khách có nhu cầu quan sát, tham quan, nghiên cứu sinh cảnh rừng. - Khu vực 2: Tại các vùng đỉnh núi đá vôi với hệ thống sinh thái cây bụi bỏ hoang có thể tạo quang cảnh đẹp vừa phục vụ tham quan ngắm cảnh và thưởng thức 18 những đặc sản của vùng đá vôi như: mơ, mận,... Khu du lịch này không chỉ tăng sức hấp dẫn thu hút khách mà còn đem lại hiệu quả kinh tế cao - Khu vực 3: Tại các vùng có bề mặt đỉnh khá bằng phẳng cùng lợi thế dáng vẻ cheo leo và tầm quan sát rộng để ngắm nhìn trời đất bao la ngắm ban mai, hoàng hôn… cùng hình ảnh các sư gia ngồi thiền nhập đạo ở các bãi đá bằng phẳng để giúp du khách hiểu biết thêm về đạo Phật với tiềm thức trở lại với cội nguồn. - Khu vực 4: Tại các thung lũng karst với rừng thứ sinh phục vụ cho tham quan, ngắm cảnh, khoa học. - Khu vực 5: Tại các khu vực có bề mặt nước giúp khách có thể đi tham quan cảnh quan mặt nước thơ mộng giữa hai sườn núi "sơn thuỷ hữu tình". 1.4.3. Du lịch Thám hiểm. Với lợi thế chiều cao của các đỉnh núi và sự đa dạng của thảm thực vật bao phủ có thể phát triển Du lịch leo núi cho các du khách thích cảm giác mạnh, bị chinh phục bởi dáng vẻ cheo leo, hiểm hóc của các đỉnh núi đá vôi. 1.4.4. Du lịch Nghỉ dưỡng. Trên các bậc thềm ở chân núi hoang tại các vùng ven hồ - các đảo nổi - đầm nước có thể xây dựng các khu nghỉ dưỡng với các mô hình kiến trúc hoà hợp với du khách để có thể nghỉ ngơi, thư giãn trong khung cảnh sông núi bao quanh, hoà mình với thiên nhiên. 1.4.5. Du lịch Thể thao. Đây là khu vực có địa hình đa dạng và phong phú nên có thể phát triển các loại hình thể thao thích hợp để phục vụ nhu cầu ngày càng cao của du khách như leo núi, chạy trong rừng, đi dã ngoại, cỡi ngựa… 1.4.6. Du lịch Vui chơi, giải trí. Tại các khu vực tập trung đông dân, du khách như khu dân cư, bến xe, điểm phục vụ có thể phát triển các loại hình vui chơi giải trí để thu hút khác sau khi đi vãn cảnh chùa, tuy nhiên cần lưu ý đây là vấn đề tôn nghiêm mang nội dung ý nghĩa tâm linh nên các hoạt động vui chơi giải trí phải mang đậm nét truyền thống, văn hoá dân tộc như: đấu vật, chọi gà, ném còn, …Tuy nhiên cần nghiêm cấm việc lợi dụng không 19 khí lễ hội để chơi các chò chơi không lành mạnh như : cờ bạc, cá độ... 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan