BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP. HỒ CHÍ MINH
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG
XÂY DỰNG MẠNG LƯỚI NHÀ VƯỜN DU LỊCH
Ở TỈNH BẾN TRE
Mã số: T2012.27.156
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. ĐOÀN THỊ MỸ HẠNH
TP. HCM, 12/2013
MỤC LỤC
Trang
Giới thiệu
Lý do nghiên cứu đề tài
1
Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
2
Đối tượng nghiên cứu
2
Phạm vi nghiên cứu
2
Phương pháp nghiên cứu
2
Kết cấu của báo cáo đề tài
3
Chương 1. MẠNG LƯỚI NÔNG TRẠI DU LỊCH
4
1.1 Du lịch nông thôn, du lịch nông nghiệp và du lịch nông trại
4
1.2 Mô hình nông trại du lịch và mạng lưới nông trại du lịch
9
1.3 Thị trường du lịch nông trại
17
Chương 2. CÁCH THỨC THỰC HIỆN NGHIÊN CỨU
20
2.1 Quy trình nghiên cứu
20
2.2 Tổ chức thực hiện nghiên cứu
20
Chương 3. HIỆN TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ VƯỜN
24
DU LỊCH
3.1 Tổng quan phát triển nhà vườn du lịch ở tỉnh Bến Tre
24
3.2 Hoạt động của các nhà vườn du lịch
25
Chương 4. MÔ HÌNH NHÀ VƯỜN DU LỊCH VÀ MẠNG LƯỚI
31
NHÀ VƯỜN DU LỊCH
4.1 Thị trường du lịch nhà vườn
4.2 Mô hình nhà vườn du lịch
43
4.3 Mạng lưới nhà vườn du lịch
46
4.4 Kiến nghị
49
Kết luận
51
TÀI LIỆU THAM KHẢO
52
1
PHỤ LỤC 1. PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN DU KHÁCH ĐẾN
54
BẾN TRE
PHỤ LỤC 2. CÂU HỎI CHỦ NHÀ VƯỜN
56
PHỤ LỤC 3. CÂU HỎI ĐẠI DIỆN CƠ QUAN QUẢN LÝ
58
NHÀ NƯỚC
2
MỞ ĐẦU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài ở trong
và ngoài nước
Du lịch nông thôn đã có quá trình phát triển hơn nửa thế kỷ nay, phát xuất ở
Châu Âu sau đó lan ra các nước khác trên thế giới. Vì vậy những nghiên cứu về
du lịch nông thôn, nông nghiệp, nông trại cũng đã có nhiều từ hình thành và phát
triển khái niệm đến tình huống thường tập trung vào những khu vực mà du lịch
nông thôn có quá trình phát triển lâu dài. Những nghiên cứu trong khoảng 10
năm gần đây mà nhóm nghiên cứu đã tham khảo được như:
Du lịch nông thôn ở Hungary: chìa khóa của năng lực cạnh tranh,
(2009) của Noemi Kulcsar (Rural tourism in Hungary: the key of
competitiveness). Trong nghiên cứu này chủ yếu phân tích mức độ cạnh tranh
của các làng du lịch và đưa ra giải pháp để nâng cao lợi thế cạnh tranh. Tác giả
nhận định rằng du lịch nông thôn chỉ có thể cạnh tranh được nếu như tạo ra giá
trị cho cả bên cung và bên cầu đồng thời các bên tham gia tại địa phương phải
hợp tác với nhau.
Du lịch nông nghiệp ở Thụy sĩ – Phân tích hiện trạng và khuyến nghị,
(2008) của Thomas Egger, (L’agrotourisme en Suisse – Analyse de la situation
actuelle et recommandations). Nghiên cứu này làm rõ khái niệm du lịch nông
trại, phân tích cầu, cung và đánh giá hiện trạng phát triển du lịch nông trại ở
Thụy sĩ. Nghiên cứu cũng so sánh với hiện trạng phát triển du lịch nông trại ở các
nước châu Âu khác như Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan, rút ra những khác biệt về cơ chế
chính sách phát triển, cách quản lý điều hành, những hạn chế bởi luật và đề xuất
những hiệu chỉnh cần thiết chủ yếu là về luật để tạo điều kiện cho du lịch nông
trại ở Thụy sĩ phát triển.
Du lịch nông nghiệp là chiến lược phát triển nông thôn ở Hàn Quốc,
(2006) của Lee Seoung Woo (Argo-tourism as a tourism development strategy in
Korea). Trong nghiên cứu này ông đã phân tích những chính sách phát triển du
lịch nông nghiệp ở Hàn Quốc được áp dụng qua nhiều thời kỳ. Trong đó nhấn
mạnh vai trò của du lịch tại nông thôn trong quá trình nổ lực duy trì sản xuất
nông nghiệp, hạn chế di dân về thành thị của chính phủ Hàn quốc với mô hình
“làng du lịch xanh trải nghiệm”.
Du lịch nông trại: Nghiên cứu sơ bộ về mong đợi và mức độ chấp nhận
các chương trình du lịch nông trại của các bên liên quan (2003) của Coomber
và Christine Lim năm. (Farm tour: a preliminary study of participants’
expectations and perceptions of farm tours). Nghiên cứu này làm rõ vai trò của
1
du lịch trong việc phân phối lại thu nhập tại các vùng, sự phát triển của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực kinh doanh du lịch tại Australia cùng với mô
hình phát triển cộng đồng và nông thôn. Đồng thời nghiên cứu cũng phân tích sự
khác biệt giữa sự mong đợi và mức độ chấp nhận của các bên liên quan tham gia
vào chương trinh tour du lịch tại các nông trại, đề xuất mô hình quản lý tour du
lịch nông trại góp phần phát triển bền vững khu vực nông thôn.
Ở trong nước cũng có những nghiên cứu về du lịch nông thôn nhưng chưa có
những nghiên cứu về mô hình nhà vườn du lịch và mạng lưới nhà vườn du lịch.
Ở Bến Tre đã có Quy hoạch phát triển du lịch đến năm 2020 và đề án phát triển
du lịch đến năm 2015 nhưng chưa có nghiên cứu cụ thể đến mô hình phát triển
nhà vườn du lịch và mạng lưới nhà vườn du lịch.
2. Lý do nghiên cứu đề tài
Các nền kinh tế phát triển trên thế giới hiện nay hầu hết đều có giá trị ngành
dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Đó là kết quả của quá trình chuyển dịch
cơ cấu từ nông nghiệp sang công nghiệp và sau đó là từ công nghiệp sang dịch vụ
trải qua hằng trăm năm. Trong những thập niên gần đây do nền kinh tế thế giới
đã có nhiều thay đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế không còn theo xu hướng cũ,
một số nước kém phát triển đã có điều kiện chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp
sang dịch vụ.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long vốn là vùng thuần nông, những năm vừa
qua cũng đã chuyển dần từ nông nghiệp sang dịch vụ. Bến tre là một tỉnh nằm
trong vùng đồng bằng cũng đã chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng chung của
vùng là với khu vực I: 50,8%; khu vực II: 16,6%; khu vực III: 32,7%. Trong
những năm tới sẽ tiếp tục chuyển dịch cơ cấu theo hướng giảm tỷ trọng ngành
nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành dịch vụ và công nghiệp trong GDP.
Với những vùng kinh tế có lợi thế sản xuất nông nghiệp như tỉnh Bến Tre,
phát triển du lịch nông thôn là con đường thuận lợi nhất để thay đổi bộ mặt nông
thôn vì có thể sử dụng những nguồn lực sẵn có không đòi hỏi nguồn vốn đầu tư
quá lớn cũng như thời gian để đào tạo nhân lực. Du lịch vốn được coi là ngành
công nghiệp không khói sẽ ít gây ô nhiễm môi trường hơn là các ngành công
nghiệp khác, nên sẽ bảo đảm cho sự phát triển song hành của ngành nông nghiệp.
Ngoài ra du lịch còn là ngành tăng trưởng nhanh và ít bị ảnh hưởng bởi khủng
hoảng kinh tế. Thật vậy, mặc dù nền kinh tế toàn cầu bị suy thoái mấy năm qua
nhưng ngành du lịch thế giới vẫn tăng trưởng trung bình 4%/năm. Du lịch nông
thôn có đặc tính là dựa trên sự khác biệt của tài nguyên thiên nhiên, nhân văn, sự
kiện và sản vật của vùng nông thôn, là sản phẩm gần gũi với nông nghiệp và văn
hóa của người dân nông thôn. Du lịch nông thôn phát triển vừa làm tăng thu nhập
cho người dân nông thôn vừa bảo đảm cung cấp lương thực không chỉ cho dân cư
2
trong vùng mà cho cả những vùng không có điều kiện thuận lợi để sản xuất nông
nghiệp. Với đặc thù của tỉnh Bến Tre rất thuận lợi để phát triển loại hình nhà
vườn du lịch nhưng nếu không tổ chức quản lý tốt có thể dẫn đến tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh làm xấu đi hình ảnh của ngành du lịch Bến Tre. Đó là
chưa nói đến nguy cơ làm mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên
nhiên, và mất đi những nét văn hóa truyền thống của vùng miền quê sông nước.
Việc nghiên cứu xây dựng mạng lưới nhà vườn du lịch không chỉ giúp ngành du
lịch Bến Tre phát triển ổn định mà còn giúp các nhà vườn tăng nhanh thu nhập,
nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống hiện nay và cho tương lai xa. Vì vậy
đề tài “Xây dựng mạng lưới nhà vườn du lịch ở tỉnh Bến Tre” được triển khai
nghiên cứu với mong muốn góp phần tìm ra giải pháp phát triển các nhà vườn du
lịch thành một hệ thống cung cấp dịch vụ du lịch nông thôn giúp ngành du lịch
cũng như nền kinh tế của tỉnh Bến Tre phát triển bền vững.
3. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là tìm ra mô hình tổ chức mạng lưới các nhà vườn du lịch phù
hợp cho tỉnh Bến Tre. Để đạt được mục tiêu này, đề tài sẽ đi tìm câu trả lời cho
hai câu hỏi nghiên cứu sau:
- Nhà vườn du lịch ở Bến Tre nên phát triển theo mô hình nào?
- Mạng lưới nhà vườn du lịch ở Bến Tre nên được tổ chức quản lý theo mô
hình nào để bảo đảm phát triển bền vững?
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch
của các nhà vườn ở tỉnh Bến Tre.
Nhà vườn du lịch là các hộ gia đình có đất trồng cây ăn trái có tổ chức đón
khách tham quan, nghỉ dưỡng với các dịch vụ cung cấp như tham quan vườn cây,
hái quả, phục vụ các món ăn dân dã được chế biến từ nguồn nguyên liệu tại chỗ,
nghỉ ngơi trong ngày và qua đêm... Các nhà vườn này có thể đón khách theo hợp
đồng do các công ty lữ hành đưa đến hoặc khách lẻ. Nhà vườn du lịch được coi là
một dạng nông trại du lịch cung cấp dịch vụ du lịch song song với sản xuất
nông nghiệp.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu hoạt động của các nhà vườn du lịch trên địa bàn tỉnh
Bến Tre không bao gồm các khu du lịch sinh thái vườn trong tỉnh và các nhà
vườn du lịch ở các tỉnh khác.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, các phương pháp nghiên cứu sau đây đã được
sử dụng:
3
- Phương pháp thống kê mô tả được dùng để mô tả hiện trạng phát triển du
lịch nông thôn và của các nhà vườn du lịch ở tỉnh Bến Tre.
- Phương pháp điều tra lấy ý kiến: được dùng để tìm hiểu nhu cầu, mong
muốn của du khách đối với loại hình du lịch nông thôn và lấy ý kiến của các chủ
nhà vườn để tìm hiểu khả năng cung cấp dịch vụ của họ.
- Phương pháp chuyên gia: được dùng để tìm hiểu cách thức hỗ trợ và
quản lý của chính quyền địa phương, của các tổ chức phi chính phủ đối với các
nhà vườn trong quá trình phát triển. Phương pháp này cũng được dùng để thu
thập ý kiến của các chuyên gia về mô hình đề xuất. Chuyên gia là những người
am hiểu về hoạt động du lịch nông thôn, nông nghiệp, nông trại bao gồm các nhà
quản lý ở Sở du lịch và các Sở có liên quan, chính quyền tỉnh, huyện, xã và các
nhà quản lý điều hành, hướng dẫn viên ở các công ty lữ hành.
Cách sử dụng các phương pháp này được trình bày cụ thể trong chương
cách thức triển khai nghiên cứu và dữ liệu sơ cấp thu được.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, báo cáo kết quả nghiên cứu gồm có
4 chương:
Chương 1. Mạng lưới nông trại du lịch: là chương cơ sở lý thuyết, nội
dung chương này trước hết làm rõ các khái niệm du lịch nông thôn, du lịch nông
nghiệp và du lịch nông trại, từ đó tiến đến trình bày mô hình nông trại du lịch và
mạng lưới nông trại du lịch. Một số mạng lưới nông trại du lịch hoạt động hiệu
quả cũng được giới thiệu trong chương này như một tham khảo thực tế.
Chương 2. Cách thức triển khai thực hiện nghiên cứu: nội dung chương
này trình bày cách thức mà nhóm nghiên cứu đã thực hiện đề tài bao gồm quy
trình nghiên cứu, quá trình tổ chức nghiên cứu và cách sử dụng các phương pháp
nghiên cứu.
Chương 3. Hiện trạng hoạt động của nhà vườn du lịch: chương này giới
thiệu tổng quan về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, tình hình hoạt động của
ngành du lịch và đánh giá về hiện trạng hoạt động của các nhà vườn du lịch qua
khảo sát ý kiến của các chủ nhà vườn và các nhà quản lý hoạt động du lịch ở tỉnh
Bến Tre.
Chương 4. Xây dựng mô hình nhà vườn du lịch và mạng lưới nhà vườn
du lịch: chương này trình bày ý kiến của khách du lịch mà nhóm nghiên cứu thu
thập được qua cuộc khảo sát vào tháng 9/2013, trên cơ sở đó kết hợp với những
tham khảo các mô hình thành công, xây dựng mô hình nhà vườn du lịch và mạng
lưới nhà vườn du lịch cho tỉnh Bến Tre.
4
Chương 1.
MẠNG LƯỚI NÔNG TRẠI DU LỊCH
1.1 DU LỊCH NÔNG THÔN, DU LỊCH NÔNG NGHIỆP VÀ DU
LỊCH NÔNG TRẠI
1.1.1 Du lịch nông thôn1:
Du lịch nông thôn bao gồm tất cả các dịch vụ du lịch được thực hiện trong
khu vực nông thôn (Bourdeau, 2001; Cawley và Gaffey, 2002). Du lịch nông
thôn cũng bao gồm các hoạt động vui chơi giải trí diễn ra ở nông thôn và các
hoạt động này không có ở các khu đô thị (Small Farm Center, 2004). Tuy nhiên,
trong thực tế khó xác định một cách rõ ràng vùng nông thôn và thành thị vì các
vùng ven đô cũng có thể cung cấp các dịch vụ du lịch như các vùng nông thôn
thực sự.
Du lịch được gọi là du lịch nông thôn khi văn hóa nông thôn là một trong
những thành tố chính của sản phẩm/dịch vụ được cung ứng. Tùy thuộc vào hoạt
động chính hình thành nên sản phẩm/dịch vụ đó là gì mà các thuật ngữ có thể
được sử dụng là du lịch nông nghiệp (agri-tourism), du lịch xanh (green tourism),
du lịch ẩm thực (gastronomic tourism), du lịch cưỡi ngựa (equestrian tourism),
du lịch chèo thuyền (nautical tourism), du lịch săn bắn (hunting tourism), du lịch
thám hiểm (adventure tourism), du lịch văn hóa lịch sử (historical/cultural
tourism).
Những hoạt động du lịch liên quan tới các kỳ nghỉ tại các khu du lịch, nhà
nghỉ, khách sạn lớn, khu chơi gôn thì không thể gọi là du lịch nông thôn. Đặc
điểm phân biệt các sản phẩm du lịch trong khái niệm du lịch nông thôn đó là
những sản phẩm đó phải đem tới cho khách du lịch những sự tiếp xúc trực tiếp,
trải nghiệm môi trường làng quê và con người ở nông thôn, và cho phép họ tham
gia vào các hoạt động sinh hoạt truyền thống của người địa phương. Trong loại
hình du lịch nông thôn, yếu tố văn hóa và giáo dục cũng rất mạnh. Các hoạt động
du lịch nông thôn rất phong phú, thường là:
Cung cấp nơi lưu trú cho khách du lịch: bao gồm cả phòng khách, phòng
chơi cho trẻ em, nhà vệ sinh, nơi ăn nghỉ nhóm, cắm trại ở các nông trại, cắm trại
tự nhiên...
Phục vụ ăn uống: trong nhà nông dân hay các quán ăn, nhà hàng
nông thôn.
1
Tourisme rural (tiếng Pháp) hay Rural tourism (tiếng Anh)
5
Hoạt động thể thao giải trí: câu cá, săn bắn, cưỡi ngựa, đi bộ đường dài, đi
xe đạp, chèo xuồng, các trò chơi vận động ở nông thôn…
Hoạt động văn hóa và giáo dục: khám phá di sản nông nghiệp và nông
thôn, tham quan học tập, thực hành nông nghiệp.
Bán trực tiếp các sản phẩm nông nghiệp: thu hoạch nông sản, bán các sản
phẩm chất lượng đã qua xử lý hay không... Việc xác định khi nào một sản phẩm
nông nghiệp, thực phẩm trở thành một sản phẩm du lịch nông nghiệp là không
dễ. Vì nếu các nông sản này được bán cho một khách hàng địa phương, thì rõ
ràng nó không thể được coi là một hoạt động du lịch nông nghiệp (Begon et
Disez 1995). Trái lại, nếu nông sản được bán cho du khách, thì đó chính là một
trong các hoạt động du lịch nông nghiệp. Vì vậy, Ohe (2001) cho rằng, hai tiêu
chí để phân biệt sản phẩm du lịch và sản phẩm thực phẩm là: (1) việc chuyển
giao sản phẩm (ví dụ như mua hàng trực tiếp từ nhà sản xuất chứ không phải mua
qua trung gian như siêu thị) và (2) là người mua (khách du lịch hay người tiêu
dùng hàng ngày).
Khách đi du lịch nông thôn rất đa dạng và do đó có thể có nhiều cách phân
khúc thị trường khác nhau tùy vào mục đích phân khúc. Chẳng hạn với mục tiêu
xác định nhóm khách nào mang lại lợi nhuận nhiều cho ngành du lịch thì có thể
chia ra thành 3 nhóm khách là khách về quê, khách du lịch xã hội và khách ưa
thích du lịch nông thôn2.
Khách về quê: đây là những người có nguồn gốc xuất thân từ nông thôn,
hiện tiếp tục duy trì các quan hệ với vùng nông thôn như có tài sản hay bà con họ
hàng ở nông thôn. Họ đi du lịch bằng cách trở về nhà của cha mẹ, họ hàng, bạn
bè hay ở trong ngôi nhà thứ hai của họ. Nhóm khách này chi tiêu ít vì không thuê
nơi lưu trú, chỉ mua các sản vật địa phương và tiêu dùng các dịch vụ vui chơi,
giải trí mà thôi.
Khách du lịch xã hội: là những người đi nghỉ theo các chương trình do các
tổ chức xã hội tài trợ nhân các ngày lễ, ngày kỷ niệm hay các dự án giáo dục
cộng đồng. Đa phần trong số này là những người có thu nhập thấp như những
người trẻ tuổi, gia đình trẻ, người nghỉ hưu, người tàn tật, vv... Chi tiêu cá nhân
của nhóm khách này rất ít vì họ chỉ thụ hưởng những gì được tài trợ. Những tổ
chức tài trợ cũng thường chỉ yêu cầu chất lượng dịch vụ trung bình để với nguồn
tài chính có hạn, nhiều người được thụ hưởng.
Khách ưa thích du lịch nông thôn: đây là những khách hàng nhiệt tình và
chịu chi tiêu nên đem lại nhiều lợi nhuận cho du lịch nông thôn. Khúc thị trường
này tăng trưởng cao, vì nhóm khách này gần như tiêu thụ tất cả các loại dịch vụ.
Họ là những khách hàng tương đối dễ chịu, từ những người về hưu giàu có đến
2
Le tourisme rural, http://www.dgcis.gouv.fr/tourisme/tourisme-rural
6
những thanh niên có việc làm có thu nhập cao, các gia đình trẻ chưa có con,
người độc thân và người nước ngoài.
Theo báo cáo của Ủy ban châu Âu3 (2000) thì khách du lịch nông thôn có
thể được chia ra thành: khách du lịch dã ngoại, khách đi nghỉ ngắn ngày, khách
đi theo cùng gia đình, khách lớn tuổi, khách du lịch giải trí, khách du lịch theo
nhóm và khách khuyết tật. Cách phân loại này không phân định rõ mục đích du
lịch của khách hay thời gian lưu trú của khách mà nhằm mục đích tìm hiểu xu
hướng lựa chọn dịch vụ của khách.
Tiếp cận ở một góc độ khác, theo thời lượng của chuyến du lịch, thì có thể
chia khách du lịch nông thôn ra thành khách du lịch dã ngoại, khách đi nghỉ ngắn
ngày, khách du lịch dài ngày.
Khách du lịch dã ngoại: thường là các nhóm học sinh, sinh viên hay các tổ
chức khác thường đi đến vùng ven thành phố trong ngày.
Khách đi nghỉ ngắn ngày: lưu trú từ 1 đến 3 đêm thường vào các kỳ nghỉ
ngắn hay cuối tuần. Họ mong muốn trải nghiệm cuộc sống ở nông thôn với chất
lượng tốt, sử dụng các dịch vụ giải trí.
Khách du lịch dài ngày: thường là những người lớn tuổi đã nghỉ hưu, muốn
tìm nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi, gợi nhớ kỷ niệm... nhưng bảo đảm điều kiện chăm
sóc sức khỏe hoặc các gia đình trẻ sống ở đô thị có trẻ con mong muốn trẻ con
được sống trong môi trường thiên nhiên trong lành và có cơ hội khám phá thế
giới nông thôn. Họ là những người có thu nhập cao, mong muốn được hưởng thụ
dịch vụ chất lượng cao.
1.1.2 Du lịch nông nghiệp
Du lịch nông nghiệp bao gồm các dịch vụ du lịch có liên quan đến hoạt
động nông nghiệp hoặc vì mục đích nông nghiệp do nông dân cung cấp. Những
dịch vụ du lịch nông thôn không gắn với hoạt động sản xuất nông nghiệp thì
không được coi là du lịch nông nghiệp chẳng hạn như các hoạt động diễn ra tại
các vùng nông thôn, nhưng là hoạt động phi nông nghiệp như dịch vụ lưu trú ở
các nhà nghỉ, dịch vụ ăn uống ở các nhà hàng nông thôn. Như vậy, phạm vi của
du lịch nông nghiệp4 hẹp hơn du lịch nông thôn, vì chỉ bao gồm những dịch vụ
du lịch gắn với hoạt động sản xuất nông nghiệp mà thôi.
Nông dân góp phần đáng kể vào sự phát triển du lịch nông nghiệp và ngược
lại du lịch nông nghiệp cũng mang lại nhiều lợi ích cho họ. Các lợi ích có thể kể
đến là:
3
Commission européenne, Pour un tourisme rural de qualité, Office des publications officielles
des Communautés européennes, 2000, ISBN 92-828-7555-5
4
Agrotourisme (tiếng Pháp) hay agrotourism (tiếng Anh)
7
- Làm tăng giá trị và bảo tồn các di sản tự nhiên và kiến trúc: những ngôi
nhà cổ, giếng nước, bến sông, sân phơi, cảnh quan yên bình của làng quê... gắn
với cuộc sống thường nhật của người nông dân không có gì lạ với họ nên họ
không thấy chúng có giá trị. Nhưng với du khách chúng rất có giá trị và do đó họ
sẵn lòng trả tiền để được thụ hưởng. Nguồn thu từ du khách giúp cho địa phương
có kinh phí để bảo tồn các di sản.
- Đa dạng hóa các hoạt động của nông dân: việc cung cấp các dịch vụ du
lịch nông nghiệp giúp nông dân có thêm việc làm ngoài các công việc đồng áng.
Nhờ vậy họ có thể giảm được thời gian nông nhàn.
- Giúp nông dân có thêm thu nhập: thu nhập từ việc cung cấp các dịch vụ du
lịch giúp nông dân tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống đồng thời giảm được rủi ro
về thu nhập so với việc chỉ sản xuất nông nghiệp.
- Tạo cơ hội cho nông dân đón tiếp và gặp gỡ những người từ các nơi khác
đến: ở những làng quê xa đô thị, cuộc sống của nông dân yên bình nên không
tránh khỏi đơn điệu, nhàm chán. Việc đón tiếp du khách giúp họ có cơ hội giao
lưu với nhiều người đến từ nhiều nơi khác nhau. Điều đó làm cho cuộc sống
thêm phần thú vị hơn và tầm nhìn cũng được rộng mở hơn.
Các dịch vụ du lịch nông nghiệp có thể được cung cấp bởi các khu du lịch
nông nghiệp, các khu bảo tồn thiên nhiên hoặc các nông trại. Nông trại là khu
vực sản xuất nông nghiệp của người nông dân có thể vừa là nơi ở vừa là nơi sản
xuất hoặc chỉ là nơi sản xuất nhưng phải là đang tiến hành các hoạt động sản xuất
nông nghiệp. Những nông trại không còn sản xuất được dùng để kinh doanh dịch
vụ du lịch không thuộc phạm vi du lịch nông trại.
1.1.3 Du lịch nông trại 5
Nông trại là khu vực sản xuất nông nghiệp thường cũng đồng thời là nơi cư
trú của gia đình chủ nông trại. Có nhiều loại nông trại tùy vào sản phẩm chủ yếu
do nông trại sản xuất như vườn trái cây, ruộng lúa, hoa cây kiểng hay trại chăn
nuôi bò, ngựa... Những nông trại có cung cấp dịch vụ du lịch kết hợp với sản
xuất nông nghiệp gọi là nông trại du lịch. Nông trại du lịch khác về cơ bản với
các khu du lịch ở chỗ hoạt động du lịch gắn với sản xuất nông nghiệp và do
chính người chủ nông trại và gia đình họ phục vụ. Trong trường hợp có thuê
mướn thì cũng không thường xuyên và nhân lực thuê ngoài thường là những
người ở quanh vùng mang tính hỗ trợ nhiều hơn là làm thuê.
Du lịch nông trại là một bộ phận của du lịch nông thôn cùng với 4 loại hình
du lịch khác là du lịch sinh thái, văn hóa, mạo hiểm và dã ngoại. Thuật ngữ du
lịch nông trại được sử dụng ở một số nơi gần với thuật ngữ du lịch nông nghiệp,
5
Agritourisme hay tourisme à la ferme (tiếng Pháp) hay farm tourism (tiếng Anh)
8
cho dù sử dụng dưới hình thức nào thì loại hình du lịch này cũng liên quan tới
“hoạt động du lịch diễn ra ở vùng nông thôn tại các nông trại có sản xuất các sản
phẩm nông nghiệp”.
Ở góc độ của nhà cung cấp, du lịch nông trại là sự kết hợp giữa sản xuất
nông nghiệp và kinh doanh dịch vụ du lịch. Hay nói cách khác đó là hoạt động
du lịch được thực hiện bởi nhà nông trong nông trại của họ. Ở góc độ người tiêu
dùng đó là chuyến đi xa nơi cư trú vì những mục đích khác nhau nhưng đều có
liên quan đến nông nghiệp và thường có lưu trú ở nông trại ít nhất 1 đêm. Nếu
chuyến đi chỉ trong một ngày thì đó là chuyến đi dã ngoại chứ chưa phải là du
lịch nông trại.
Trong khi du lịch nông thôn bao gồm tất cả các hoạt động du lịch diễn ra
trong các vùng nông thôn thì du lịch nông nghiệp được thực hiện trong một môi
trường nông nghiệp hoặc cho các mục đích nông nghiệp, và du lịch nông trại
được giới hạn trong phạm vi các nông trại. Ngoài ra sản phẩm du lịch nông
nghiệp không chỉ là một sản phẩm vật thể mà là một dịch vụ. Do đó, để phân
biệt sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm du lịch nông nghiệp có thể dựa trên các
tiêu chí: (1) vị trí thị trường và vận chuyển (di chuyển của khách hàng hay di
chuyển sản phẩm), (2) loại thị trường (hẹp hay đại chúng), (3) loại nhu cầu (như
giải trí hoặc khám phá các sản phẩm địa phương hay nhu cầu lương thực cơ bản)
và (4) loại sản phẩm (sản phẩm bao gồm dịch vụ hay chỉ hàng hóa mà thôi). Tuy
nhiên, trong trường hợp khách du lịch chỉ lưu trú ở nông trại mà không tham gia
vào bất kỳ hoạt động nào của nông trại thì cũng có thể coi đó là du lịch nông trại.
Ngược lại, trong trường hợp các nông trại cung cấp dịch vụ giải trí khác trong
ngày cho khách hàng địa phương thì đây là nông trại giải trí6 chứ không phải là
nông trại du lịch.
Nghiên cứu của Donne (1999) cũng đã làm rõ được khả năng xác định sản
phẩm du lịch nông trại là những gì. Theo ông, một hoạt động du lịch là du lịch
nông trại nếu du khách ở trong nhà của nông dân, ăn uống do chủ nhà phục vụ,
món ăn được chế biến từ các sản phẩm của nông trại và các hoạt động này có
tính chất gia đình; tính hấp dẫn trong hoạt động du lịch với chủ đề ý nghĩa giáo
dục, văn hóa nông nghiệp (ví dụ như thăm nông trại) và có thể chuyên nghiệp
hơn với các buổi biểu diễn ở trung tâm văn hóa, hay bảo tàng và thương mại dịch
vụ được giới hạn trong việc bán nông sản. Cùng với sự phát triển của các nông
trại du lịch, danh mục sản phẩm du lịch nông trại ngày nay rất phong phú có thể
chia thành các dòng sản phẩm như sinh thái, mạo hiểm, thể thao, văn hóa, ẩm
thực. Tất cả những hoạt động cung cấp sản phẩm đều do chủ nhà quản lý với sự
6
Agritainment
9
giúp đỡ của các thành viên trong gia đình. Khách đến các nông trại du lịch
thường là:
- Những cư dân thành thị đã từng lớn lên ở nông thôn hoặc những người trẻ
tuổi có kỷ niệm với ông bà, người thân ở nông thôn. Họ đi du lịch nông trại để
hồi tưởng về những kỷ niệm đã có trong đời.
- Những người nghỉ hưu muốn có một kỳ nghỉ với nhịp sống chậm để
hưởng thụ sự nhàn nhã.
- Những học sinh, sinh viên muốn tìm một không gian rộng rãi, thoáng mát
để tiến hành những hoạt động nhóm tự phát hoặc theo tổ chức của trường học.
- Những người yêu thích các hoạt động ngoài trời.
1.2 MÔ HÌNH NÔNG TRẠI DU LỊCH VÀ MẠNG LƯỚI NÔNG
TRẠI DU LỊCH
1.2.1 Mô hình nông trại du lịch
Ở châu Âu, du lịch nông thôn đang lan rộng ở khắp mọi nơi đặc biệt là ở Ý,
Thụy sĩ và Pháp. Vài năm gần đây các nông trại có cung cấp dịch vụ du lịch đã
tăng nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu của du khách là cư dân ở các đô thị. Các
nông trại du lịch rất đa dạng, không chỉ ở vùng đồng bằng mà còn có ở miền núi.
Dựa vào đặc điểm của dịch vụ được cung cấp có thể phân loại các nông trại du
lịch ra thành các loại như sau:
Nông trại giáo dục: đến các nông trại này du khách sẽ được học cách nuôi
gia súc, trồng hoa màu và được thực hành làm thử. Thông qua nhiều hoạt động,
các nông trại giáo dục làm công việc truyền bá kiến thức thuộc các lĩnh vực mà
du khách quan tâm một cách thoải mái, vui vẻ. Các nông trại loại này nhắm đến
nguồn khách là học sinh, sinh viên với các kỳ nghỉ được thiết kế theo chủ đề phù
hợp với từng lứa tuổi hay các chương trình học ngoại khóa do các trường
thiết kế.
Nông trại khám phá: sản phẩm của các nông trại này nhằm đáp ứng nhu
cầu cho những du khách muốn tìm hiểu, khám phá thế giới cây trồng, gia súc và
đời sống ở các nông trại. Nguồn khách mà các nông trại loại này nhằm đến là các
gia đình trẻ hay những thanh niên muốn tìm kiếm những điều mới lạ. Sản phẩm
mà các nông trại này cung cấp thường là đưa khách đi thăm nông trại, giới thiệu
các hoạt động của nông trại như chăn nuôi, trồng trọt, chế biến các món ăn từ
nguồn nguyên liệu do nông trại sản xuất, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi một số
cây trồng và vật nuôi... Du khách tham gia sẽ được thực sự sống trong thế giới
nông nghiệp. Du khách cũng được phục vụ bữa ăn để thưởng thức các sản phẩm
địa phương và đặc sản của nông trại từ đó khám phá những điều thú vị của văn
hóa ẩm thực bản địa.
10
Nông trại nghỉ dưỡng: đến các nông trại này du khách sẽ có được một
cuộc sống dễ chịu hòa mình với thiên nhiên, đồng thời trải nghiệm cuộc sống ở
làng quê mà cư dân thành phố ít được biết. Các nông trại loại này cung cấp dịch
vụ chất lượng cho người lớn và cả trẻ em với các hoạt động phong phú phù hợp
với mong đợi của mọi người. Ở các nông trại này trẻ em có thể chơi các trò chơi
ngoài trời và tìm hiểu việc bảo vệ môi trường. Người lớn thì có thể bàn luận về
mọi vấn đề mà họ quan tâm như cách trồng cây, chăm sóc cho vật nuôi, ẩm thực,
gìn giữ môi trường... Du khách cũng có thể tham gia các hoạt động văn hóa diễn
ra ở làng quê như xem xiếc, múa hay âm nhạc. Ở các nông trại nghỉ dưỡng còn
có dịch vụ nhà ở cho thuê với đủ trang thiết bị trong nhà để du khách tự nấu ăn
như ở nhà mình.
Mỗi loại hình nông trại cung cấp những dòng sản phẩm tương tự nhau đáp
ứng cùng một khúc thị trường nhưng sản phẩm của mỗi nông trại có sự khác
nhau tạo ra sự đa dạng sản phẩm. Sự khác biệt của dịch vụ được cung cấp sẽ kích
thích tăng trưởng nhu cầu và mỗi nông trại sẽ có được những khách hàng riêng.
Ví dụ như về dịch vụ lưu trú ở các nông trại khác nhau rất khác nhau hoặc ở
những nông trại có quy mô lớn thì cung cấp cả dòng sản phẩm chứ không chỉ
một sản phẩm. Chẳng hạn như nhà ở tiện nghi cho các gia đình có trẻ em hoặc
không có trẻ em nhằm tạo cho họ có không gian riêng tư trong những ngày hội
nhập vào cuộc sống ở nông trại, hay phòng ở ngay trong nhà ở của chủ nông trại
để đáp ứng cho các du khách mong muốn có một cuộc sống thực sự như nông
dân, hay cung cấp nơi cắm trại cho du khách là thanh niên... Nhà ở tự phục vụ
hiện nay cũng đang được nhiều du khách ưa chuộng.
Ở Ấn Độ, nông nghiệp được coi là ngành kinh tế chủ lực. Tuy nhiên, đóng
góp của ngành nông nghiệp vào GDP đang sụt giảm và người nông dân cảm thấy
rất khó khăn nếu như chỉ duy trì nghề nông mà không có thu nhập tăng thêm.
Trong khi đó, du lịch được xem là công cụ tạo ra việc làm, xóa đói giảm nghèo
và tăng trưởng. Vì vậy kết nối ngành nông nghiệp với ngành du lịch cho phép tạo
được thế cân bằng cùng phát triển, đồng thời giúp cho ngành du lịch mở rộng
được quy mô. Du lịch nông nghiệp ở Ấn độ được hỗ trợ và liên kết chặt chẽ với
vận tải đường không, đường thủy và đường bộ. Dịch vụ du lịch nông nghiệp ở
đây bao gồm: tour du lịch nông trại, thử lái máy kéo và xe bò, hái nho, xoài, tham
quan vườn trái cây, tìm hiểu cách nuôi gia súc trong các nông trại nuôi dê, bò
sữa... Từ khi du lịch nông nghiệp phát triển, đời sống của người nông dân đã thay
đổi đáng kể, họ tự phát triển kinh doanh dịch vụ và học các kỹ năng mềm để làm
dịch vụ khách hàng và marketing sản phẩm của họ.
Ở Hàn Quốc, du lịch nông nghiệp đã trở thành một trong những chiến lược
chính phát triển nông thôn ở Hàn Quốc. Năm 1960, GNP của Hàn Quốc là 80 đô
la Mỹ/ năm, cùng mức với Ghana và Sudan và đứng sau Ấn Độ. Sau đó, Hàn
11
Quốc đã đứng trong nhóm các nước có mức tăng trưởng cao trên thế giới, với tỷ
lệ tăng trưởng hơn 8%/năm trong vòng 40 năm. Để có thể hiện đại hóa nền kinh
tế, Hàn Quốc đã áp dụng một chiến lược tăng trưởng công nghiệp hóa không cân
bằng. Sự mất cân đối thể hiện ở trên các lĩnh vực như: giữa nông thôn và thành
thị, doanh nghiệp quy mô lớn và nhỏ, xuất khẩu và sản xuất trong nước. Mặc dù
chính phủ đã có nhiều nỗ lực nhằm thu hẹp khoảng cách giữa vùng nông thôn và
thành thị nhưng không có nhiều kết quả. Các chiến lược tập trung vào các đô thị
đã khiến cho các cộng đồng nông thôn truyền thống bị mai một. Năm 2005, tỷ lệ
nông hộ chỉ còn 7% trong khi tỷ lệ này là 28% vào năm 1980. Tỷ lệ thu nhập của
các nông hộ so với các hộ gia đình ở thành thị cũng giảm mạnh.
Sau đó chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng chiến lược phát triển cân bằng nhằm xóa
bỏ khoảng cách nông thôn thành thị bằng cách đẩy nhanh việc phát triển các khu
vực nông thôn, các làng đánh cá và làm nông nghiệp. Chính sách này được chia
thành 4 kế hoạch cấp quốc gia (thực hiện từ năm 2000 đến 2020):
- Phát triển các vùng nông thôn, ưu tiên phát triển các khu vực yếu kém
- Kích thích phát triển ngành nông, ngư nghiệp thành ngành công nghiệp
tạo ra giá trị tăng thêm
- Đa dạng hóa hoạt động kinh tế nông thôn và kết hợp hỗ trợ công nghiệp
- Nâng cao phúc lợi người dân nông thôn bằng việc cải thiện cơ sở hạ tầng
và khuyến khích sự liên kết nông thôn và thành thị. Kế hoạch này nhằm mục đích
tận dụng vùng nông thôn thành nơi để sản xuất, nghỉ ngơi, sinh thái và cư trú của
tất cả mọi người từ nông thôn tới thành thị. Chính phủ cho rằng, phát triển nông
thôn cải tiến chất lượng cuộc sống không chỉ cho người dân nông thôn mà còn
cho người dân thành thị.
Du lịch nông thôn là một lĩnh vực rất hứa hẹn cho những người nông dân
Hàn Quốc để cải thiện thu nhập từ nông nghiệp đang bị sụt giảm. Để tăng cường
sự liên kết giữa thành thị và nông thôn, chính phủ đã xúc tiến các chương trình
trao đổi văn hóa nông thôn thành thị và quảng bá hoạt động du lịch như du lịch
xanh và du lịch nông trại ở vùng nông thôn. Cụ thể, chính phủ đã phát triển 32
“làng trải nghiệm văn hóa nông nghiệp xanh” 7 vào năm 2004. Mỗi làng được
nhận khoản tiền đầu tư 200.000 USD để chi tiêu cho việc tiếp thị và duy trì bộ
máy quản lý làng. Tại những làng này, các hộ dân được yêu cầu duy trì đúng lối
sống nông thôn, giảm tối đa những nét sinh hoạt thành thị đã du nhập. Các làng
này cung cấp cho khách du lịch chương trình khám phá cuộc sống nông thôn, trải
nghiệm đời sống nông thôn giống nhau. Khách du lịch cùng ăn cùng ở với nông
dân, cùng ra đồng làm việc, cùng trồng cây ươm giống, cùng chăm sóc gia súc...
Đến các làng nghề, khách du lịch tham gia may quần áo truyền thống, cùng nhào
đất nặn các sản phẩm gốm với nghệ nhân làng nghề...
7
Green agricultural experience villages
12
Hiện chính phủ Hàn quốc đang tập trung để hoàn tất 1.000 làng du lịch
xanh vào cuối năm 2013. Khách du lịch thành thị sẽ được tham gia vào các hoạt
động giải trí, học hỏi thông qua trải nghiệm, lưu trú và nghỉ ngơi tại vùng nông
thôn. Để vận hành được các làng du lịch xanh, chính phủ đã hỗ trợ chương trình
đào tạo 800 nông dân là những người đã về hưu có nhiều kinh nghiệm, trở thành
những người lãnh đạo các làng du lịch này. Đồng thời chính phủ cũng kêu gọi
các doanh nghiệp tham gia chiến dịch “Mỗi công ty - Một làng nông nghiệp”.
Mỗi công ty sẽ đầu tư cho một làng với số tiền tối thiểu 300.000 USD. Hàng năm
công ty đưa nhân viên, công nhân về các làng này tham gia thu hoạch và tiêu thụ
các loại nông sản. Các nhân viên, công nhân cũng được khuyến khích lệ đưa
người thân về các làng du lịch.
Ở nước ta du lịch nông thôn mới bắt đầu phát triển vài năm gần đây. Những
khu du lịch sinh thái, vườn du lịch, trang trại du lịch đồng quê hình thành và hoạt
động hiệu quả ở nhiều vùng nông thôn chẳng hạn như khu trang trại đồng quê Ba
Vì (Hà Tây), vườn Vinh Sang (Vĩnh Long), làng du lịch Mỹ Khánh (Cần Thơ)...
Các khu du lịch này đầu tư xây dựng mô hình cung cấp dịch vụ du lịch nông thôn
nhưng không đồng thời sản xuất nông nghiệp nên không được coi là nông trại du
lịch. Các nông trại du lịch đúng nghĩa đã hình thành và hoạt động với qui mô nhỏ
và chưa liên kết thành mạng lưới nên chưa được nhiều khách du lịch biết đến.
Trang trại đồng quê Ba Vì có liên kết với các nông hộ, trang trại tại các làng
nông nghiệp truyền thống quanh vùng, hỗ trợ cách thức hoạt động du lịch nông
nghiệp cho họ để cùng đón khách du lịch. Vì vậy khách du lịch đến trang trại
cũng được tham quan các làng sản xuất nông nghiệp truyền thống lâu đời trong
khu vực, được thưởng thức các sản vật thiên nhiên trong khung cảnh gia đình ấm
cúng và có thể tập xay lúa, giã gạo, kéo lưới, úp cá, nướng cá, nhổ cỏ, tráng bánh
cuốn, nấu xôi, chè…
Tóm lại, dù cho các dịch vụ mà nông trại cung cấp có phong phú đến đâu đi
nữa thì hoạt động du lịch cũng vẫn là một hoạt động cộng thêm của nông trại
nhằm tạo ra thêm doanh thu cho nông trại mà thôi. Nếu những hoạt động sản
xuất nông nghiệp không còn được tiến hành bình thường thì nông trại đã trở
thành một khu du lịch cung cấp dịch vụ du lịch chuyên nghiệp. Mặc dù cung cấp
dịch vụ du lịch không chuyên nghiệp nhưng điều đó không có nghĩa là chất
lượng các dịch vụ này kém hơn ở các khu du lịch. Tính không chuyên nghiệp
được coi là một đặc trưng của dịch vụ du lịch nông trại.
1.2.2 Mô hình mạng lưới nông trại du lịch
13
Như trên đã nói các nông trại du lịch tiến hành đồng thời hai hoạt động sản
xuất nông nghiệp và cung cấp dịch vụ du lịch mang tính gia đình. Do đó quy mô
của việc cung cấp dịch vụ du lịch là không đủ lớn để tổ chức quản lý theo mô
hình của các khu du lịch 8. Nhưng nếu các nông trại hoạt động riêng lẻ thì quy
mô quá nhỏ sẽ kém hiệu quả vì khó áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới trong
cung cấp dịch vụ du lịch. Thực tế cho thấy giải pháp khả thi trong trường hợp
này là các nông trại liên minh với nhau. Châu Âu là nơi có quá trình phát triển du
lịch nông thôn lâu đời do đó việc tham khảo các bài học kinh nghiệm về tổ chức
mạng lưới du lịch nông trại là rất hữu ích làm nền cho những ý tưởng về xây
dựng mạng lưới du lịch nhà vườn ở Việt nam nói chung và ở Bến Tre nói riêng.
Pháp là quốc gia được coi là nơi phát triển du lịch nông nghiệp sớm nhất.
Ngay từ những năm 1950, Bộ Nông nghiệp và Du lịch đã hỗ trợ cho các nhà
nông muốn cung cấp dịch vụ cho thuê phòng nghỉ liên kết với nhau thành lập
chuỗi nhà nghỉ đầu tiên lấy tên là “Gîtes de France” (1955). Đến nay du lịch
nông thôn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của ngành du lịch Pháp.
Năm 2011, du lịch nông thôn chiếm 36% tổng doanh thu du lịch của Pháp (39,2
tỷ €), hơn 81 triệu lượt du khách quốc tế đã đến Pháp9. Đạt được con số này là
nhờ Phòng Nông nghiệp đã phát triển một chương trình hỗ trợ cho nông dân bằng
cách cung cấp tư vấn kỹ thuật, đào tạo chuyên môn, chuyên nghiệp hóa và kết
nối thành mạng lưới để tạo ra các thương hiệu. Hiện nay ở Pháp có các mạng
lưới có quy mô lớn và đã xây dựng được thương hiệu khá nổi tiếng như:
Mạng lưới “Bienvenue à la ferme”: là một trong những mạng lưới có uy
tín được thành lập vào năm 1988. Mạng lưới này là đối tác của “Gîtes de
France”. Hiện mạng lưới này tập hợp được 6.200 chủ nông trại tham gia trong đó
có 218 nông trại nuôi ngựa, 544 nông trại khám phá, 366 nông trại giáo dục, 97
nhà nghỉ hè dành cho trẻ em, 8 lâm trại săn bắn, 402 nhà trọ, 3.238 điểm bán
hàng trực tiếp, 29 điểm dã ngoại, 105 điểm cắm trại, 692 phòng nghỉ và nhiều
hình thức khác. Bốn lĩnh vực hoạt động chính của mạng lưới này là bán trực tiếp
các loại thực phẩm, dịch vụ ẩm thực, lưu trú và các dịch vụ giải trí.
(1) Bán trực tiếp sản phẩm của nông trại. Các sản phẩm do nông trại sản
xuất được bán trực tiếp cho du khách đến nông trại, nhưng cũng bán trên thị
trường và ở một số điểm đặc biệt. Nông dân bán trực tiếp các sản phẩm do họ sản
xuất như các loại rau và trái cây, các loại thịt (cừu, heo, bê, bò, gia cầm, gan
ngỗng), pho mát, rượu, mật ong, mứt,... Tất cả các sản phẩm địa phương - một số
từ nông nghiệp hữu cơ – đều được đưa ra bán bảo đảm tươi mới, chất lượng, và
tất nhiên nguồn gốc rõ ràng.
8
9
Resort
http://agriculture.gouv.fr/Le-tourisme-a-la-campagne-les
14
(2) Ẩm thực: nông trại cung cấp các bữa ăn nhẹ hoặc bữa chính để du
khách khám phá các hương vị đích thực của sản phẩm do nông trại sản xuất (thịt
muối, trái cây và rau, phó mát, rượu vang...). Chủ nông trại sẵn sàng trả lời mọi
thắc mắc của du khách về nguồn gốc của sản phẩm, cách bảo quản rau, trái cây...
Một số nông trại còn cung cấp túi đi dã ngoại để du khách vừa đi vừa thưởng
thức, tổ chức các lớp dạy nấu ăn với các sản phẩm địa phương và nhiều hoạt
động khác.
(3) Lưu trú: các nông trại cung cấp những hình thức lưu trú khác nhau phù
hợp với nhu cầu của mọi người. Tùy theo phương tiện du khách dùng để đến
nông trại du khách có thể ở ngay trong xe hơi như một kiểu cắm trại, cắm trại tự
nhiên, thuê phòng ngủ trong nhà của chủ nông trại hay thuê nguyên căn nhà ở
trong nông trại.
(4) Các dịch vụ giải trí: đua ngựa
Mạng lưới “Accueil Paysan”: bên cạnh mạng lưới “Bienvenue à la ferme”
là mạng lưới “Accueil Paysan” với các nông trại có quy mô nhỏ hơn. Mạng lưới
này hiện có 800 thành viên được tổ chức thành 15 hiệp hội. Các hoạt động rất đa
dạng như bán các sản phẩm địa phương, tiểu thủ công, cắm trại, lưu trú,... Thành
lập năm 1987, Accueil Paysan tập hợp nông dân và các tổ chức nông thôn trong
vùng Rhône-Alpes, tổ chức sản xuất nông nghiệp tích hợp, tôn trọng con người
và môi trường để phát triển hài hòa vùng đất này. Các tổ chức nông thôn mà
những người nông dân đang tham gia giúp họ giàu thêm dựa vào một phương
thức sản xuất coi trọng chất lượng, kiểm soát các khoản đầu tư và giá cả, quảng
bá sản phẩm của họ. Họ muốn bảo đảm và chịu trách nhiệm đối với di sản được
thừa hưởng mà không cần phải vắt kiệt chúng hoặc làm cho chúng bị biến dạng.
Tất cả các trang trại thành viên trong hai mạng lưới này đều đang lo lắng về yêu
cầu cung cấp cho khách hàng một chế độ ăn uống lành mạnh, không sử dụng
thực phẩm biến đổi gen và có thuốc trừ sâu, tôn trọng cuộc sống, dựa trên sản
phẩm của trang trại. Đối với họ, sự tiếp đón dựa trên chất lượng của các mối
quan hệ con người và mong muốn tạo ra mối liên hệ xã hội thông qua vai trò giáo
dục của họ. Họ muốn du khách khám phá nghề nghiệp của họ, lối sống của họ,
môi trường của họ, chia sẻ với du khách kiến thức, chuyên môn, hoạt động
của họ.
Chuỗi nhà nghỉ “Gîtes de France”: được thành lập vào năm 1955, hiện là
mạng lưới nhà nghỉ tại nhà của người dân có quy mô lớn nhất ở Pháp. Từ chỗ chỉ
kết nối các nhà nông Pháp cung ứng phòng nghỉ ở nông thôn, đến nay mạng lưới
này đã mở rộng sang phòng nghỉ ở thành phố và vượt ra khỏi nước Pháp trở
thành mạng lưới của châu Âu.
Thụy Sĩ bắt đầu phát triển du lịch nông thôn trong những năm 1975 – 1979,
cho đến năm 2001 thì mạng lưới du lịch nông thôn hình thành có tên là “Réseau
15
Tourisme rural”. Mạng lưới này tập hợp các chuỗi đã hình thành theo khu vực
trong thời gian trước đó như SAB, AGORA, AGRIDEA Lausanne, USP,
Fédération suisse du Tourisme, Alpenbüro.10 Đến năm 2008 có 3 mạng lưới tầm
quốc gia cùng hoạt động trong lĩnh vực du lịch nông nghiệp ở Thụy sĩ là Ferien
auf dem Bauernhof (Nghỉ ở nông trại), Schlaf im Stroh! (Ngủ trên rơm) và
Tourisme-rural.ch11 (Liên đoàn du lịch nông thôn Thụy sĩ vùng nói tiếng Pháp).
Ba mạng lưới này đều thâm nhập vào thị trường yếu vì các nhà cung cấp không
là một phần của mạng lưới. Cần có nhiều hiệp hội địa phương hay vùng kết nối
các kênh marketing du lịch đến các khách hàng tiềm năng. Cả 3 tổ chức này chủ
yếu quan tâm đến việc quản lý thành viên, xúc tiến và quản lý chất lượng.
Ferien auf dem Bauernhof: được thành lập vào năm 1988, dựa trên kinh
nghiệm của các nông trại tư nhân đã hoạt động nhiều năm. Mục đích của hiệp hội
này là phát triển và xúc tiến hoạt động lưu trú ở trang trại trên khắp Thụy Sĩ
nhưng hiện giờ chủ yếu chỉ hoạt động ở vùng nói tiếng Đức. Mạng lưới này có
một trung tâm đặt chỗ cho phép liên lạc với khách hàng trong giờ hành chánh
một cách chuyên nghiệp. Nhờ vậy các nông trại không phải làm những việc sự
vụ này. Hiệp hội còn marketing cho các nông trại qua trung tâm đặt chỗ. Ngoài
ra hiệp hội còn sản xuất và sử dụng các tài liệu quảng cáo, tiếp nhận thành viên
mới, đào tạo và đào tạo liên tục các thành viên, kiểm soát chất lượng...
Schlaf im Stroh! được thành lập vào năm 1994 ở bang Jura. Mục đích của
hiệp hội là tạo nguồn cung cấp nơi lưu trú với chất lượng và giá cả hợp lý cho
khách hàng, các nông trại dễ dàng đầu tư vì không cần nhiều vốn, linh hoạt và
phù hợp với những chuẩn mực trong tương lai.
Fédération du tourisme rural de Suisse romande, tourisme-rural.ch: được
thành lập vào năm 2005 trong vùng nói tiếng Pháp. Mục tiêu của mạng lưới này
là tập hợp và hỗ trợ các nông trại du lịch ở Thụy sĩ, liên kết với các tổ chức hoạt
động trong lĩnh vực du lịch nông thôn, nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch
nông thôn, quảng bá du lịch nông thôn, cải thiện tiện nghi nông thôn, thu thập dữ
liệu định lượng và định tính về cung và cầu du lịch nông thôn ở Thụy Sĩ...
Đức là quốc gia mà du lịch nông nghiệp xuất hiện rất sớm, từ trước chiến
tranh thế giới lần thứ hai, giai đoạn mà các cư dân thành thị tìm về với thiên
nhiên để nghỉ ngơi. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều người tị nạn đến sống
ở các trang trại nên nông dân đã phải tiếp đón họ và sau khi những người tị nạn
này rời đi, nông dân bắt đầu làm du lịch.
Năm 1972, hiệp hội đầu tiên của các nông trại du lịch đã được thành lập với
tên là "die Arbeitsgemeinschaft Urlaub & Freizeit auf dem Lande e.V.” Hiệp
Thomas Egger, L’agrotourisme en Suisse – Analyse de la situation actuelle et
recommandations, Étude mandatée par Agora et tourisme-rural.ch, 2008
11
Fédération du tourisme rural de Suisse romande
10
16
hội đã tạo ra các sản phẩm du lịch nông nghiệp như khách sạn rơm "Heuhotels",
trang trại cà phê, và một số dịch vụ khác trong thập niên 1980. Hiệp hội cũng
tham gia vào việc tạo ra các nhóm khách trong nước cho các ngày nghỉ ở trang
trại vào năm 1991. Hiệp hội tập hợp các nông trại cung cấp các dịch vụ khác
nhau lấy tên là Bundeslän-der vào năm 1991 nhằm mục tiêu xúc tiến các kỳ nghỉ
ở nông trại và các hình thức du lịch nông thôn khác, tham gia vào các vấn đề du
lịch nông thôn ở tầm quốc gia, Quan hệ công chúng, Marketing, thúc đẩy chất
lượng thông qua sự hợp tác với Liên đoàn Du lịch Đức và chuẩn bị các hội thảo
cho các nhà cung cấp...
Trung tâm nghỉ dưỡng đồng quê được thành lập vào năm 1955, là nơi xuất
bản các tài liệu chủ đề du lịch nông thôn và bán hàng trực tiếp. Trung tâm quan
tâm đến việc marketing các kỳ nghỉ ở nông trại và du lịch nông thôn ở Đức và
xuất bản một cuốn hướng dẫn về những kỳ nghỉ ở nông trại tại Đức, Áo, Ý, Pháp,
Đan Mạch, Ba Lan, Hà Lan, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ. Trung tâm cũng duy trì
một trang web với hơn 3.500 nhà cung cấp (trong số đó có 2.200 là tại Đức) và
biên tập tạp chí "Hof Direkt" nhằm mục đích hỗ trợ các nhà cung cấp Đức và Áo
bán trực tiếp sản phẩm.
Hiệp hội nông dân Đức (DLG): xúc tiến du lịch nông nghiệp là một trong
những nhiệm vụ của hiệp hội. Từ 40 năm nay Hiệp hội xuất bản catalogue
“Urlaub auf dem Bauernhof” tập hợp 1400 địa chỉ và sách hướng dẫn “Fit on
Farm”. Hiệp hội cung cấp nhãn chất lượng cho các nông trại du lịch. Từ năm
1998 Hiệp hội liên kết với Trung tâm du lịch Đức cung cấp các kỳ nghỉ ở nông
trại ở Hà Lan, Bỉ và Anh. Hiệp hội cũng quản lý trang web
www.landtourismus.de.
Ý hiện có ba mạng lưới có quá trình hoạt động dài lâu và tập hợp nhiều
nông trại làm du lịch, đó là:
Anagritur hình thành năm 1981, đại diện cho 80% trang trại ở Ý. Hiệp hội
tổ chức nghiên cứu và hỗ trợ dự án, tư vấn cho các trang trại cách quản lý và sau
này là các hoạt động marketing.
Agriturist là một hiệp hội quốc gia về du lịch nông nghiệp, môi trường và
lãnh thổ. Hiệp hội này được thành lập vào năm 1965, hiện có khoảng 5.000 thành
viên. Hiệp hội quan tâm đến việc bảo vệ môi trường, quảng bá sản phẩm địa
phương và rượu vang. Công cụ xúc tiến của hiệp hội là xuất bản catalogue hằng
năm, các tạp chí bán nguyệt san, trang web www.agriturist.it và trung tâm đặt
phòng “Farm Holidays”.
Terranostra được thành lập vào năm 1973, là một hiệp hội theo đuổi những
mục tiêu giống như Agriturist. Hiệp hội hỗ trợ các trang trại tham gia cung cấp
17
- Xem thêm -