Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân môn luyện từ và câu ...

Tài liệu Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân môn luyện từ và câu lớp 5

.PDF
125
68
82

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LỜI CẢM ƠN HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC -------------------------Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu khóa luận này tôi không khỏi lúng túng và bỡ ngỡ. Nhưng dưới sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của Th.S Lê Thị Lan Anh, tôi đã từng bước tiến hành và hoàn thành khóa luận với đề tài Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5. THIỀU THỊ HÒA Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô Lê Thị Lan Anh, các thầy (cô) trong khoa Giáo dục Tiểu học cùng toàn thể các thầy (cô) giáo trong trường Tiểu học Đống Đa – thành phố Vĩnh Yên – tỉnh Vĩnh Phúc đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2012 TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN TRONG Sinh viên PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 5 Thiều Thị Hòa KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Tiếng Việt Người hướng dẫn khoa học Th.S LÊ THỊ LAN ANH HÀ NỘI - 2012 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Đề tài chưa được công bố trong bất cứ một công trình khoa học nào khác. Hà Nội, tháng 5 năm 2012 Sinh viên Thiều Thị Hòa 2 DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT GV : Giáo viên HS : Học sinh LT&C : Luyện từ và câu SGK : Sách giáo khoa TNKQ : Trắc nghiệm khách quan TV : Tiếng Việt 3 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 1. Lí do chọn đề tài 3 2. Lịch sử vấn đề 5 3. Mục đích nghiên cứu 8 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 8 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 8 6. Phương pháp nghiên cứu 8 7. Cấu trúc khóa luận 9 NỘI DUNG 10 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 10 1.1. Cơ sở lí luận 10 1.1.1. Một số vấn đề về trắc nghiệm khách quan 10 1.1.2. Một số vấn đề về dạy học Luyện từ và câu môn tiếng Việt 5 22 1.2. Cơ sở thực tiễn 46 1.2.1. Nhận thức của giáo viên về trắc nghiệm khách quan và việc sử dụng hình thức bài tập trắc nghiệm khách quan 47 1.2.2. Thực trạng sử dụng các công cụ kiểm tra, đánh giá trong dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 5 50 1.2.3. Thực trạng sử dụng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong dạy học phân môn luyện từ và câu lớp 5 51 1.2.4. Khó khăn và thuận lợi của việc sử dụng bài tập trắc nghiệm khách quan trong dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 5 52 CHƯƠNG 2. XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN TRONG PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 5 4 54 2.1. Các nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan 54 2.2. Quy tắc xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan 55 2.3. Quy trình xây dựng bài tập trắc nghiệm khách quan 57 2.4. Hệ thống các bài tập Luyện từ và câu lớp 5 59 2.5. Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan cho một số bài trong chương trình Luyện từ và câu lớp 5 61 2.6. Hệ thống bài tập mẫu 72 Đáp án 105 KẾT LUẬN 113 Tài liêu tham khảo 115 Phụ lục 1 Phụ lục 2 Phụ lục 3 5 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Dòng chảy thông tin mạnh cùng cơn lốc khoa học kĩ thuật đã và đang từng ngày, từng giờ làm thay đổi da thịt những thành viên trong đại gia đình nhân loại của chúng ta. Kết quả của sự thay đổi chóng mặt ấy đòi hỏi sự thích ứng phát triển của nhân tố con người. Dĩ nhiên, trong đó khẳng định vai trò của giáo dục là rất quan trọng cho sự phát triển của tương lai nhân loại. Đặc biệt là giáo dục Tiểu học – bậc học nền tảng – nơi ươm mầm và nuôi dưỡng những tài năng, chủ nhân tương lai của đất nước. Đó sẽ là điểm đặt đầu tiên cho quá trình phát triển và kết nối những bậc học khác. Ở bậc Tiểu học, các em có được sự hiểu biết, có nền tảng kiến thức vững chắc thì sau này các em mới có đà phát triển. Từ đó nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực có nhân cách toàn diện để đáp ứng được nhu cầu của xã hội. “Giáo dục Tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên – xã hội và con người, có những kĩ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ vệ sinh, có hiểu biết ban đầu về nghệ thuật. Phương pháp giáo dục Tiểu học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” (Theo Điều 24 Luật Giáo dục - 1998). Vậy giáo dục tiểu học đã trang bị cơ sở ban đầu quan trọng nhất của người công dân, lao động. Đó là đào tạo những con người toàn diện phát triển về cả tri thức và nhân cách. Ở bậc Tiểu học, cùng với các môn học khác, môn Tiếng Việt là một môn học trung tâm, quan trọng chiếm nhiều thời lượng và nó có tính tích hợp cao. Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học nhằm mục tiêu hình thành và phát triển ở 6 học sinh bốn kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi, từ đó góp phần rèn luyện các thao tác tư duy. Môn Tiếng Việt còn là cơ sở để học những môn học khác: Toán, Tự nhiên và Xã hội, Đạo đức,… và giúp các em có điều kiện để lĩnh hội kiến thức của bài học. Ngoài ra, môn Tiếng Việt là môn học công cụ nhằm góp phần đào tạo cho học sinh phát triển theo đặc trưng của mình. Đó chính là tạo cho học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt để giao tiếp, để tư duy. Và cũng thông qua đó giáo dục các em những tư tưởng, tình cảm trong sáng, lành mạnh góp phần nhỏ trong việc hình thành những phẩm chất quan trọng của con người để thực hiện những nhiệm vụ đặt ra của hệ thống giáo dục quốc dân. Có bảy phân môn trong môn Tiếng Việt, đó là: Học vần, Tập viết, Chính tả, Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện. Đó đều là những phân môn không thể thiếu trong quá trình dạy học môn Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Luyện từ và câu. Phân môn Luyện từ và câu giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp cho học sinh các kiến thức về từ và câu. Việc dạy Luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hóa làm phong phú vốn từ của học sinh, cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về từ và câu, rèn cho học sinh những kĩ năng dùng từ, đặt câu và sử dụng các kiểu câu để thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình. Đồng thời giúp cho học sinh hiểu được các câu nói của người khác. Như chúng ta đã biết từ ngữ có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Từ là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ, nó quy định tầm quan trọng trong việc dạy từ ngữ ở trường tiểu học. Vốn từ càng phong phú bao nhiêu thì khả năng lựa chọn từ càng rõ bấy nhiêu. Do vậy, ở trường tiểu học từ ngữ được dạy ở tất cả các môn học. 7 Để học sinh học tốt hơn phân môn Luyện từ và câu cũng như hiểu biết hơn về từ ngữ thì trong chương trình, giáo viên phải hướng dẫn học sinh học tập để các em hiểu và tiếp thu bài tốt hơn. Đồng thời, cũng phải có những câu hỏi, bài tập để giúp các em củng cố và nâng cao kiến thức hơn nữa. Giờ học Luyện từ và câu phần lớn được xây dựng từ các bài tập. Những bài tập Luyện từ và câu được cấu thành từ một tổ hợp bài tập và được gọi là bài thực hành luyện từ và câu. Một trong những đổi mới của phân môn này là bên cạnh các bài tập mang tính truyền thống thì xuất hiện nhiều dạng bài tập trắc nghiệm khách quan khác nhau. Trắc nghiệm khách quan giúp học sinh phát huy khả năng tư duy, tính nhạy bén đồng thời kiểm tra được nhiều nội dung, đánh giá được học sinh. Ở lớp 5, các em thuộc giai đoạn 2 của Tiểu học. Đó là lứa tuổi có đặc điểm, tâm - sinh lý đang phát triển. Các em tiếp thu kiến thức một cách nhanh chóng và có hiệu quả. Trên thực tế đã có nhiều người dành nhiều thời gian để xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan cho nhiều môn học khác. Trên thị trường cũng đã xuất hiện nhiều sách tham khảo cho giáo viên và học sinh nhưng hầu hết những tài liệu này vẫn mang tính tổng quát, chưa đi sâu, cụ thể vào các dạng bài tập. Xuất phát từ tất cả những lý do trên, chúng tôi đã quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân môn luyện từ và câu lớp 5” . 2. Lịch sử vấn đề a. Trên thế giới Vấn đề sử dụng phương pháp kiểm tra, đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan từ lâu đã được các nhà giáo dục quan tâm. 8 Vào khoảng thế kỷ XVII – XVIII, tại châu Âu, các phương pháp trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập đã được chú ý và bắt đầu tiến hành trên phạm vi rộng rãi. Ở Mỹ, từ đầu thế kỷ XVI đã dùng phương pháp này để pháp hiện năng khiếu, xu hướng nghề nghiệp của học sinh. Sang đầu thế kỷ XX. E.thodaicơ là người đầu tiên đã dùng trắc nghiệm như một phương pháp khách quan và nhanh chóng để đo trình độ kiến thức của học sinh, bắt đầu dùng với một số môn học. Ở Liên Xô, phương pháp kiểm tra bằng trắc nghiệm khách quan cũng được sử dụng từ năm 1926. Bước vào thế kỉ XIX, trắc nghiệm khách quan trở thành một phương pháp kiểm tra, đánh giá được sử dụng nhiều nhất, phổ biến nhất, thu hút được sự quan tâm của đông đảo mọi người. Hiện nay, trắc nghiệm khách quan đã trở thành một trong những phương tiện có giá trị trong giáo dục. Ở các nước trên thế giới đã sử dụng phương pháp này trong các kì kiểm tra, thi tuyển. b. Ở Việt Nam Khoa trắc nghiệm tâm lý và giáo dục đã có lịch sử phát triển hơn một thế kỷ ở các nước tiên tiến trên thế giới nhưng nó còn quá xa lạ đối với các thầy (cô) giáo Việt Nam ở mọi cấp học. Ở các trường đại học nước ngoài, môn trắc nghiệm giáo dục đã được sinh viên làm quen ngay từ khi còn trên giảng đường đại học. Còn ở Việt Nam thì từ cuối năm 1969, trắc nghiệm thành quả học tập mới được giảng dạy lần đầu tiên ở lớp cao học giáo dục và tiến sĩ giáo dục tại trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Ở Việt Nam, tác giả Dương Thiệu Tống là người nghiên cứu khá sâu về hình thức trắc nghiệm khách quan. Tác giả chính là người giảng dạy bộ môn này cho các lớp cao học giáo dục và tiến sĩ giáo dục tại Việt Nam. Tác giả đã viết hai công trình về trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập, đó là: 9 + Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập (phương pháp thực hành). + Trắc nghiệm tiêu chí (phương pháp thực hành). Ngoài công trình trên ra còn có một số công trình nghiên cứu về hình thức trắc nghiệm khách quan như kỷ yếu hội thảo khoa học của trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh – Viện nghiên cứu giáo dục – xuất bản năm 2006. Trong công trình có trình bày một số đề tài nghiên cứu về trắc nghiệm khách quan. Ngoài ra, còn có nhiều công trình nghiên cứu khác được công bố trên các tạp chí Nghiên cứu giáo dục, một số luận văn của các học viên, sinh viên cao học có liên quan đến đề tài Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5. Việc sử dụng trắc nghiệm khách quan vào thi cử được bắt đầu từ năm 1974 bằng việc thi tú tài ở miền Nam. Những năm gần đây, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các trường đại học đã tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi về việc cải tiến hệ thống các phương pháp kiểm tra, đánh giá của học sinh, sinh viên trong cả nước bằng việc sử dụng phương pháp này. Hiện nay, một số nơi đã bắt đầu sử dụng trắc nghiệm khách quan trong quá trình dạy học: Toán, Vật lí, Sinh học, …và một số môn đã có học phần thi bằng phương pháp trắc nghiệm như môn tiếng Anh và một số môn cũng đã có sách trắc nghiệm như: Hóa học, Sinh học, Giáo dục học,... Ở nước ta, vào tháng 7 năm 1996, thí điểm thi tuyển sinh đại học bằng trắc nghiệm khách quan được tổ chức đầu tiên tại trường Đại học Đà Lạt và đã đạt được thành công. Sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan để làm đề thi sẽ đảm bảo được tính công bằng và độ chính xác trong thi tuyển. Như vậy, vấn đề sử dụng câu hỏi nói chung và đặc biệt sử dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan trong dạy học phân môn Luyện từ và câu là một vấn đề đã và đang thu hút được sự quan tâm của nhiều người, nhiều cấp. Những 10 tài liệu mà chúng tôi tiếp cận được là cơ sở lí luận và là gợi ý có giá trị khi giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của đề tài, đặc biệt là thiết kế câu hỏi trắc nghiệm khách quan trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5. Trên cơ sở tham khảo những tư liệu có liên quan đến hình thức kiểm tra trắc nghiệm khách quan, là người tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này, chúng tôi tiếp thu gợi ý của những người đi trước và triển khai đề tài Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5. 3. Mục đích nghiên cứu Xây dựng được hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5 một cách chính xác, hợp lí và nâng cao được chất lượng học tập của học sinh. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân môn Luyện từ và câu. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Do thời gian và kiến thức có hạn nên phạm vi nghiên cứu đề tài này chỉ dừng lại ở việc xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Tìm hiểu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn liên quan đến đề tài để làm cơ sở xây dựng hệ thống bài tập. 5.2. Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5. 6. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích - tổng hợp - Phương pháp quan sát 11 - Phương pháp điều tra - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm - Phương pháp hệ thống 7. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, phần Nội dung khóa luận gồm hai chương: Chương 1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn Chương 2. Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5 12 NỘI DUNG CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Một số vấn đề về trắc nghiệm khách quan 1.1.1.1. Khái niệm về trắc nghiệm * Khái niệm trắc nghiệm Theo từ điển Tiếng Việt: “trắc” có nghĩa là đo lường, “nghiệm” có nghĩa là suy xét, chứng thực. Trắc nghiệm theo Tiếng Anh là “thử”, “phép thử”, “sát hạch” Lí luận về trắc nghiệm có rất nhiều cách hiểu khác nhau trong đó có một số cách hiểu sau: Theo Dương Thiệu Tống: “Trắc nghiệm là một dụng cụ hay phương thức hệ thống nhằm đo lường một mẫu các động thái để trả lời câu hỏi: thành tích của các cá nhân như thế nào khi so sánh với những người khác hay so sánh với một lĩnh vực các nhiệm vụ dự kiến” Theo A. Petropxi (1970) cho rằng: “Trắc nghiệm là bài tập làm trong thời gian ngắn mà việc thực hiện bài tập đó nhờ có sự đánh giá về số lượng, chất lượng có thể coi là dấu hiệu của sự hoàn thiện một số chức năng tâm lí”. Cho tới ngày nay người ta vẫn hiểu rằng trắc nghiệm là một bài tập nhỏ hoặc câu hỏi có kèm theo câu trả lời sẵn yêu cầu học sinh suy nghĩ rồi dùng ký hiệu đơn giản để quy ước trả lời. 1.1.1.2. Phân loại trắc nghiệm Trắc nghiệm là một hành động để đo lường năng lực của các đối tượng nào đó nhằm những mục đích xác định. Trong giáo dục, trắc nghiệm được tiến hành trong các bài kiểm tra đánh giá kết quả học tập, giảng dạy đối với môn học hoặc trong các kì thi cuối cấp, tuyển sinh. 13 Tuy nhiên theo ý kiến của tác giả Phó Đức Hòa và một số nhà nghiên cứu khoa học khác thì người ta đi sâu vào nghiên cứu và phân loại câu hỏi trắc nghiệm thành hai loại: trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận. Trắc nghiệm khách quan (Objective Test) là bài kiểm tra trong đó nhà sư phạm đưa ra các mệnh đề và các câu trả lời khác nhau, yêu cầu người học phải chọn đáp án phù hợp. Trắc nghiệm tự luận (Essay-type Test) là bài kiểm tra (truyền thống). Trong đó nhà sư phạm đưa ra một hoặc vài yêu cầu đôi khi là bài toán nhận thức và đòi hỏi người học phải phân tích các yêu cầu hoặc giải quyết bài toán. 1.1.1.3. Khái niệm trắc nghiệm khách quan Trắc nghiệm khách quan cũng có nhiều quan điểm, nhiều cách hiểu trong đó có một số ý kiến sau: Trắc nghiệm khách quan là bài kiểm tra trong đó nhà sư phạm đưa ra các mệnh đề và các câu trả lời khác nhau, yêu cầu người học phải chọn đáp án phù hợp [6,114 ]. Trắc nghiệm khách quan thường bao gồm nhiều mệnh đề, câu hỏi hay mô hình và được trả lời bằng các dấu hiệu đơn giản hay một cụm từ, đôi khi là các con số…Trắc nghiệm khách quan mang tính quy ước vì bài trắc nghiệm được chấm bằng cách đếm số lần học sinh trả lời đúng. Do đó hệ thống cho điểm là khách quan và không phụ thuộc vào người chấm [6,117]. 1.1.1.4. Phân loại trắc nghiệm khách quan Tùy vào quan điểm của mỗi tác giả có thể phân loại trắc nghiệm theo các cách khác nhau với những tên gọi khác nhau. Theo nhiều quan điểm của các nhà khoa học, người ta đưa ra bốn loại trắc nghiệm khách quan như sau: a. Trắc nghiệm đúng – sai (Yes or No) Câu trắc nghiệm đúng – sai bao gồm: - Phần 1: Là một câu hỏi hoặc một phát biểu (còn gọi là phần đề). 14 - Phần 2: Là phương án lựa chọn đúng – sai, phải – không phải, đồng ý – không đồng ý. Yêu cầu: Chọn 1 trong 2 phương án trả lời. Ví dụ 1: Viết vào  chữ Đ trước câu trả lời đúng nghĩa của từ bối rối:  a, Mất bình tĩnh trước một sự việc.  b, Lúng túng, mất bình tĩnh, không biết nên xử trí thế nào.  c, Không nghĩ ra việc gì để làm trước một tình huống.  d, Run sợ trước một việc gì đó. - Ưu điểm: + Dễ sử dụng + Có thể ra nhiều câu một lúc vì tốn ít thời gian cho mỗi câu. Nhờ vậy khả năng bao quát chương trình lớn hơn. - Hạn chế: + Khuyến khích được sự đoán ngẫu nhiên của HS, độ may rủi là 50 %. + Thường chỉ dùng để kiểm tra ở mức độ biết và hiểu đơn giản, ít kích thích tư duy, ít khả năng phân biệt trình độ HS. - Yêu cầu khi xây dựng câu hỏi: + Câu viết phải ngắn gọn, rõ ràng, câu hỏi phải xếp chính xác là đúng hay sai. + Đặt ra một mệnh đề và yêu cầu người học xác định mệnh đề đó đúng hay sai, không nên bố trí số câu đúng bằng số câu sai, không nên trích nguyên câu trong SGK, … b. Trắc nghiệm nhiều lựa chọn (Multiple choice Items) Trắc nghiệm nhiều lựa chọn là loại câu thông dụng nhất, còn gọi là câu đa phương án, loại câu này gồm 2 phần là phần câu dẫn và phần câu lựa chọn: 15 - Phần câu dẫn: Là một câu hỏi hay một câu lơ lửng tạo cơ sở cho sự lựa chọn. - Phần lựa chọn gồm nhiều phương án trả lời. Người trả lời sẽ lựa chọn một phương án trả lời đúng hoặc đúng nhất hoặc không có liên quan gì đến trong số các phương án cho trước. Những phương án còn lại là những phương án gây nhiễu. Ví dụ 2: Cách viết nào đúng quy tắc viết tên người nước ngoài? A. An-be anh-xtanh C. An-be Anh-xtanh B. An be Anh-xtanh D. An-be-Anh-xtanh - Ưu điểm: + Độ tin cậy cao, yếu tố ngẫu nhiên, mang tính đơn giản, đảm bảo độ giá trị. + Có thể đo được khả năng của người học: nhớ, thông hiểu, áp dụng, phân tích, tổng hợp, … - Hạn chế: Có thể khuyến khích sự đoán mò của người học. - Yêu cầu khi xây dựng câu hỏi: + Phần câu dẫn phải diễn đạt rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu. Phần câu dẫn đôi khi là câu hỏi hoặc câu nhận định chưa hoàn chỉnh. + Các phương án trả lời có cùng một cách viết, và gần giống nhau để tăng độ nhiễu. + Các phương án nhiễu cần được diễn đạt sao cho hợp lí và cảm giác có độ tin cậy cao. + Các phương án lựa chọn được sắp xếp ngẫu nhiên, không theo một trình tự logic nào cả. 16 c. Trắc nghiệm điền khuyết (Completion Items) Những câu hỏi và bài tập dạng này có chứa những chỗ trống để HS điền những cụm từ này hoặc do HS tự nghĩ ra hay nhớ ra hoặc được cho sẵn trong những phương án có nhiều lựa chọn. Ví dụ 3: Chọn từ thích hợp trong ngoặc để điền vào chỗ trống: a. Đồng bào miền núi thường trồng lúa trên những thửa ruộng … b. Những ngày lễ, hội, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thường tập trung bên … để múa hát. c. Để tránh thú dữ, người dân tộc thường làm … để ở. d. Truyện “Hũ bạc của người cha” là truyện cổ của dân tộc …. (nhà rông, Chăm, nhà sàn, bậc thang) - Ưu điểm: + Dễ sử dụng + HS khó có thể đoán mò vì HS phải viết câu trả lời của mình khi trả lời câu hỏi trắc nghiệm. + Giúp HS luyện trí nhớ khi học tập. - Hạn chế: + Thường dùng để kiểm tra ở mức độ biết và hiểu đơn giản. + Đôi khi khó đánh giá đúng nội dung câu trả lời khi HS viết sai chính tả hoặc khi câu trắc nghiệm gợi ra nhiều hướng đáp án đúng. + GV thường có khuynh hướng chép nguyên văn các câu từ SGK + Việc chấm bài mất nhiều thời gian. + Tính khách quan kém, có thể chịu tác động bởi yếu tố chủ quan của GV. - Yêu cầu khi xây dựng câu hỏi: + Không nên để quá nhiều chỗ trống trong mỗi câu, nên bố trí chỗ trống đặt ở giữa hoặc cuối câu không nên đặt ở đầu câu. 17 + Các phương án trả lời là các từ, cụm từ, các con số cho trước có thể tương đương hoặc không tương đương với số lượng ô trống. Nếu các từ, cụm từ không cho trước thì phải là các từ, cụm từ có nghĩa trong thực tế. d. Trắc nghiệm ghép đôi (Matching Items) Bài tập dạng này gồm 2 phần: - Phần 1: Phần thông tin ở bảng truy (câu hỏi) - Phần 2: Phần thông tin ở bảng chọn (câu trả lời) Hai phần này được thiết kế thành 2 cột. Yêu cầu đặt ra là lựa chọn yếu tố tương đương hoặc có sự kết hợp của mỗi cặp thông tin ở bảng truy và bảng chọn. Giữa các cặp ở hai bảng có mối liên hệ trên một cơ sở đã định. Có hai hình thức: Đối chiếu hoàn toàn (số mục ở bảng truy bằng số mục ở bảng chọn), đối chiếu không hoàn toàn (số mục ở bảng truy ít hơn số mục ở bảng chọn). Ví dụ 4: Tạo câu kể Ai làm gì? bằng cách nối cột A với cột B? A B 1) Đàn cò trắng a. Kể chuyện cổ tích. 2) Bà em b. Bay lượn trên cánh đồng. 3) Bộ đội c. Giúp dân gặt lúa - Ưu điểm: Dễ xây dựng câu hỏi và dễ sử dụng, yếu tố may rủi, ngẫu nhiên giảm dần, hạn chế sự đoán mò. - Hạn chế: + Mất nhiều thời gian cho việc thiết kế loại câu trắc nghiệm này. + Thông tin có tính giàn trải, không nhấn mạnh được những điều quan trọng hơn. 18 - Yêu cầu khi xây dựng câu hỏi: + Dãy thông tin nêu ra không nên quá dài, nên thuộc cùng một loại, có liên quan đến nhau, sắp xếp nội dung của hai cột một cách rõ ràng, mang tính đồng nhất. + Thông tin ở hai cột không nên bằng nhau, nên có thông tin dư ở một cột để tăng sự cân nhắc khi lựa chọn. Thứ tự của các câu ở hai cột không khớp với nhau để gây khó khăn trong việc lựa chọn và ghép đôi. 1.1.1.5. Ưu điểm và hạn chế của trắc nghiệm khách quan a. Ưu điểm - TNKQ cho phép trong một thời gian ngắn kiểm tra được nhiều kiến thức cụ thể, đi sâu vào những khía cạnh khác nhau của một kiến thức, chống khuynh hướng học tủ. - TNKQ tốn ít thời gian thực hiện (đặc biệt là khâu chấm bài). - TNKQ đảm bảo được tính khách quan, công bằng. Khi cho điểm trong kiểm tra truyền thống, cùng một bài làm có thể được đánh giá khác nhau, có thể điểm số chênh lệch khá lớn tùy thuộc vào người chấm. Chấm bài TNKQ sẽ tránh được sai lệch và hạn chế điều đó. - Các câu hỏi, đáp án được quy định về số lượng, nội dung và đã được chuẩn hóa nên dễ dàng sử dụng phương pháp thống kê toán học để tổng hợp và xử lý kết quả. - TNKQ nếu có thể được sử dụng thích hợp có thể gây hứng thú và tính tích cực học tập cho học sinh. Là một hình thức kiểm tra, một dạng bài tập mới, so với các hình thức kiểm tra và dạng bài tập truyền thống TNKQ có thể được nhiều học sinh ưa thích. Việc chấm bài được nhanh gọn, HS có thể sớm biết kết quả bài làm của mình, HS có thể tự đánh giá bài làm của mình và bài làm của những bạn khác. 19 b. Hạn chế Tuy nhiên, cũng như bất kì một phương pháp nào, TNKQ cũng không thể tránh khỏi những hạn chế: - Để có được những bài tập có chất lượng đòi hỏi quá trình soạn thảo phải công phu, tốn kém thời gian, yêu cầu người soạn câu hỏi không những có kiến thức mà phải có cả kĩ năng cao. - Khi đưa ra các câu hỏi trắc nghiệm, GV khó biết được tư tưởng, nhiệt tình, thái độ, hứng thú của HS với vấn đề được nêu ra. - Các câu trắc nghiệm có thể không đo được khả năng phán đoán tinh vi và khả năng giải quyết các vấn đề khéo léo một cách hiệu nghiệm bằng câu hỏi tự luận soạn kỹ. - Tốn nhiều giấy để in loại câu hỏi này so với các câu hỏi khác và HS cần nhiều thời gian để đọc câu hỏi. - Các bài tập trắc nghiệm chủ yếu rèn trí nhớ máy móc khó phát triển tư duy và đánh giá được quá trình suy nghĩ dẫn tới kết quả làm bài trắc nghiệm. Đây là nhược điểm lớn nhất của TNKQ. Ngày nay, trắc nghiệm đang được sử dụng ngày càng phổ biến. Vì những nhược điểm nói trên khó có thể khắc phục một cách triệt để nên trắc nghiệm không phải là phương pháp thay thế phương pháp truyền thống mà cần phải sử dụng phối hợp một cách hợp lý giữa chúng. 1.1.1.6. Vai trò của trắc nghiệm khách quan trong dạy học Trắc nghiệm khách quan được dùng trong kiểm tra đánh giá đã mang lại hiệu quả cao hơn so với các phương pháp kiểm tra đánh giá khác như: - Kiểm tra được kiến thức trên diện rộng trong khoảng thời gian ngắn. - Cung cấp cho học sinh kiến thức mới và củng cố kiến thức cơ bản qua bài kiểm tra. - Các thông tin phản hồi lại của học sinh nhanh chóng do việc kiểm tra trên máy vi tính. Sau khi kiểm tra thì sẽ biết được ngay kết quả đạt được. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất