Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xây dựng con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở hải phòng hiệ...

Tài liệu Xây dựng con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở hải phòng hiện nay

.PDF
121
37
121

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  VŨ THỊ HẰNG XÂY DỰNG CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  VŨ THỊ HẰNG XÂY DỰNG CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60 22 80 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN THẾ KIỆT HÀ NỘI - 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Thế Kiệt. Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày 06 tháng 9 năm 2013. Tác giả luận văn Vũ Thị Hằng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 Chương 1. CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ NỘI DUNG, YÊU CẦU XÂY DỰNG CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN HÓA Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY ...................... 8 1.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một số đặc điểm của CNH, HĐH ở Hải Phòng hiện nay ........................................................... 8 1.1.1. Thực chất và tính tất yếu của CNH, HĐH ở nước ta hiện nay ......... 8 1.1.2. Một số đặc điểm của CNH, HĐH ở Hải Phòng hiện nay ............... 15 1.2. Vai trò của con người, nội dung, yêu cầu xây dựng con người đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH ở Hải Phòng hiện nay................... 25 1.2.1. Khái niệm con người, xây dựng con người và vai trò của con người trong quá trình CNH, HĐH ................................................ 25 1.2.2. Nội dung, yêu cầu xây dựng con người đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH ở Hải Phòng hiện nay ............................................... 36 Chương 2. XÂY DỰNG CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ................................................................ 51 2.1. Thực trạng xây dựng con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Hải Phòng hiện nay và nguyên nhân của nó ................................ 51 2.1.1. Thực trạng con người Hải Phòng hiện nay ................................... 51 2.1.2. Tình hình xây dựng con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Hải Phòng hiện nay và những nguyên nhân của nó ....................... 58 2.1.3. Nguyên nhân của thực trạng xây dựng con người ......................... 75 2.2. Phương hướng nhằm xây dựng con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Hải Phòng hiện nay ............................................... 79 2.2.1. Xây dựng con người ở Hải Phòng gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Phòng và chiến lược con người ở Việt Nam vừa “hồng” vừa “chuyên” ............................................ 79 2.2.2. Quán triệt quan điểm đồng bộ trong công tác giáo dục xây dựng con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Hải Phòng hiện nay...................................................................................... 80 2.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Hải Phòng hiện nay ............................................... 84 2.3.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở thành phố Hải Phòng, tạo điều kiện thuận lợi xây dựng con người mới hiện nay ................................................ 84 2.3.2. Nâng cao hiệu quả giáo dục, phát triển nguồn nhân lực (nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao về kinh tế biển) đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở thành phố Cảng Hải Phòng .............................. 86 2.3.3. Phát huy dân chủ trong Đảng và trong toàn xã hội. Nâng cao vai trò gương mẫu của cán bộ Đảng viên, đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng ở Hải Phòng hiện nay ..................................... 89 2.3.4. Đổi mới chính sách xã hội nhằm tăng cường bảo vệ chăm sóc sức khoẻ con người, nâng cao chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống đất Cảng cho con người ở Hải Phòng hiện nay .........100 2.3.5. Phát huy tính tự giác rèn luyện học tập của con người ở Hải Phòng hiện nay ..........................................................................104 2.3.6. Mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế nhằm từng bước xây dựng đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Hải Phòng hiện nay.....................106 KẾT LUẬN ..................................................................................................109 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................111 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Có thể nói, trong thời đại ngày nay, đối với bất cứ quốc gia nào, việc xác định một cách đúng đắn và huy động một cách có hiệu quả những nguồn lực có thể huy động đều được coi là điều có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đối với nước ta, khi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được xác định là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thì vấn đề xác định đúng và phát huy tối đa nhân tố con người có thể tạo ra hiệu quả to lớn trong tiến trình phát trển kinh tế đất nước. Với sự thay đổi nhanh chóng của thế giới hiện nay, khoa học kỹ thuật đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp với hàm lượng chất xám ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong mỗi sản phẩm làm ra, thì con người càng tỏ rõ vai trò quyết định của mình trong tiến trình phát triển của xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước có ý nghĩa, tác dụng to lớn và toàn diện trên các phương diện kinh tế - xã hội, song cũng không kém phần khó khăn, phức tạp. Để thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần phải có các điều kiện như vốn, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, khoa học công nghệ... trong các điều kiện đó, nguồn nhân lực đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Hải Phòng là thành phố công nghiệp, từ lâu đã nổi tiếng là một cảng biển lớn nhất ở miền Bắc, là đầu mối giao thông quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Là thành phố cửa biển, có nhiều tiềm năng, Hải Phòng đã có những bước tiến hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cải thiện đời sống nhân dân. Hải Phòng được đánh giá là thành phố có dân số trẻ, lực lượng lao động dồi dào, lao động khéo léo, thông minh, cần cù, sáng tạo, nhạy cảm. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hải 1 Phòng đang gặp phải không ít những khó khăn, thách thức như thiếu vốn, tài nguyên thiên nhiên chưa nhiều, khoa học công nghệ chưa cao, nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế. Thực tế trên đòi hỏi, muốn thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì một trong những yêu cầu cấp bách là phải xây dựng, phát triển con người toàn diện, hiện đại, có chất lượng cao. Nhân tố này có ý nghĩa quyết định cho sự thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và thành phố Hải Phòng nói riêng. Làm thế nào để xây dựng con người hiện đại, toàn diện đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ? Đây là vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng được nghiên cứu một cách hệ thống, cơ bản, kịp thời nhằm tìm kiếm những giải pháp phù hợp, tạo ra sự chuyển biến về chất góp phần xây dựng những con người Hải Phòng mới, toàn diện, năng động, hiện đại. Với ý nghĩa trên, tác giả đã chọn đề tài: “Xây dựng con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Phòng hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề xây dựng con người đã được một số tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau: đề tài khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, chuyên đề, khảo sát, và các bài viết đăng tải trên các tạp chí, sách báo… Những công trình tiêu biểu có thể kể đến những công trình sau: - Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Tâm (1997) “Vai trò của chính sách xã hội trong việc phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay” (qua khảo sát thực tế ở Tp Hồ Chí Minh). - Luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Thanh (2001) “Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của giáo dục - đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. 2 - Luận án tiến sĩ triết học của ê Quang Hoan (2001) “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc phát huy nhân tố con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay”. - Luận án tiến sĩ của Trần Thanh Đức (2002) “Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với vấn đề đào tạo người lao động trong sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay” (từ thực tiễn ĐB sông Cửu Long). - Luận văn thạc sĩ triết học của Vũ Tiến Dũng (2004) “Phát huy nhân tố con người trong sự phát triển kinh tế ở Hà Nội hiện nay”. - Luận văn thạc sĩ của ưu Thị Lan (2008) “Phát huy nhân tố con người trong lực lượng sản xuất đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Cần Thơ hiện nay”. - Luận văn thạc sĩ triết học của Phùng Danh Cường (2009) “Vấn đề phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay”. - Luận văn thạc sĩ Triết học của Nguyễn Thị Thuý Cầm (2009) “Phát huy nhân tố con người trong thời kỳ đổi mới ở tỉnh Quảng Bình hiện nay”. Ngoài ra cò có rất nhiều bài viết khoa học về con người, phát huy nhân tố con người, nguồn lực con người có ý nghĩa như: - Phạm Minh Hạc (chủ biên) “Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tác giả luận giải quan điểm của Đảng về vấn đề con người, vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta. - PGS.TS Đặng Hữu Toàn “Học thuyết Mác về con người và phát triển con người đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay” - Tạp chí Triết học số 1 - 1997. - Phạm Công Nhất với cuốn “Phát huy nhân tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay” Nxb Chính trị quốc gia, năm 2007. 3 - PGS.TS Hoàng Đình Cúc: “Vấn đề văn hoá và con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta” - Tạp chí Triết học, số 1 - 2007. - PGS.TS Hoàng Đình Cúc: “Vấn đề con người trong học thuyết Mác và phương hướng, giải pháp phát triển con người cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay” - Tạp chí Triết học, số 8 - 2008. - PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt “Xây dựng và phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay” - Tạp chí Triết học số 6 - 2008. - PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt “Phát huy nguồn lực con người trong công cuộc phát triển đất nước hiện nay” - Tạp chí Lý luận chính trị số 6 - 2012. Nhìn chung do yêu cầu, mục đích của mỗi công trình khoa học, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu làm rõ từng vấn đề cụ thể như quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người, bản chất con người, phát triển con người toàn diện… Do đó vấn đề con người được trình bày trong các công trình này được biểu hiện với tư cách một thực thể sinh học - xã hội; bản chất của con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội trong quan hệ hiện thực với tư cách chủ thể sáng tạo lịch sử. Những công trình này cũng thể hiện quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người, phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong mỗi công trình trên thì cách tiếp cận, nghiên cứu về con người và xây dựng con người có sự khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay các nghiên cứu về vấn đề xây dựng con người Hải Phòng còn phân tán, chưa hệ thống. Đặc biệt, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về xây dựng con người trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Phòng hiện nay. Về thành phố Hải Phòng cũng có nhiều công trình khoa học và bài viết về một số lĩnh vực như giáo dục - đào tạo, kinh tế - xã hội, khoa học, văn hóa, đạo đức, nguồn nhân lực, chuyển dịch cơ cấu kinh tế như: 4 - Kỷ yếu quá trình hình thành, phát triển thành phố và đặc tính người Hải Phòng, Ban Nghiên cứu lịch sử Hải Phòng - Nxb Hải Phòng. - PGS.TS Đan Đức Hiệp, T.S Phạm Vũ Cầu, (2005), Kinh tế Hải Phòng 50 năm xây dựng và phát triển ( 1955 - 2005), Nxb thống kê, Hà Nội. - PGS.TS Đan Đức Hiệp (2007), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng đến năm 2020, Nxb Thống kê, Hà Nội. - PGS.TS Đan Đức Hiệp (2010), Kinh tế Hải Phòng 25 năm đổi mới và phát triển (1986 -2010), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội... Tuy nhiên, trong các công trình chuyên khảo đó, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu xây dựng con người trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với thực tiễn của thành phố Hải Phòng giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở kế thừa những thành quả đã đạt được của các công trình khoa học đã công bố, đề tài: “Xây dựng con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Phòng hiện nay” sẽ góp phần làm phong phú hơn lý luận và thực tiễn ở Việt Nam nói chung và thành phố Hải Phòng nói riêng. Để đánh giá đúng thực chất xây dựng con người, nội dung, yêu cầu xây dựng con người ở Hải Phòng, thì việc tìm ra những hạn chế, bất cập qua đó đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng con người trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Phòng có một ý nghĩa hết sức to lớn. Do vậy, tác giả lựa chọn nghiên cứu vấn đề này với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Phòng hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở làm rõ nội dung, yêu cầu của việc xây dựng con người và thực trạng vấn đề xây dựng con người ở Hải Phòng, từ đó đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng con người đáp ứng tốt yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở thành phố này hiện nay. 5 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung làm rõ: - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, một số đặc điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hải Phòng hiện nay. - Vai trò của con người, nội dung, yêu cầu xây dựng con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Hải Phòng hiện nay. - Thực trạng con người và tình hình xây dựng con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Hải Phòng hiện nay và nguyên nhân của nó. - Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng con người đáp ứng tốt yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Phòng hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu xây dựng con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Phòng hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Ở thành phố Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận - Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- ênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người và xây dựng con người, đồng thời kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Luận văn thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê, thu thập, xử lý thông tin để nghiên cứu và trình bày, làm rõ vấn đề luận văn đề cập. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần làm sáng tỏ học thuyết Mác- ênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng con người, thực trạng xây dựng con người và phương hướng, giải pháp xây dựng con người phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Phòng hiện nay. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để hoạch định chính sách kinh tế - xã hội và những giải pháp trong việc xây dựng, phát triển con người hiện đại đáp ứng những đòi hỏi mới của sự nghiệp đổi mới đất nước. - Luận văn góp phần vào việc làm tư liệu tham khảo trong việc giảng dạy nghiên cứu triết học về vấn đề con người. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn gồm 2 chương, 5 tiết: Chương 1: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nội dung, yêu cầu xây dựng con người đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hải Phòng hiện nay. Chương 2: Xây dựng con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hải Phòng hiện nay - Thực trạng và giải pháp. 7 Chương 1 CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ NỘI DUNG, YÊU CẦU XÂY DỰNG CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN HÓA Ở HẢI PHÕNG HIỆN NAY Sau khi cả nước thống nhất cùng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hải Phòng đứng trước cơ hội mới để xây dựng và phát triển thành phố. Với sự chỉ đạo tập trung của Đảng và Nhà nước, cùng với những nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền, quân và dân thành phố, kinh tế - xã hội Hải Phòng đã đạt được những kết quả quan trọng với những chuyển biến rõ rệt, đời sống nhân dân càng được nâng cao, bộ mặt đô thị được chỉnh trang, mở rộng. Xuất phát từ mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa chung của cả nước, đồng thời vận dụng sáng tạo, linh hoạt đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn địa phương, Hải Phòng đã tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố. 1.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một số đặc điểm của CNH, HĐH ở Hải Phòng hiện nay 1.1.1. Thực chất và tính tất yếu của CNH, HĐH ở nước ta hiện nay 1.1.1.1. Thực chất của CNH, HĐH Trong lịch sử của hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển, công nghiệp hóa là biện pháp cốt lõi để biến nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại, có công nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, bản thân khái niệm “công nghiệp hóa” lại chưa được quan niệm một cách thống nhất. Do vậy, chính sách thực hiện cũng khác nhau. Khái niệm “công nghiệp hóa” mang tính lịch sử. Nó gắn bó trước hết bởi sự xuất hiện của máy móc và sự thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hay còn gọi là cách mạng khoa học lần thứ nhất. Cuộc cách mạng này diễn ra ở nước Anh, sau đó lan truyền sang một số nước khác nhưng mãi tới 8 thế kỷ XIX thuật ngữ “công nghiệp hóa” mới xuất hiện và đến nửa sau thế kỷ XX mới được dùng phổ biến. Từ thực tiễn tiến hành CNH trên thế giới có thể khái quát một số quan niệm về CNH như sau: Thứ nhất, quan niệm đơn giản nhất cho rằng: CNH là đưa tính đặc thù công nghiệp cho một hoạt động (của một vùng, một nước) với các nhà máy, các loại hình công nghiệp. Đây là quan niệm hình thành trên cơ sở khái quát quá trình lịch sử CNH của các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Quan niệm này có nhiều điểm chưa hợp lý, đó là đã đồng nhất quá trình CNH, với quá trình phát triển công nghiệp; không thể hiện được tính lịch sử của quá trình CNH, không thể hiện được mục tiêu của quá trình CNH. Vì những hạn chế vừa nêu trên nên quan niệm này ít được vận dụng trong thực tế. Thứ hai, Ở iên Xô (cũ) và các nước XHCN trước đây khi nói tới CNH là nhấn mạnh đến phát triển công nghiệp nặng, cho rằng CNH là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Thực chất là tập trung vào công nghiệp chế tạo máy. Với đường lối công nghiệp hóa như vậy thì công nghiệp nặng đóng vai trò đặc biệt quan trọng và trong một chừng mực nhất định nó phù hợp với hoàn cảnh thực tế của iên Xô, là đòi hỏi phải xây dựng một nền sản xuất lớn, hiện đại và bảo vệ CNXH trước sự bao vây, phá hoại của chủ nghĩa đế quốc. Vì vậy, quan niệm này chỉ phù hợp với iên Xô trong giai đoạn lịch sử lúc đó. Cho nên, nếu hiểu CNH như vậy trong mọi hoàn cảnh và áp dụng nó trong mọi nước là sai lầm chủ quan. Cần biết rằng, công nghiệp hóa không chỉ đơn giản là phát triển công nghiệp nặng. Tổ chức phát triển công nghiệp của iên Hợp Quốc (UNIPO) đã đưa ra định nghĩa sau: “công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn được xây dựng để huy động cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại để chế tạo ra các phương tiện sản xuất, hàng tiêu dùng có khả năng bảo đảm nhịp độ tăng trưởng cao 9 trong toàn nền kinh tế và bảo đảm sự tiến bộ của toàn bộ nền kinh tế và xã hội”. Đại hội III của Đảng năm 1960 đã xác định CNH là: “Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở nước ta. Thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, tạo điều kiện cho CNXH thắng lớn. Điểm mấu chốt trong công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” [18, tr. 543 - 544] Từ Đại hội III đến nay, CNH ở nước ta đã trải qua 52 năm. Nhưng 20 năm đầu, CNH diễn ra trong chiến tranh, còn 19 năm sau diễn ra trong trạng thái vừa khủng hoảng kinh tế xã hội, vừa tiến tới đổi mới nền kinh tế mà khởi đầu là đổi mới tư duy kinh tế, chỉ từ Đại hội VIII (1996) chúng ta mới ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. CNH ở Việt Nam trước đổi mới diễn ra theo con đường cổ điển, truyền thống, theo mô hình của iên Xô trước đây. Đây chính là nguyên nhân cơ bản khiến cho CNH trước đây đã không thành công. Công cuộc đổi mới từ Đại hội VI của Đảng đã làm thay đổi rất cơ bản từ nhận thức, mục tiêu đến quá trình thực hiện CNH ở nước ta. Nhận thức rõ sự tác động của cuộc cách mạng khoa học hiện đại đến quá trình công nghiệp hóa ngày nay, tại Hội nghị lần thứ bảy, Ban chấp hành Trung ương khóa VII, Đảng ta đã khẳng định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” [14, tr. 42]. Khái niệm này về cơ bản phản ánh được phạm vi rộng hơn của quá trình CNH; chỉ ra được cốt lõi của CNH là quá trình cải biến lao động thủ 10 công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao động xã hội cao, gắn được công nghiệp hóa với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn liền với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân Đại hội VIII của Đảng xác định rõ: “Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật tiên tiến hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công CNXH. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” [15, tr. 18-19]. Ở đây, văn kiện Đại hội đã khẳng định những yếu tố cơ bản của đường lối CNH, HĐH của nước ta dựa trên chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) đã bổ sung nhiều nhận thức mới, quan trọng về CNH, HĐH thể hiện ở hai luận điểm quan trọng. Một là, từng bước phát triển kinh tế tri thức, một nội dung mới của quá trình CNH, HĐH. Hai là, tiến trình CNH rút ngắn theo hướng hiện đại. Tuy mới dừng lại ở cấp độ định hướng định tính, nhưng có thể nói rằng những bổ sung đường lối này thực sự là những đóng góp quan trọng vào nhận thức về CNH ở nước ta trong điều kiện hiện nay, khi thế giới đang đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa và chuyển sang kinh tế tri thức. Tiếp đó, Đại hội Đảng lần thứ X (2006) cũng có những bổ sung mới vào nhận thức CNH trong thời hiện đại. Mới đây nhất, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng diễn ra từ ngày 11 đến ngày 19/01/2011 tại Thủ đô Hà Nội đã thông qua nghị quyết và các văn kiện quan trọng: 11 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2011 - 2020)... Trong đó, kế thừa và phát triển quan điểm các kỳ Đại hội trước, trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta xác định rõ hơn: “Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững; từ tăng trưởng chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và sử dụng lao động giá rẻ sang tăng trưởng chủ yếu do áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ công nghệ cao, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh lớn gắn với phát triển kinh tế tri thức” [22, tr. 39]. Ở đây, Đảng ta đã có bước phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam cũng như xu thế vận động CNH, HĐH của thế giới, đó là CNH luôn gắn liền với HĐH và gắn với phát triển kinh tế tri thức. Với quan niệm đó cho thấy CNH, HĐH ở nước ta hiện nay chính là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhiệm vụ lớn lao của cuộc cách mạng đó phải thực hiện là: Tạo ra những điều kiện thiết yếu về vật chất - kỹ thuật, về con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng tăng năng suất lao động xã hội, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của người dân. Như vậy, CNH không chỉ tập trung phát triển sản xuất công nghiệp mà là quá trình thay đổi rất cơ bản và toàn diện cách thức tổ chức, hoạt động quản lý của nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới công nghệ, tạo 12 nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Có thể nói, CNH, HĐH là quá trình xây dựng một xã hội văn minh, cải biến căn bản các ngành kinh tế, các hoạt động xã hội theo phong cách của nền công nghiệp hiện đại. Nó không chỉ thể hiện ra ở các chỉ số kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ mà quan trọng hơn là đảm bảo cho xã hội phát triển như một chỉnh thể toàn vẹn, vì tiến bộ xã hội và xây dựng, phát triển con người toàn diện. 1.1.1.2. Tính tất yếu của CNH, HĐH ở nước ta hiện nay Tiến trình phát triển của thế giới trong những thập niên gần đây cho thấy rằng, trong thời đại hiện nay, CNH, HĐH là phương tiện hữu hiệu làm thay đổi căn bản bộ mặt kinh tế - xã hội của tất cả các nước. Thực hiện CNH, HĐH có hiệu quả, trước hết sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu về trình độ của lực lượng sản xuất, từ công cụ lao động đến phương tiện sản xuất... hay đến yếu tố người lao động, thay vào đó là những công nghệ, phương tiện, và phương pháp tiên tiến, hiện đại; đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ phân công lao động xã hội, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, và nhờ vậy mà năng lực sản xuất tăng lên, kinh tế phát triển. Bên cạnh đó, CNH, HĐH sẽ xóa bỏ tình trạng kém phát triển về xã hội, nâng cao mức sống của nhân dân, tạo điều kiện phát triển dân trí, đưa xã hội đến trình độ văn minh công nghiệp. Tuy nhiên, CNH, HĐH không phải là một phương thức vạn năng chữa trị căn bệnh kém phát triển. Bởi vì, một nước phát triển về kinh tế vẫn có thể là một nước kém phát triển về đời sống văn hóa, tinh thần. Điều này còn phụ thuộc vào tính ưu việt trong mục tiêu CNH, HĐH của mỗi nước. Song dù thế nào đi nữa, cũng phải thừa nhận rằng, CNH, HĐH tạo ra nền kinh tế hiện đại với những ưu thế nổi bật: năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt, cơ cấu sản xuất đa dạng, việc làm phong phú và ngày một tăng thu nhập quốc dân và tính theo đầu người ngày càng cao. 13 Đối với Việt Nam, hiện tại nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp nhỏ bé, tổng sản phẩm quốc dân (GNP) tính theo đầu người vào bậc thấp nhất thế giới, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm chậm hơn nhiều nước trong khu vực. Thực trạng kinh tế này tương đương nhiều nước châu Á cách đây 40 - 50 năm khi họ chẩn bị bước vào CNH. Nếu tiếp tục chỉ dựa vào nền kinh tế nông nghiệp mà sản xuất lúa là ngành quan trọng nhất, thì nền nông nghiệp ấy chỉ tăng trưởng 4 - 5%, là cùng, và mức tăng tống sản phẩm quốc nội (GDP) nhiều nhất cũng chỉ có thể là 5 - 6%, do đó nền kinh tế vẫn trong tình trạng kém phát triển. Vì thế, để thoát khỏi tình trạng nước nghèo và chậm phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn, nước ta không có con đường nào khác ngoài tiến hành CNH, HĐH. Tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1 - 1994) Đảng ta xác định là phải “đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước CNH, HĐH đất nước” [13, tr. 22]. Tháng 6 - 1996, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta tiếp tục khẳng định “... đẩy mạnh CNH, HĐH. Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” [15, tr. 80]. Ở đây, giữa CNH và HĐH có mối quan hệ biện chứng nhau và là đòi hỏi tất yếu, CNH phải gắn với HĐH trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam. CNH là tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, là quá trình trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân, biến lao động thủ công thành lao động sử dụng máy móc. Hiện đại hóa nghĩa là các kỹ thuật và công nghệ sản xuất phải đạt trình độ tiên tiến của thời đại ngày nay. 14 Như vậy, CNH là tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH (một quá trình có giới hạn). Hiện đại hóa là quá trình thường xuyên đưa trình độ phát triển của đất nước tiến kịp trình độ phát triển cao của nhân loại. Ở đây, HĐH có mục tiêu trùng với CNH, trở thành một nội dung của CNH, đồng thời có mục tiêu riêng của mình. Nó đòi hỏi nền kinh tế phải thường xuyên không ngừng nâng cao trình độ phát triển. Nền công nghiệp dù đã xây dựng ở mức độ nhất định nhưng nếu không hiện đại hóa vẫn có thể rơi vào sự lạc hậu, khủng hoảng. Thực tế cho thấy, CNXH ở iên Xô và các nước Đông Âu trước đây, đã có một nền công nghiệp phát triển cao, nhưng do có một cơ chế cứng nhắc, kinh tế và xã hội không có một cơ chế tự điều chỉnh, sự hoàn thiện, không được hiện đại hóa nên đã lâm vào tình trạng tụt hậu, khủng hoảng và đổ vỡ. Vì thế, trong khi cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật phát triển như vũ bão, chúng ta phải gắn CNH với HĐH. Một mặt, áp dụng những bước tiến tuần tự về công nghệ. Mặt khác, tranh thủ những cơ hội, đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học - công nghệ thế giới. “Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học - công nghệ thế giới” [13, tr. 27]. 1.1.2. Một số đặc điểm của CNH, HĐH ở Hải Phòng hiện nay Nhận thức sự gắn kết tất yếu giữa công nghiệp hóa với hiện đại hóa, Đảng bộ và nhân dân thành phố Hải Phòng tiếp thu đường lối, chủ trương của Đảng ta đã khẳng định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng