XÂY DỰNG
. Cơ pưAN LẨNH đạo
/ n A TJ HTT1T T X T /^* T y r V K Ĩ / ^
L A r IK U JM j U U JN b,
x ứ ỦY CỦA ĐẢNG
TU
HỜ
HI KỲ 1 9 3 0 1 1945
CTT
0 1
xỉiliksu
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ Q ư ố c GIA
XÂY DỰNG
C ơ QUAN LẮNH đ ạ o
CẤP TRUNG ƯƠNG,
XÚ ỦY CỦA ĐẢNG
THÒI KỲ 1930-1945
Biên mục trên xuất bản phẩm của
Thư viện Quốc gia Việt Nam
Trần Trọng Thơ
Xây dựng cơ quan lãnh đạo cấp Trung ương, Xứ ủy của Đảng
thời kỳ 1930-1945 / Trần Trọng Thơ. - H. : Chính trị Quốc gia, 2014.
- 3 2 8 tr .; 21cm
1. Đảng Cộng sản Việt Nam 2. Tổ chức Đảng 3. Lịch sử
324.2597075 - dc23
CTK0073p-CIP
Mã sô:
3KV1.1
---CTQG-2014
TS. TRẦN TRỌNG THƠ
XÂY DỰNG
C ơ p ư A N LẦNH đ ạ o
CẤP TRUNG ƯƠNG,
XỨ ỦY CỦA ĐẢNG
THỜI KỲ 1930-1945
(Sách chuyên khảo)
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ Qưốc GIA - sự THẬT
Hà Nội - 2014
LỞI NHÀ XUẤT BẢN
Ngay từ khi mới ra đời, Điểu lệ tóm tắt của Đảng ta đã quy
định Đảng được tổ chức gồm năm cấp, trong đó cao nhất là cấp
Trung ương và sau đó là cấp xứ ủy... đến Đại hội lần thứ nhất
của Đảng (năm 1935), tổ chức của Đảng bao gồm sáu cấp,
nhưng hai cấp cao nhất vẫn là Trung ương và xứ ủy. Thực tế
cách mạng Việt Nam trong những năm 1930-1045 cho thấy,
tuy chưa nắm được chính quyền, lại phải đốì phó vói sự đánh
phá ác liệt của thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay
sai, nhưng nhò việc xây dựng tổ chức Đảng cấp Trung ương và
xứ ủy, Đảng ta đã tạo dựng được hệ thông tổ chức Đảng rộng
khắp, gắn bó chặt chẽ với quần chúng lãnh đạo các phong trào
đấu tranh cách mạng... Các cao trào cách mạng trong thời kỳ
này cho thấy, Đảng ta đã dần xây dựng được một đội quân cách
mạng đông đảo để đến khi có thòi cơ, chúng ta đã kịp thời phát
động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền vào Tháng Tám
năm 1945 trong cả nưốc.
Để giúp bạn đọc có thêm tài liệu nghiên cứu, tìm hiểu rõ
hơn về xây dựng tổ chức Đảng cấp Trung ương và xứ ủy, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn sách X ây
dự n g c ơ qu an lãn h đ ạ o c ấ p T rung ương, x ứ ủy củ a Đ ảng
thời k ỳ 1930-1945 (Sách ch u y ên kh ảo).
Nội dung cuốn sách phản ánh hiện thực quá trình xây
dựng, khôi phục và phát triển tổ chức Đảng cấp Trung ương, xứ
ủy, nhân sự các cấp ủy đó trong quá trình vận động cách mạng
trước khi trở thành một Đảng cầm quyền; đúc kêt kinh nghiệm
xây dựng, bảo vệ Tổ quôc; làm sáng rõ thêm vai trò, đóng góp to
lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cùng những
nhà cách mạng tiền bối ưu tú trong việc xây dựng một chính
Đảng vô sản ở Việt Nam; đồng thòi, cũng nêu lên những mặt
hạn chế về nhận thức, tổ chức và hoạt động trong quá trình xây
dựng tổ chức Đảng cấp Trung ương, xứ ủy của Đảng.
Do .hạn chế về tư liệu, có những nội dung cần tiếp tục được
nghiên cứu công phu, toàn diện và sâu sắc hơn nên nội dung
cuốn sách chắc không tránh khỏi thiếu sót. Chúng tôi mong
nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để lần xuất bản sau nội
dung sách được hoàn thiện hơn.
Xin giói thiệu cuốn sách vối bạn đọc.
Tháng 9 năm 2014
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ Q u ố c GIA - s ự THẬT
LỞI NỚI DẦU
Trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng Cộng
sản V iệt Nam (từ tháng 10-1930 đến tháng 2-1951 đổi
tên là Đảng Cộng sản Đông Dương), thòi kỳ 1930-1945
thể hiện đậm nét bản lĩnh cách mạng kiên cường, sức
sống mãnh liệt, trí tuệ sáng tạo, sự trưởng thành vượt
bậc của Đảng về tư duy chính trị, năng lực xác định
đường
101 cách
mạng gắn kết với phương pháp chỉ đạo
thực tiễn sát hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam và xây
dựng hệ thống tổ chức. Nhờ vậy, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân ta từng bước trải nghiệm các cao trào đấu
tranh cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945,
tiến tới đập tan xiềng xích thực dân, phát xít, lật đổ nền
quân chủ lỗi thời, giành độc lập dân tộc, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mỏ đường phát triển cho
dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Gắn liền vói những thành tựu lớn lao đó là vai trò to
lớn của các cấp ủy Đảng, trong đó, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, cơ quan đầu não của Đảng là nơi thể
hiện tập trung rõ nét nhất bản lĩnh chính trị, năng lực
sáng tạo cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta trong
15 năm đấu tranh giành chính quyền.
7
Trong điều kiện hoạt động bí mật, chưa nắm c h í n h
quyền, phải đối phó với sự đánh phá ác liệt của đôi
phương, việc xây dựng tổ chức Đảng cấp Trung ương, xứ
uỷ có một vị trí đặc biệt quan trọng đôi với năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của toàn Đảng và sự thành bại
của cách mạng. Hiện thực cách mạng Việt Nam cho
thấy, nhờ xây dựng, khôi phục và phát triển tổ chức cấp
Trung ương, xứ uỷ, Đảng xác lập đường lôi cách mạng
đúng đắn, sáng tạo, tạo dựng được hệ thông tổ chức, cơ
sở Đảng rộng khắp trên mọi địa bàn, gắn chặt với quần
chúng yêu nước và cách mạng, lãnh đạo các phong trào
đấu tranh sôi động của các tầng lớp nhân dân, từng
bước gây dựng, đào luyện một đội quân cách mạng đông
đảo để khi thòi cơ đến, kịp thời phát động cuộc Tổng
khởi nghĩa giành chính quyền thành công.
Cuốn sách X â y dự ng c ơ q u a n lãn h đ ạo c ấ p
T ru n g ương, xứ ủy c ủ a Đ ản g th ờ i kỳ 1930-194Ỗ góp
phần phản ánh hiện thực quá trình xây dựng, khôi
phục và phát triển tổ chức Đảng cấp Trung ương và xứ
uỷ, nhân sự các cấp uỷ đó, soi tỏ đặc điểm, tổ chức, hoạt
động của các cấp bộ Đảng, của các nhân vật lịch sử của
Đảng trong quá trình vận động cách mạng trưóc khi trở
thành một đảng cầm quyền; đúc k ết kinh nghiệm xây
dựng, bảo vệ tổ chức Đảng để cung cấp thêm những
luận cứ khoa học cho công tá c.x â y dựng, chỉnh đốn
Đảng h iện nay; góp phần bác bỏ những luận điệu xuyên
tạc, hiệu chỉnh những nhận định sai lạc, thiên kiến về
vai trò lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1930-1945. Cuốn
8
sách cũng góp phần làm sáng rõ thêm vai trò, đóng góp
to lớn cả về lý luận và thực tiễn của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốíc - Hồ Chí Minh cùng những nhà cánh mạng tiền
bối ưu tú trong việc xây dựng một chính Đảng vô sản
phù hợp với đặc điểm Việt Nam.
Bên cạnh những thành công cơ bản, cuốn sảch cũng
trình bày những hạn chế về nhận thức, tổ chức và hoạt
động trong quá trình xây dựng tổ chức Đảng cấp Trung
ương và xứ ủy của Đảng ta cũng như lý giải nguyên
nhân những hạn chế đó.
Hiện thực lịch sử xây dựng tổ chức các cấp ủy Đảng,
nhất là cơ quan cấp chiến lược thòi kỳ 1930-1945 rất
phong phú, hàm chứa nhiều vấn đề về tổ chức, về nhân
sự... chưa được nghiên cứu thấu đáo hoặc còn nhiều
đánh giá, nhận xét khác nhau, trong khi đó, tài liệu
phản ánh về vấn đê tổ chức của Đảng lại tản mạn, có
những tài liệu mang tính nhạy cảm. Nhận thức rõ
những khó khăn đó, tác giả đã kiên trì và cẩn trọng
trong công tác sử liệu. Các tài liệu sử dụng trong cuốn
sách này được khai thác từ bộ sách Văn k iện Đ ản g toàn
tập đã xuất bản; các tài liệu gồm: nghị quyết, chỉ thị,
báo cáo, biên bản của Trung ương, của các xứ uỷ, các
bài viết, bài phát biểu, hồi ký, biên bản tọa đàm về vấn
đề tổ chức thời kỳ 1930-1945 của các nhân chứng lịch
sử, các vị lão thành cách mạng nguyên là lãnh đạo cao
cấp của Đảng,... lưu trữ tại các cơ quan lưu trữ của
Trung ương và các địa phương, nhất là tại Cục Lưu trữ
Văn phòng Trung ương Đảng; Phòng Tư liệu Viện Lịch
9
sử Đảng, Học viện chính trị quôc gia Hồ Chí Minh: các
Trung tâm lưu trữ Quôc gia; tư liệu, tài liệu của một so
nhân chứng lịch sử..., trong đó có những tài liệu chưa
được công bô. Ngoài ra, tác giả cũng kê thừa những kêt
quả nghiên cứu đã được ấn hành.
Do những khó khăn về tài liệu nghiên cứu, trình độ
có hạn, nên dù tác giả đã rất nỗ lực, cuôn sách vẫn còn
nhiều hạn chế. Tác giả rấ t mong nhận được sự đóng
góp, bổ sung của bạn đọc.
Trong quá trình thực hiện chủ đề nghiên cứu này,
tác giả đã nhận được sự hướng dẫn, góp ý của nhiều
nhà khoa học và đồng nghiệp, đặc biệt là Phó giáo sư,
Nhà giáo Nhân dân Lê Mậu Hãn, Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà
giáo Nhân dân Trịnh Nhu. Tác giả xin chân thành cảm
ơn sự quan tâm và giúp đỡ quý báu đó.
Xin chân thành cảm ơn Nhà xuất bản Chính trị
quổíc gia đã giúp xuất bản cuốn sách.
H à Nội, th án g 8 n ăm 2014
TÁC GIẢ
10
C h ư ơng I
THÀNH LẬP VÀ ĐẤU TRANH KHÔI PHỤC c ơ QUAN
LÃNH ĐẠO CẤP TRUNG ƯƠNG, x ứ UỶ
(1930- 1935)
I. NHỮNG ĐIỂU KIỆN VÀ NHÂN Tố TÁC ĐỘNG
ĐẾN QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP VÀ KHÔI PHỤC
TỔ CHỨC ĐẢNG CẤP TRUNG ƯƠNG, x ứ UỶ (1930-1935)
1.
Đ ản g C ộng sả n V iệt N am r a đời, c á c lu ận
điểm c ủ a N gu yễn Ái Q uôc v à c á c quy định vể x â y
dựng hệ th ô n g tổ ch ứ c c ủ a Đ ảng
Cuối th ế kỷ XIX, do sự bất lực và hèn nhát của triều
đình nhà Nguyễn, nước ta bị rơi vào ách đô hộ của thực
dân Pháp. Trong khi ngọn cờ yêu nước bị nhà nước
phong kiến buông lơi, các phong trào cứu nước theo ý
thức hệ phong kiến được nhân dân từ Bắc chí Nam
tham gia và ủng hộ đã liên tiếp nổ ra nhưng lần lượt bị
th ất bại. Đến đầu th ế kỷ XX, những lý luận cách mạng
tư sản của phương Tây du nhập và mang lại một sắc
thái mới cho phong trào yêu nước ở Việt Nam, song vẫn
không đem lại lời giải đáp đúng đắn cho yêu cầu giải
11
phóng dân tộc. Công cuộc đấu tranh giành lại độc lập,
tự do của nhân dân ta tiếp tục bê tắc vê lý luận, khung
hoảng vê đường lối và lực lượng lãnh đạo, "tình hình
đen tối như không có đường ra”1.
Trong bối cảnh đó, vói lòng yêu nước nồng nàn,
những kiến thức sâu đậm về văn hoá phương Đông,
được thôi thúc bởi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, không tán thành con đường cứu nước mà thê hệ
cha, anh như Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh đã hoặc đang dấn bưốc, Nguyễn Ái Quốc ra
đi tìm đường cứu nưóc.
Chứng kiến cuộc sông của nhân dân lao động trong
th ế giới tư bản, với phương pháp quan sát, phân tích,
tổng hợp khoa học và độc đáo, Nguyễn Ái Quổc nhận
định con đường cách mạng tư sản không thể là con
đường giải phóng con người khỏi bất công và áp bức,
cũng không phải là con đường có thể mang lại độc lập,
tự do cho dân tộc V iệt Nam. Tháng 7 -1 9 2 0 , Nguyễn
Ai Quốc tiếp cận với bản S ơ th ả o lầ n th ú n h ấ t n h ữ n g
lu ận cương v ề vấn đ ề dân tộc và vấn đ ề th u ộc đ ịa của
V.I. Lênin. Vói tư chất của một thiên tài, Người nhận
thấy ở đó một “cẩm nang' giải phóng dân tộc, giải
phóng đồng bào đang bị đọa đày đau khổ. Người khẳng
định muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con
đưòng nào khác hơn là con đường cách mạng vô sản.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quổíc gia, Ha \ ô i
2011, t.12, tr.401.
12
Từ nhận thức khoa học và cách mạng đó, Nguyễn
Ai Quốc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp vào
tháng 12-1920, trở thành ngưòi cộng sản, người chiến
sĩ quốc tế.
Trong suốt thập niên thứ ba th ế kỷ XX, Nguyễn Ái
Quốc dành tâm lực nghiên cứu lý luận, tiếp biến và
truyền bá chủ nghĩa M ác-Lênin vào V iệt Nam, hoạch
định những nội dung cơ bản vê lý luận và con đường
cách mạng giải phóng dân tộc, chuẩn bị xây dựng một
chính đảng vô sản ở V iệt Nam theo những nguyên lý
về đảng kiểu mới của chủ nghĩa Lênin. Người viết:
“Cách mệnh trước hết (...) phải có đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài th ì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như
ngưòi cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt (...) Bây giò học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lênin”1.
Năm 1925, tại Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc thành
lập H ội V iệt N am C ách m ạn g T han h niên, ra báo
T han h niên, gấp rút chuẩn bị những điều kiện về chính
trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đòi một chính đảng vô
sản ở V iệt Nam.
1. Hồ Chí M inh: Toàn tập, Sđd, t.2 , tr.2 8 9 .
13
Cuôi năm 1929, trên nền tảng phong trào công
nhân và phong trào yêu nước kết hợp với chủ nghĩa
M ác-Lênin, tư tưởng giải phóng dân tộc và những hoạt
động không mệt mỏi của Nguyễn Ái Quốc, sự nỗ lực
của những nhà cách mạng ưu tú, ở V iệt Nam lần lư ợ t
xuất hiện ba tổ chức cộng sản là Đ ôn g D ương C ộn g sản
Đ ảng, An N am C ộng sản Đ ản g và Đ ôn g D ư ơng C ộn g
sản L iên đoàn.
Sự ra đòi và hoạt động của ba tổ chức cộng sản trên
thể hiện sự phát triển của phong trào cách mạng của
nhân dân Việt Nam, yêu cầu bức xúc về việc thành lập
một chính đảng cộng sản ở Việt Nam, đồng thời tạo nên
những nguy cơ làm tan rã và suy yếu phong trào cách
mạng, trái với nguyên tắc tổ chức của Quốc tế Cộng sản
là trong một quốc gia không thể đồng thời cùng tồn tại
nhiêu tổ chức cộng sản. Nắm bắt được tình hình và
trước yêu cầu bức thiết về thông nhất lực lượng lãnh
đạo cách mạng, “m ặ c dầu Quốc t ế C ộng sản ch ư a trao
ủy qu y ềrí’1, đồng chí Nguyễn Ái Quốc “tự s á n g k iê h ”
chủ động triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp n hất tại
Hồng Kông (Trung Quốc) để thành lập Đảng Cộng sản
1.
Báo cáo gử i Bộ P h ư ơn g Đông, Vụ T ổ ch ứ c cán bộ của Quốc t ế
Cộng sản, ngày 2 9 -6 -1 9 3 5 , của Vaxiliépna, người trực tiếp phu
trách Đông Dương của Quốc tế Cộng sản. Dẫn theo: Bá Ngọc- “B an
thẩm tra vụ việc Nguyễn Ái Quốc ở Quốc tế Cộng sản”, Tạp chí Xưa &
Nay, sô 438, tháng 1 0 -2 0 1 3 ).
14
Việt Nam. Hội nghị diễn ra từ ngày 6-1-1930 và kết
thúc trước ngày 8 -2 -1 9 3 0 1.
Hội nghị đã thông qua C hánh cương vắn tắt của
Đảng, S ách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt
và Đ iều lệ vắn tắt của Đ ảng Cộng sản Việt N am. Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắ t hợp thành Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng, đã đề ra nhiệm vụ chính trị
trưốc mắt của Đảng là tập hợp đại bộ phận và làm cho
giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng, thu phục đại đa
sô giai cấp nông dân, lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung
nông, trung lập phú nông, trung tiểu địa chủ, tư bản bản
xứ “làm tư sản dân quyền c.m (cách mạng-TG.) và thổ
địa c.m (cách mạng-TG.) để đi tới xã hội cộng sản”2; liên
kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thê giới.
Muốn thực hiện nhiệm vụ chính trị đó, Đảng Cộng sản
Việt Nam phải xây dựng được một tổ chức vững mạnh
mà nòng cốt là các cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở hợp nhất
các tổ chức cộng sản vổn đã tồn tại độc lập, có điều lệ và
hệ thống tổ chức riêng biệt, có những ảnh hưởng khác
nhau trong quần chúng và đang đấu tranh với nhau để
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9 -1 9 6 0 )
quyết nghị “từ nay trở đi, sẽ lấy ngày 3 th án g 2 dương lịch mỗi
năm làm ngày kỷ niệm th àn h lập Đ ảng”, Đảng Cộng sản Việt
N am : Văn k iện Đ ả n g toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2 0 0 0 , t.2 1 , tr.9 0 4 .
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đ ản g toàn tập, Sđd, t.2,
tr.2.
15
phát triển tổ chức. Đảng chưa có tổ chức và các cơ quan
lãnh đạo thống nhất. Sự ra đời của Đấng Cộng sản Việt
Nam đặt ra yêu cầu tấ t yếu xây dựng hệ thống to chức
cùng các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo
nguyên tắc tổ chức của một chính đảng vô sản, đồng
thòi phải phù hợp với trình độ tổ chức của Đảng và điều
kiện cụ thể của Việt Nam.
Hội nghị thành lập Đảng đã ban hành Đ iều lệ vẩn
tắt của Đ ản g C ộng sản V iệt N am do Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo. Tiếp theo những luận điểm về Đảng được thể
hiện trong tác phẩm Đ ường cách m ện h (1927), Đ iều lệ
vắn tắt đã thể hiện rõ những quan điểm của Nguyễn Ái
Quốc về những nguyên tắc xây dựng tổ chức của Đảng
Cộng sản Việt Nam:
-
Đảng là một khối thống nhất có tổ chức, được phân
thành nhiều cấp (chi bộ; huyện bộ, thị bộ hay khu bộ;
tỉnh bộ, thành bộ hay đặc biệt bộ; Trung ương); mỗi cấp
có các “Hội Chấp hành uỷ viên” tương ứng để “giám đốc
và chỉ huy cho mọi đảng viên làm việc”1; các đảng
viên phải là những thành viên “trong một bộ phận
đảng”2. Đây chính là sự vận dụng công thức nổi tiếng
của V .I. Lênin về tính tổ chức của Đảng: “Đảng phải là
một tổng sô (không phải là một tổng s ố đơn giản trong
số học mà là một tổng hợp) các tổ chức (...) đảng chi nên
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đ ả n g toàn tập. S d d
t.2, tr. 8, 7.
16
thu nhận những phần tử ít nhất cũng phải chấp nhận
một tính tổ chức tối thiểu”1.
- Đảng tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc “tập
trung dân chủ”2 mà V.I. Lênin đã vạch ra. Điều lệ ghi
rõ: “B ấ t cứ về vấn để nào đảng viên đều phải hết sức
thảo luận và phát biểu ý kiến, khi đa số đã nghị quyết
thì tấ t cả đảng viên phải phục tùng mà thi hành”3.
- Đảng phải có kỷ luật. Điều lệ vắn tắt dành một
phần nói về kỷ luật Đảng, trong đó quy định rõ việc kỷ
luật đảng viên mắc lỗi do “hội chấp hành uỷ viên trong
cấp Đảng hay đại biểu đại hội định”4.
- Đối tượng gia nhập Đảng rấ t đa dạng, rộng rãi,
không phân biệt thành phần xuất thân, bao gồm thợ,
người làm thủ công nghiệp, dân cày, binh lính, học sinh,
các giai cấp và đảng phái khác, miễn là “tin theo chủ
nghĩa cộng sản, chương trình đảng và Quốíc tế Cộng
sản, hăng hái tranh đấu và dám hy sinh phục tùng
mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong
một bộ phận đảng”5. Tuỳ vào thành phần xuất thân mà
quy trình vào Đảng được thực hiện khác nhau.
Có thể thấy Điều lệ vắn tắ t của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã tuân thủ những nguyên tắc tổ chức chính đảng
1. V .I. L ên in : Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M átxcơva, 1978, t.8 ,
tr. 2 8 5 -2 8 6 .
2. V I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 41, tr.2 5 3 .
3. 4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đ ảng toàn tập, Sđd,
t.2 , tr.9 , 7.
17
kiểu mới của V.I. Lênin, song, cũng thể hiện rõ tinh
thần đê cao dân chủ trong Đảng của Nguyễn Ái Quốc.
Đó là tập trung trong Đảng phải trên nền dân chủ và từ
dân chủ trong Đảng; thực hiện dân chủ là một cơ chê
mang tính bắt buộc khi ra quyết định. Bên cạnh đó. việc
chủ trương kết nạp những thành phần rộng rãi như trên
vào Đảng cho thấy Nguyễn Ái Quốc nắm bắt được tình
hình thực tiễn ở Việt Nam, vận dụng sáng tạo quan
điểm của V.I. Lênin vê “đặc điểm dân tộc của Đảng": .
Điều lệ do Nguyễn Ái Quốíc soạn thảo là một cơ sở
cho sự hình thành của hệ thông tổ chức và các cơ quan
lãnh đạo của Đảng; đồng thời, đặt nền tảng cho các
Điều lệ của Đảng sau này.
Tháng 10-1930, cùng với việc thực hiện chủ trương
của Quốc tê Cộng sản đổi tên Đảng Cộng sản V iệt
Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, mở rộng
phạm vi lãnh đạo bao gồm 5 xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Nam Kỳ, Ai Lao và Cao Miên, Hội nghị lần thứ nhất
Ban Chấp hành Trung ương đề ra nhiệm vụ chính trị
trước m ắt của Đảng là: “Tổ chức và lãnh đạo các cuộc
bãi công, thị oai chánh trị và dự bị võ trang bạo động
(...) Điều cốt yếu trong công tác hằng ngày của Đảng là
phải thâu phục quảng đại quần chúng để làm cho cuộc
bạo động tương lai được thắng lợi”2. Để thực hiện được
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđ d , t.8 , tr.4 7 5 .
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đ ả n g toàn tập, Sđd. t 2
t r .l 12.
18
- Xem thêm -