Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xây dựng các cơ chế nhà nước bảo vệ hiến pháp ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa v...

Tài liệu Xây dựng các cơ chế nhà nước bảo vệ hiến pháp ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam

.PDF
92
10
118

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt trÞnh ph-¬ng th¶o x©y dùng c¸c c¬ chÕ nhµ n-íc b¶o vÖ hiÕn ph¸p ë n-íc céng hßa x· héi chñ nghÜa viÖt nam luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2011 ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt trÞnh ph-¬ng th¶o x©y dùng c¸c c¬ chÕ nhµ n-íc b¶o vÖ hiÕn ph¸p ë n-íc céng hßa x· héi chñ nghÜa viÖt nam Chuyªn ngµnh : Lý luËn vµ lÞch sö nhµ n-íc vµ ph¸p luËt M· sè : 60 38 01 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: GS.TS NguyÔn §¨ng Dung Hµ néi - 2011 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU Chương 1: 1 NHU CẦU BẢO VỆ HIẾN PHÁP VÀ BẢO HIẾN TRÊN 8 THẾ GIỚI 1.1. Hiến pháp và vi phạm Hiến pháp 8 1.1.1. Hiến pháp 8 1.1.2. Vi phạm Hiến pháp 9 1.2. Bảo hiến và các mô hình bảo hiến trên thế giới 12 1.2.1. Bảo hiến 12 1.2.2. Các mô hình bảo hiến trên thế giới 20 Chương 2: HIẾN PHÁP VÀ CƠ CHẾ NHÀ NƯỚC BẢO VỆ HIẾN 24 PHÁP VIỆT NAM 2.1. Bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam 24 2.2. Cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp Việt Nam 35 2.2.1. Cơ chế nhà nước và cơ chế xã hội bảo vệ Hiến pháp 35 2.2.2. Khái niệm cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp 2.3. Khái quát về cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp Việt Nam 2.3.1. Nguyên tắc thực hiện hoạt động bảo hiến của cơ chế nhà 40 44 44 nước bảo vệ Hiến pháp Việt Nam 2.3.2. Vai trò của cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp Việt Nam 1 45 2.3.3. Thực trạng hoạt động của cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp Việt Nam 49 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN CƠ CHẾ 67 NHÀ NƯỚC BẢO VỆ HIẾN PHÁP VIỆT NAM 3.1. Nhu cầu khách quan cần hoàn thiện hiến pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hiến 67 3.2. Phương hướng hoàn thiện cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp 70 3.3. Các giải pháp xây dựng và hoàn thiện cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp Việt Nam 74 KẾT LUẬN 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 86 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ra đời và gây ảnh hưởng đến phương thức sử dụng quyền lực nhà nước từ cuối thế kỷ thứ XIX đến nay, lý luận về nhà nước pháp quyền hơn lúc nào hết, đang thực hiện được sự tác động đến các nhà nước mang tính phổ quát toàn cầu. Trong đời sống pháp lý, căn cứ vào tên gọi, người ta hay hiểu rằng nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó pháp luật giữ vị trí, vai trò tối thượng. Thực ra bản chất của nhà nước pháp quyền thể hiện tính nhân văn một cách trực diện hơn nhiều. Bản chất của nhà nước pháp quyền là tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền trước hết phải là công cụ bảo đảm thực hiện quyền đó, mà điều được người ta nhắc đến như một điểm sáng của nó là sự ràng buộc của pháp luật trước hết là đối với nhà nước. Hãy đừng quên, lý luận nhà nước pháp quyền sinh ra là để chống lại sự độc đoán, chuyên quyền trong các nhà nước chuyên chế, cảnh sát. Bảo hiến là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nhà nước pháp quyền bởi vậy, có người đã xem hoạt động bảo hiến như một đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền, cũng như họ coi tòa án Hiến pháp (ở một số nước là hội đồng bảo hiến hay Viện bảo hiến) là biểu tượng hay "vương miện" dành riêng cho nhà nước pháp quyền. Nhắc đến nhà nước pháp quyền, người ta sẽ nói ngay đến vấn đề bảo hiến, chính vì thế, khi xem xét, đánh giá một quốc gia đã xây dựng được nhà nước pháp quyền hay chưa, người ta thường dựa trên tiêu chí Hiến pháp của quốc gia đó được bảo vệ ở mức độ nào. Mức độ được bảo vệ và tôn trọng của Hiến pháp cho phép chúng ta sơ bộ nhận định được về tình trạng bảo vệ và thực thi các quyền con người, quyền công dân của một quốc gia. Điều này đồng nghĩa với việc bất cứ quốc gia nào 1 muốn tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền phải chú trọng và không được coi nhẹ vấn đề bảo vệ Hiến pháp ở đất nước mình. Trong pháp luật nước ta, từ lâu đã có các cơ chế bảo đảm thực thi và bảo vệ Hiến pháp với những tính chất, mức độ và cách thức khác nhau. Trong đó, cơ chế bảo vệ hiến pháp có tính chất Nhà nước do các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện như: Chủ tịch nước, Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Chính phủ, Ủy ban nhân dân, Tòa án, Viện kiểm sát. Tuy nhiên, bảo vệ hiến pháp bằng các thiết chế có tính chuyên môn hay chuyên trách (Toà án hiến pháp, Hội đồng bảo hiến...) mới là sự thể hiện rõ rệt về tính chất pháp quyền của nhà nước. Song, tính cho đến thời điểm hiện nay, một cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp có tính chuyên môn hay chuyên trách vẫn chưa được tổ chức ở nước ta. Trong khi đó vấn đề bảo hiến hiện nay đang là trọng tâm thu hút sự chú ý từ nhiều phía, không chỉ trong phạm vi nước ta. Đòi hỏi phải nâng cao và phát huy hơn nữa vai trò của các cơ chế nhà nước trong vấn đề bảo vệ Hiến pháp đang đặt ra bức thiết hơn bao giờ hết kể từ khi chúng ta quyết định xây dựng một nhà nước pháp quyền theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Muốn làm được điều đó, chúng ta cần phải khắc phục những điểm hạn chế còn tồn tại trong quá trình bảo vệ Hiến pháp mà các cơ chế nhà nước bảo hiến hiện nay chưa đáp ứng được, song song với điều đó cần phải kiện toàn lại tổ chức và hoạt động của các cơ chế nhà nước bảo hiến sao cho phù hợp với những thay đổi trong điều kiện kinh tế - chính trị và xã hội của nước ta. Bên cạnh đó, Đảng ta đã xác định một hướng bảo vệ Hiến pháp hết sức mới mẻ nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc tôn trọng và thực thi Hiến pháp nước ta đó là: "Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp" [8, tr. 127]. Thực hiện chủ trương của Đảng đồng nghĩa với việc chúng ta đang góp phần củng cố hơn nữa cơ chế nhà nước bảo vệ hiến pháp, góp phần tăng cường hơn nữa ý thức tuân thủ, tôn trọng và thực thi các quy định của Hiến pháp ở nước ta. Mặt khác, đó cũng là một trong những yêu cầu đặt ra cho chúng ta cần phải 2 xây dựng và hoàn thiện ở mức độ cao hơn đối với cơ chế nhà nước bảo vệ hiến pháp. Đề tài luận văn "Xây dựng các cơ chế nhà nước bảo vệ hiến pháp ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" được thực hiện vì những lý do trên. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tuy bảo vệ Hiến pháp là một nhiệm vụ có tầm vóc lớn lao, xây dựng cơ chế bảo hiến là việc làm cấp bách, nhưng tài phán Hiến pháp mới chỉ được nghiên cứu ở nước ta trong thời gian gần đây nên khối lượng các công trình nghiên cứu so với thế giới còn khá khiếm tốn. Cho đến nay, hầu hết công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề này là các bài báo, các chuyên đề, chuyên khảo trong các hội thảo, trong đó, nổi bật lên với bài viết của PGS.TS. Nguyễn Như Phát, Mô hình tài phán Hiến pháp ở Cộng hòa Liên bang Đức, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11, 2004; PGS. TS Thái Vĩnh Thắng, Mô hình cơ quan bảo hiến ở các nước trên thế giới, Tạp chí Luật học, số 5, 2004; GS. TSKH: Đào Trí Úc, Tài phán Hiến pháp và xây dựng tài phán Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10, 2006; Báo cáo của Đoàn Ủy ban pháp luật về kết quả nghiên cứu tại Cộng hòa Liên bang Đức; Báo cáo kết quả của Đoàn công tác của Ban công tác lập pháp tại Cộng hòa Áo và Vương quốc Anh; Tài liệu tham khảo về Hội thảo về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam do Ban công tác lập pháp tổ chức tại thành phố Vinh, Nghệ An, tháng 3 năm 2005… Hoặc "Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của GS.TSKH Đào Trí Úc (Chủ biên), "Cơ chế giám sát Hiến pháp theo các Hiến pháp Việt Nam và vấn đề xây dựng tài phán Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay" của PGS.TS. Trương Đắc Linh (báo cáo Hội thảo quốc tế về giám sát Hiến pháp năm 2007), "Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân" của PGS.TS. Lê Minh Thông trong kỷ yếu hội thảo "Quốc hội Việt Nam 60 năm hình thành và phát triển", Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2006, "Những vấn đề lý 3 luận cơ bản về thiết chế bảo hiến" và "Những vấn đề cơ bản trong xây dựng định chế bảo hiến ở nước ta" của PGS.TS. Vũ Thư, Tạp chí Tòa án nhân dân số 5 năm 2006, số 7 năm 2007… Bên cạnh đó có một số công trình được biên soạn dưới dạng sách tham khảo đã bước đầu cung cấp thông tin cho người đọc về kinh nghiệm và nền tài phán Hiến pháp của nước ngoài. Trong số này có thể kể đến: TS. Nguyễn Sĩ Dũng (chủ biên), Quyền giám sát của Quốc hộiNội dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu, Nhà xuất bản tư pháp, Hà Nội, 2004; Ban công tác lập pháp - Đặng Văn Chiến (chủ biên), Cơ chế bảo hiến, Nhà xuất bản tư pháp, Hà Nội, 2005… Và gần đây là đề tài nghiên cứu cấp bộ về "Tài phán Hiến pháp- một số vấn đề lý luận cơ bản, kinh nghiệm quốc tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam" do PGS.TS. Nguyễn Như Phát (Viện trưởng Viện Nhà nước&pháp luật) chủ nhiệm đã phần nào đi sâu vào nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống về vai trò của tài phán hiến pháp đối với việc duy trì và bảo vệ chế độ Nhà nước và nền dân chủ, xu hướng phát triển của chúng trong thế giới đương đại và đặc biệt là về mô hình lý luận cho việc xây dựng tài phán hiến pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong các công trình nghiên cứu khoa học của mình, các nhà khoa học tập trung tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề lý luận xung quanh các cơ chế nhà nước bảo hiến ở nước ta, đồng thời xem xét chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp qua các thời kỳ, và đặt trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đã thể hiện sinh động và hiện thực về thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ chế nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp, những bất cập, hạn chế cũng như những luận giải và đề xuất khắc phục những nhược điểm đó nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ chế nhà nước bảo hiến, từ đó đẩy mạnh, tăng cường hơn nữa vai trò của các cơ quan này đối với vấn đề bảo hiến, góp phần tôn vinh Hiến pháp ở nước ta. Đây chính là nguồn nhận thức cơ bản và quan trọng, là những kiến thức, cơ sở lý luận để học viên tham khảo, vận dụng, học hỏi để thực hiện đề tài luận văn của mình. 4 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn Mục đích nghiên cứu của luận văn này là trên cơ sở tiếp cận tổng thể, phân tích, đánh giá, làm sáng tỏ khái niệm, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp ở nước ta, thực tiễn hoạt động của cơ chế nhà nước bảo hiến và những điểm còn bất cập, hạn chế trong hoạt động của các cơ quan này gây ảnh hưởng đến việc bảo đảm thực thi, tôn trọng các quy định của Hiến pháp nước ta, đồng thời hướng tới xây dựng, hoàn thiện cơ chế nhà nước bảo hiến. Trên cơ sở đó các kiến nghị được đề xuất nhằm sửa đổi, hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm nâng cao hơn nữa tổ chức, hoạt động và vai trò của cơ chế nhà nước về bảo vệ Hiến pháp; đưa ra những kiến nghị phục vụ cho sự thành lập thiết chế bảo hiến chuyên trách ở nước ta góp phần làm chặt chẽ hơn nữa tổ chức và hoạt động của cơ chế nhà nước về bảo vệ Hiến pháp mà mục tiêu cuối cùng là bảo vệ quyền công dân, quyền con người và xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau: - Phân tích những cơ sở lý luận cơ bản về cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp, vị trí, vai trò của các cơ quan nhà nước trong thực thi nhiệm vụ bảo hiến. - Phân tích và nhận xét về thực trạng cơ chế nhà nước, những điểm còn tồn tại và hạn chế của cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp nước ta. - Phân tích những nhu cầu khách quan đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm nâng cao hơn nữa vai trò, tổ chức và hoạt động của cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của cơ chế bảo hiến ở nước ta. 4. Giới hạn của luận văn Phạm vi của luận văn này tương đối rộng, do đề cập đến thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của nhiều cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp, 5 thể hiện ở nhiều mặt, nhiều khía cạnh thuộc nhiều lĩnh vực, không cho phép chúng ta đi vào tìm hiểu sâu hay đề cập hết các khía cạnh, các mức độ thực thi chức trách, nhiệm vụ bảo hiến được quy định bởi Hiến pháp và pháp luật nước ta. Trong khuôn khổ luận văn này, luận văn chỉ tập trung vào một số nội dung cơ bản như: phân tích nhu cầu bảo vệ Hiến pháp, khái niệm, vị trí, vai trò của cơ chế nhà nước về bảo vệ Hiến pháp, trong đó chủ yếu đề cập đến hoạt động kiểm tra, giám sát Hiến pháp do các cơ quan nhà nước bảo hiến thực hiện, phân tích những hạn chế, thiếu sót trong quá trình thực thi trách nhiệm bảo hiến của các cơ quan nhà nước, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hơn nữa vai trò bảo hiến của cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp, đồng thời đưa ra kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo hiến nước ta, đáp ứng yêu cầu mà bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đưa lại. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận mà luận văn sử dụng để thực hiện đề tài nghiên cứu này là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật, về nhà nước pháp quyền, về vấn đề bảo vệ Hiến pháp, về đường lối đổi mới đất nước được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng và các Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng, Hiến pháp và văn bản Pháp luật của Nhà nước. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng để hoàn thành đề tài luận văn này là đi từ bản chất đến cụ thể, từ thực tiễn khách quan đến cái chung và cái riêng. Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của Triết học Mác Lênin, luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể như: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, liệt kê, kết hợp lý luận với thực tiễn…để giải quyết các vấn đề đặt ra từ luận văn. Các phương pháp trên được sử dụng xuyên suốt đề tài luận văn, nhưng trong từng chương, mức độ sử dụng có thể khác nhau do xuất phát từ yêu cầu của việc nghiên cứu và nội dung của đề tài. 6 6. Giá trị khoa học và thực tiễn của đề tài Đề tài đã bước đầu đi vào nghiên cứu và đưa ra quan điểm cụ thể về vấn đề bảo hiến, vi phạm Hiến pháp và cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp, đưa ra một cái nhìn chung nhất về thực trạng của cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay, tìm ra những bất cập, hạn chế trong quá trình thực thi nhiệm vụ bảo hiến của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, từ đó đánh giá hiệu quả thực hiện nhiệm vụ bảo hiến trên cơ sở phân tích nhu cầu thực tiễn cần bảo vệ Hiến pháp ở nước ta. Các kết quả nghiên cứu của đề tài nhằm mục đích đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện hơn nữa cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp, nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hiến ở Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Nhu cầu bảo vệ Hiến pháp và bảo hiến trên thế giới Chương 2: Hiến pháp và cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp Việt Nam Chương 3: Phương hướng xây dựng, hoàn thiện cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp Việt Nam. 7 Chương 1 NHU CẦU BẢO VỆ HIẾN PHÁP VÀ BẢO HIẾN TRÊN THẾ GIỚI 1.1. Hiến pháp và vi phạm Hiến pháp 1.1.1. Hiến pháp Trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia, Hiến pháp là đạo luật gốc, là nguồn của các văn bản quy phạm pháp luật, có hiệu lực pháp lý cao nhất, cần phải được tôn trọng và bảo vệ nghiêm ngặt. Về vị trí, Hiến pháp là đạo luật gốc, luật mẹ, là nguồn của các văn bản quy phạm khác trong hệ thống pháp luật, Hiến pháp chi phối nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật dưới nó. Các văn bản quy phạm pháp luật khác đều dựa trên cơ sở Hiến pháp và phải phù hợp với Hiến pháp, không được trái với Hiến pháp. Vì vậy, muốn xác định một hành vi là vi phạm Hiến pháp hay kết luận tính hợp hiến của một văn bản quy phạm pháp luật chúng ta phải đối chiếu chúng với các quy định của Hiến pháp. Nói cách khác, Hiến pháp phải được viện dẫn khi giải quyết các tranh chấp và phán quyết về các vi phạm Hiến pháp. Về chủ thể của các quan hệ do Hiến pháp điều chỉnh: Phần lớn Hiến pháp quy định về tổ chức, hoạt động của Nhà nước và xác định quyền và nghĩa vụ của công dân. Do vậy, chủ thể của vi phạm Hiến pháp có thể là các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được nhà nước trao quyền (chẳng hạn như Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng...). Về nội dung, Hiến pháp quy định những chế định lớn như chủ quyền quốc gia, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị và vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước, vấn đề quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chế độ kinh tế, văn hóa, giáo dục...Những nội dung cơ bản trên của Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự duy trì quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời, đó cũng là nền tảng pháp lý quan 8 trọng để đánh giá, xem xét về tính hợp hiến của các đạo luật, các hoạt động do cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền và các tổ chức xã hội. Hiến pháp có ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, nhưng thực tế cho thấy, tình trạng Hiến pháp bị xâm phạm trong quá trình thi hành và vận dụng vào cuộc sống là khá phổ biến, bằng cách này hay cách khác. Bởi vậy, bảo vệ Hiến pháp là vấn đề được chú trọng ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới hiện nay và là vấn đề được quan tâm hàng đầu tại các quốc gia theo đuổi mô hình nhà nước pháp quyền. Một trong những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền là tính tối cao của Hiến pháp, đòi hỏi Hiến pháp phải được tuân thủ và thực hiện một cách triệt để. Đồng nghĩa với việc nhà nước pháp quyền không chấp nhận bất kỳ một hành vi nào xâm phạm đến tính tối cao và toàn vẹn của Hiến pháp. Xuất phát từ đây, nhu cầu bảo vệ Hiến pháp được đặt ra nhằm đảm bảo Hiến pháp được tôn trọng và giữ gìn nghiêm chỉnh. Nhưng trên thực tế, trong quá trình thi hành Hiến pháp luôn xảy ra tình trạng vi phạm Hiến pháp, những hành vi vi hiến do cá nhân hay tổ chức gây ra không chỉ xâm hại trực tiếp đến sự toàn vẹn của Hiến pháp mà còn gây thiệt hại không nhỏ đến lợi ích của nhà nước và cá nhân công dân, đồng thời vi phạm quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ. Nghiêm trọng hơn, nếu chủ thể vi phạm Hiến pháp là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì hậu quả gây ra thật sự khôn lường, bởi đây là những cơ quan chủ yếu giữ trọng trách bảo vệ Hiến pháp. Trong khi đó, những vi phạm Hiến pháp do các cơ quan nhà nước gây ra trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình lại không phải là hiếm gặp. Bởi vậy, có thể khẳng định cần thiết phải bảo vệ Hiến pháp, nhất là trong quá trình các cơ quan nhà nước thi hành và vận dụng các quy định của Hiến pháp vào cuộc sống. 1.1.2. Vi phạm Hiến pháp Trước hết, cần phải khẳng định vi phạm Hiến pháp là một dạng của vi phạm pháp luật bởi Hiến pháp là một bộ phận trong hệ thống pháp luật quốc 9 gia. Do đó, khi nghiên cứu các yếu tố cấu thành nên vi phạm Hiến pháp ta có thể xem xét chúng với các yếu tố cấu thành tương tự như vi phạm pháp luật thông thường bao gồm: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể, khách thể. Mặc dù vậy, với vị trí, tính chất và tầm quan trọng đặc biệt của Hiến pháp, ta không thể đánh giá vi phạm Hiến pháp như vi phạm pháp luật thông thường, hay nói cách khác, vi phạm Hiến pháp là một loại vi phạm pháp luật đặc biệt. Vì thế, khi kết luận về tính hợp hiến hay vi hiến của một hành vi chúng ta cần phải dựa vào các dấu hiệu như sau: Năng lực chịu trách nhiệm pháp lý của chủ thể. Chủ thể của vi phạm Hiến pháp là các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền, trong trường hợp này năng lực chịu trách nhiệm pháp lý của chủ thể vi phạm Hiến pháp được xem xét tương tự như chủ thể vi phạm pháp luật. Tính trái Hiến pháp của hành vi: Một hành vi bị xem là trái Hiến pháp khi nó không tuân theo những quy định của Hiến pháp, xâm hại những quan hệ được Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ. Yếu tố lỗi: Chủ thể vi phạm Hiến pháp có thể là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được Nhà nước trao quyền thẩm quyền, nên việc xác định yếu tố lỗi không đơn giản. Hiện nay, đang có đề xuất, nếu công dân bị truy cứu trách nhiệm pháp lý vì hành vi vi phạm pháp luật của mình thì tương tự như vậy, các cá nhân được nhà nước trao quyền cũng phải bị truy cứu trách nhiệm Hiến pháp nếu bản thân họ vi phạm Hiến pháp, hoặc do thiếu trách nhiệm dẫn đến cấp dưới hoặc cơ quan do mình quản lý vi phạm Hiến pháp. Là một dạng đặc biệt của vi phạp pháp luật, vi phạm Hiến pháp(hay còn gọi là vi hiến) cũng thể hiện dưới dạng hành động và không hành động. Trên cơ sở đó, vi phạm Hiến pháp và vi phạm các quy định của những văn bản quy phạm pháp luật mang tính Hiến định có thể tạm chia thành hai loại: "vi phạm một cách chủ động và vi phạm một cách bị động" [17]. Vi phạm Hiến pháp một cách chủ động xảy ra khá thường xuyên, khi các cơ quan nhà 10 nước có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung trái với các quy định của Hiến pháp hoặc trái với tinh thần của Hiến pháp. Sở dĩ như vậy, bởi các cơ quan ban hành ra các văn bản quy phạm vi hiến này đa phần là các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng quản lý, nên khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật, họ thường có xu hướng đề ra các quy định tạo thuận lợi cho hoạt động của mình, nhưng cũng vì vậy mà họ đã đẩy những khó khăn và bất lợi về phía người dân- đối tượng trực tiếp chịu sự quản lý, điều này đồng nghĩa với việc họ đã vi phạm các quyền của người dân được Hiến pháp thừa nhận và bảo vệ. Bên cạnh đó, với lý do nhằm tạo thuận lợi cho công tác quản lý của mình, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không cho rằng nội dung các văn bản quy phạm pháp luật do họ ban hành là vi hiến, và cần thiết phải làm như thế nhằm giúp các cơ quan chức năng dễ dàng hơn khi thực hiện nhiệm vụ, hơn nữa, điều đó là có ích cho cộng đồng. Chẳng hạn, trong thời gian vừa qua, hàng loạt các văn bản pháp lý do các Bộ ban hành đã bị Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật Bộ tư pháp "tuýt còi" vì chứa đựng những nội dung vi phạm Hiến pháp, điển hình như Quyết định số 33/2008/QĐ-BYT ngày 30/09/2008 của Bộ Y tế về việc ban hành tiêu chuẩn sức khỏe người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, hay thông tư liên tịch Hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế số 09/2009/TTLT-BYT-TC ngày 14 tháng 08 năm 2009,…Còn vi phạm Hiến pháp một cách bị động là dạng vi phạm Hiến pháp tương đối khó nhận biết, vì vi phạm này chỉ xảy ra khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không ban hành những văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa các quy định Hiến pháp, trong khi họ có nghĩa vụ phải ban hành chúng, hoặc không ban hành những văn bản pháp lý mà theo quy định pháp luật là phải ban hành. Hay nói cách khác, họ đã không thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ mà Hiến pháp và pháp luật đã trao cho họ, và việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thực hiện hoặc thực hiện nhưng không đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình cũng chính là hành vi vi phạm Hiến pháp. Nhưng vì những vi phạm Hiến pháp loại này ở dạng 11 dạng không hành động nên rất khó xác định, trừ phi tự bản thân cơ quan nhà nước đó thừa nhận, còn không, hầu hết chúng ta đều khó nhận biết được, mặc dù hậu quả mà những vi phạm Hiến pháp loại này để lại cũng rất nghiêm trọng. Bởi những kẽ hở pháp lý được tạo ra khi các văn bản quy phạm pháp luật không được ban hành để điều chỉnh kịp thời là cơ sở cho những hành vi xâm hại đến quyền, lợi ích của công dân, của xã hội được thực hiện mà không bị xử lý, hay đến khi phát hiện ra thì hậu quả để lại đã quá lớn, không thể khắc phục được. Trên thực tế, nếu căn cứ theo quy định tại Điều 7 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001, thì cử tri có quyền bãi nhiệm đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nhưng nếu chỉ với quy định như vậy, thì cử tri khó lòng thực hiện được quyền bãi nhiệm đối với đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, thậm chí cho tới thời điểm hiện tại, không có bất cứ quy định nào hướng dẫn cụ thể vấn đề đó. Điều đó đã hạn chế quyền lợi của cử tri, vì không có những quy định chi tiết, cụ thể về trình tự, thủ tục bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân nên cử tri mặc dù không còn đặt niềm tin vào các đại biểu dân cử của mình, cũng không cách nào thực hiện quyền bãi nhiệm đối với họ. Trong trường hợp này, việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã không ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về quyền hạn bãi nhiệm các đại biểu dân cử của cử tri, được xem là vi phạm Hiến pháp. Vô hình trung, họ đã hạn chế quyền lợi hợp pháp của cử tri đã được ghi nhận trong Hiến pháp. 1.2. Bảo hiến và các mô hình bảo hiến trên thế giới 1.2.1. Bảo hiến Hiện nay trên thế giới có nhiều quan niệm về bảo hiến. Có người cho rằng "bảo hiến(bảo vệ Hiến pháp) là tổng hợp các biện pháp giữ gìn, chống lại sự vi phạm các nguyên tắc và quy phạm của hiến pháp"[3, tr.17]. Bảo hiến ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, quan điểm này đã đồng nhất giữa bảo vệ Hiến pháp và bảo đảm Hiến pháp. 12 Theo quan điểm khác, bảo hiến lại được hiểu là "hoạt động của chủ thể có thẩm quyền ra phán quyết về tính hợp hiến hoặc bất hợp hiến của văn bản pháp luật, qua đó làm phát sinh hệ quả pháp lý vô hiệu hóa văn bản pháp luật vi hiến" [1, tr. 16]. Nếu quan điểm thứ nhất có xu hướng mở rộng nội hàm khái niệm, thì quan điểm thứ hai lại thu hẹp nội hàm của khái niệm "bảo hiến" khi coi hoạt động bảo hiến chỉ gói gọn trong hoạt động xem xét, đánh giá và phán quyết về tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật. Khoan bàn đến tính đúng sai giữa hai khái niệm, ở đây chúng ta phải xuất phát từ bản chất của hoạt động bảo hiến để có được cái nhìn đúng đắn nhất về nó. Trước hết, bảo hiến hiểu một cách đơn giản nhất là bảo vệ Hiến pháp, trong đó giữ gìn sự toàn vẹn của Hiến pháp là việc đầu tiên cần làm, quan trọng hơn, cần phải giữ cho Hiến pháp không bị vi phạm, hay nói cách khác, giữ cho các quan hệ được Hiến pháp thừa nhận và bảo vệ không bị xâm hại đến. Nói đến các đối tượng hàng đầu được Hiến pháp thừa nhận và bảo vệ không thể không nhắc đến quyền con người và quyền tự do, dân chủ của công dân. Hiến pháp được sinh ra là để bảo vệ những quyền đó. Nhưng điều này chỉ thực hiện được nếu chúng ta ngăn chặn được những vi phạm Hiến pháp trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước. Mặt khác, phạm vi hoạt động của các cơ quan nhà nước là rất rộng, không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực ban hành văn bản quy phạm pháp luật, do đó, cần phải kiểm soát sự vi hiến của các cơ quan này ở cả những lĩnh vực khác. Do đó, nếu bảo hiến chỉ được hiểu một cách đơn giản là hoạt động xem xét tính hợp hiến hay vi hiến của các đạo luật và các văn bản pháp lý khác, thì chúng ta không thể kiểm soát được những vi phạm Hiến pháp trong những lĩnh vực hoạt động khác của quyền lực nhà nước. Nói cách khác, cần phải hiểu bảo vệ Hiến pháp theo nghĩa rộng nhất. "Bởi lẽ, toàn bộ hoạt động của hệ thống nhà nước, của xã hội và các hành vi pháp lý tích cực của công dân, đặc biệt là hệ thống thanh tra, giám sát và xét xử, suy cho cùng đều có khả năng và mục tiêu bảo vệ Hiến pháp" [31]. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn này, chúng ta chỉ xét đến hoạt động bảo vệ 13 Hiến pháp được thực hiện bởi các chủ thể có thẩm quyền, được Hiến pháp trao cho trọng trách bảo vệ Hiến pháp, vì vậy, không đi sâu vào phân tích hoạt động bảo hiến do cơ chế xã hội thực hiện. Xuất phát từ một thực tế là thi hành Hiến pháp không thể tránh khỏi vi phạm Hiến pháp, bảo hiến là một nhu cầu tất yếu khách quan, cần phải thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để. Bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, nếu đã có cho riêng mình một bản Hiến pháp, dù thành văn hay bất thành văn cũng đều phải nghĩ tới vấn đề bảo vệ Hiến pháp. Mặt khác, Hiến pháp giữ vị trí, vai trò quan trọng đặc biệt trong xã hội, nó đứng trên các thiết chế như nhà nước, xã hội, đồng thời nó là nền tảng pháp lý và chính trị căn bản để từ xã hội tổ chức nên Nhà nước, là cơ sở để xác lập và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, xác lập và tổ chức mối quan hệ giữa Nhà nước - xã hội và công dân…Từ đó, có thể nói, Hiến pháp là công cụ để phân chia và giới hạn các quyền lực chính trị trong đó chủ yếu là quyền lực nhà nước. Trong khi việc tổ chức quyền lực nhà nước cũng là một trong những nội dung căn bản của nhà nước pháp quyền, nên nhu cầu bảo vệ Hiến pháp cũng xuất phát từ mục tiêu xây dựng và bảo vệ nhà nước pháp quyền. Khi nói đến vấn đề bảo hiến, không thể không nhắc đến chủ nghĩa hợp hiến phương tây, đây là nền tảng căn bản cho sự hình thành chế độ tài phán hiến pháp. Vì bản chất của chủ nghĩa hợp hiến là sự giới hạn pháp lý đối với công quyền, nên nó trở thành cảm hứng để thông qua đó người ta tìm ra các biện pháp nhằm hạn chế quyền lực nhà nước, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Trong đó, đòi hỏi trước hết của chủ nghĩa hợp hiến là tổ chức và điều hành của chính quyền phải tuân theo các quy định của Hiến pháp, nhưng có Hiến pháp không có nghĩa là có chủ nghĩa hợp hiến. Bản Hiến pháp phải chứa đựng những quy định nhằm hạn chế bớt quyền lực của chính quyền, điều chỉnh hoạt động của chính quyền theo hướng bảo vệ quyền con người, quyền công dân mới là chủ nghĩa hợp hiến tự do. Chính vì vậy, để giới hạn được quyền lực nhà nước, bắt buộc Hiến pháp phải được đứng ở vị trí cao nhất trong 14 trong hệ thống pháp lý cũng như trong đời sống xã hội, hay nói cách khác, đứng trên mọi văn bản pháp luật khác do nhà nước ban hành, và được toàn xã hội tôn vinh. Bắt nguồn từ đây, lý thuyết về tính tối cao của Hiến pháp và quyền tài phán hiến pháp đã được hình thành và phát triển, được các quốc gia có nền lập hiến lâu đời ở Châu Âu và Châu Mỹ thừa nhận. Như vậy, có thể kết luận học thuyết hiến pháp tối cao là cơ sở của học thuyết tài phán hiến pháp, bởi Hiến pháp sẽ không giữ được sự toàn vẹn và tính tối cao của nó nếu nội dung của nó bị xâm hại, đồng thời những hành vi xâm hại đó không bị phán xử bởi bất cứ một thiết chế nào. Theo quan điểm của các học giả phương Tây, một chính quyền cho dù được thiết lập trên cơ sở Hiến pháp cũng không thể được xem là điều hành theo chủ nghĩa hợp hiến nếu không có một cơ chế phán quyết các vi phạm Hiến pháp của chính quyền đó. Trong buổi đầu của nền lập hiến, cơ quan dân cử là đối tượng được lựa chọn để bảo vệ Hiến pháp, bởi thế, thẩm quyền bảo hiến được trao cho hội nghị dân cử, một ủy ban của Quốc hội, Nghị viện hoặc một trong hai viện của Quốc hội. Ở một số nước trên thế giới khi lựa chọn mô hình bảo hiến là một cơ quan trong bộ máy nhà nước thì thông thường trọng trách bảo hiến được trao cho cơ quan lập hiến. Tuy nhiên ở các nước đó có sự phân biệt giữa quyền lập hiến và quyền lập pháp. Khi đó, Hiến pháp được ban hành bởi một cơ quan ở vị trí thuận lợi để giải thích Hiến pháp, kịp thời nhận biết những vi phạm Hiến pháp và phải ở vị trí cao hơn cơ quan lập pháp. Song, quan niệm trao trọng trách bảo hiến cho cơ quan dân cử đã không còn phù hợp nữa, do đó, mô hình bảo hiến này được rất ít quốc gia áp dụng. Sở dĩ như vậy bởi nếu trao quyền bảo hiến cho cơ quan chính trị như cơ quan dân cử thì vấn đề sẽ được xem xét dưới khía cạnh chính trị hơn là khía cạnh pháp lý. Trong khi đó việc kiểm soát tính hợp hiến lại là một hành vi pháp lý. Nhưng "cơ quan chính trị lại xử lý vấn đề trong quan điểm, góc nhìn chính trị, sự kiểm soát tính hợp hiến dễ bị sai lạc khi cơ quan này nhìn nhận đến tính hợp thời, lợi ích và giá trị thực tiễn của đạo luật hơn là xem xét tính hợp hiến của nó" [8, tr. 127]. Việc kiểm soát tính hợp hiến 15 của pháp luật thuộc về nghiệp vụ mang tính pháp lý, từ đó phát sinh quan niệm trao trọng trách bảo hiến cho cơ quan tư pháp. Quyền lực nhà nước được chia thành ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó, lập pháp và hành pháp là hai lĩnh vực dễ nảy sinh tình trạng lạm quyền, đặc biệt là quyền lực hành pháp, nên dễ dàng xâm phạm đến các quyền con người và quyền công dân. Nhưng tư pháp với đặc thù là đại diện cho công lý để bảo vệ cho những quyền tự nhiên vốn có của con người, nên tư pháp trở thành công cụ hữu hiệu để kiểm soát tính hợp hiến và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con người và công dân. Bên cạnh đó, với việc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân quyền, việc lựa chọn tư pháp- một ngành quyền lực có những khác biệt với ngành lập pháp và hành pháp, để trao trọng trách bảo hiến là hợp lý, điều này đảm bảo cho hoạt động bảo hiến diễn ra một cách khách quan. Vì chẳng cơ quan nào hay cá nhân nào muốn tự mình phán xử hay bãi bỏ một đạo luật hay văn bản pháp quy do mình ban hành khi văn bản đó chứa đựng nội dung vi hiến, trong khi tòa án có thừa khả năng để vô hiệu hóa những văn bản vi hiến đó. Chính vì thế, mô hình tài phán hiến pháp hiện nay được hầu hết các quốc gia trên thế giới lựa chọn là mô hình Tòa án hiến pháp-dùng tư pháp để kiềm chế và kiểm soát quyền lực lập pháp và quyền lực hành pháp. Theo đó, các quốc gia trên thế giới đều dựa vào quyền lực tư pháp để buộc các cơ quan hành pháp cũng như lập pháp phải chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với mọi hoạt động do cac cơ quan này thực hiện và buộc họ trong quá trình thực thi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải triệt để tuân thủ các quy định của Hiến pháp. Theo PGS.TS Nguyễn Như Phát, tư tưởng tài phán hiến pháp bắt nguồn từ lịch sử phát triển của Châu Âu và Bắc Mỹ. Nhưng sự phát triển của tài phán hiến pháp trên thế giới được ghi dấu ấn đặc biệt từ nửa sau của thế kỷ 20 gắn liền với sự hình thành và phát triển của các thể chế tòa án hiến pháp ở nhiều quốc gia và khu vực. Hiện nay, khi nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của chế độ bảo hiến trên thế giới vẫn còn tồn tại khá nhiều ý kiến 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan