XÁC SUẤT BỎ ĐIỀU TRỊ THEO THỜI GIAN VÀ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI
BỎ ĐIỀU TRỊ Ở NHỮNG BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN TẠI 6 CƠ SỞ
ĐIỀU TRỊ METHADONE TỈNH THÁI NGUYÊN
Đào Thị Minh An1*, Nguyễn Thị Huyền Trang1, Lê Ái Kim Anh2, Nguyễn Hoàng Long3
1
Bộ môn Dịch tễ, Đại học Y Hà Nội
2
Trung tâm phòng, chống AIDS tỉnh Thái Nguyên
3
Cục phòng chống HIV/AIDS, Bộ Y tế
TÓM TẮT:
Nghiên cứu nhằm mục tiêu phân tích xác suất bỏ điều trị theo thời gian và một số yếu tố ảnh hưởng ở bệnh
nhân điều trị Methadone (MMT). Phương pháp nghiên cứu thuần tập hồi cứu được sử dụng để phân tích
xác suất bỏ điều trị theo thời gian và phương pháp bệnh chứng được sử dụng bỏ điều trị để phân tích yếu
tố ảnh hưởng tới bỏ điều trị. Sự kiện bỏ điều trị được ghi nhận theo thời gian để phân tích xác suất bỏ điều
trị bằng phương pháp phân tích sống còn Kapplan Meier. Phân tích yếu tố ảnh hưởng bằng hồi qui Cox.
Kết quả cho thấy xác suất bỏ điều trị tăng nhanh trong 3 năm đầu (sau năm 1:8,7%, sau năm 2:18,0% và
sau năm 3:25,8 %).Các yếu tố ảnh hưởng đến bỏ điều trị của: bệnh nhân gồm: có khó khăn từ bản thân;
còn sử dụng chất gây nghiện; tự đến hoặc được giới thiệu từ công an. Khuyến nghị mô hình điều trị MMT
tại cộng đồng cần sớm được triển khai. Tăng cường tư vấn cho người nhà bệnh nhân hỗ trợ về tinh thần
trong việc điều trị, cải thiện được mối quan hệ gia đình. Tăng cường tiếp cận và giới thiệu người nghiện tại
cộng đồng tới cơ sở MMT qua cán bộ Y tế và cán bộ Ủy ban nhân dân.
Từ khóa: Methadone, bỏ điều trị, Thái Nguyên.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Tính đến 15/01/2015, tỉnh Thái Nguyên có
5.671 người nghiện ma túy và được ghi nhận là
một trong 7 tỉnh/thành phố trọng điểm về ma
túy trong cả nước. Thái Nguyên đã triển khai
các hình thức cai nghiện tại gia đình, tại cộng
đồng và tại các Trung tâm Giáo dục - Lao động
xã hội giai đoạn 1994-2010. Vào 9/2011, Thái
Nguyên bắt đầu triển khai điều trị cai nghiện
bằng Methadone thay thế. Tính tới thời điểm
31/8/2015, trên toàn bộ địa bàn tỉnh đã có 6
cơ sở điều trị Methadone (MMT) tại 5 huyện/
thành phố, điều trị cho 2.638 bệnh nhân. Phân
tích trên số liệu hồi cứu của chúng tôi cho thấy
tỉ lệ bệnh nhân bỏ điều trị 30 ngày liên tục tại 6
cơ sở MMT Thái Nguyên là >18%. Một trong
những yếu tố quyết định thành công của điều trị
Methadone là điều trị liên tục hàng ngày, duy trì
*Tác giả: Đào Thị Minh An
Địa chỉ: Đại học Y Hà Nội
Điện thoại: 0912512189
Email:
[email protected]
bệnh nhân lâu dài trong chương trình. Nghiên
cứu FHI 360, Bộ Y tế (2014), đánh giá hiệu quả
chương trình thí điểm điều trị nghiện các chất
thuốc phiện bằngmethadone tại Hải Phòng và
Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỉ lệ bỏ liều
theo thời gian tăng dần từ 1-18 tháng và sau đó
từ 18 – 24 tháng thì tỉ lệ này giảm đối với những
BN bỏ liều 1-2 ngày với các tỉ lệ tương ứng là
1,5%; 18,9%; 19,8%; 23,2%; 34,3% và 27,6%
[1]. Các nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy sau
12 tháng điều trị, tỉ lệ tuân thủ của bệnh nhân là
35,2% trong khi đó tỉ lệ không tuân thủ và rất
không tuân thủ là 55,9% và 9%[2]. Tỷ lệ bệnh
nhân bỏ điều trị trong một số nghiên cứu Methadone khác trên thế giới dao động trong khoảng
17% sau 3 tháng nghiên cứu, 13%, 14% và
27% sau 6 tháng và 11% sau 18 tháng [3 - 4],
[5], [6].Tại Việt Nam, nghiên cứu tại cơ sở điều
trị MMTThành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỉ lệ
Ngày nhận bài: 20/07/2015
Ngày phản biện: 09/10/2015
Ngày đăng bài: 10/11/2015
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 10 (170) 2015
259
mới bỏ cuộc trong 6 tháng là 1,9%, trong năm
2009 là 8,8%, năm 2010 là 10,9%, năm 2011
chỉ ở mức 5,1%, cộng dồn tính đến năm 2011
là 26,6% [7]; 10,2% bệnh nhân ra khỏi chương
trình sau 1 năm và 17,7% đã dừng và ra khỏi
chương trình điều trị sau 2 năm. Tỷ suất ra khỏi
chương trình dao động trong khoảng từ 7 đến
10,8 trường hợp/1000 bệnh nhân-tháng, tương
đương với tỷ lệ bỏ điều trị trung bình là 8,3
trường hợp/1000 người-tháng [1].
Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào của Việt
Nam nghiên cứu sâu về xác suất bỏ liều điều
trị methadone theo thời gian và các yếu tố liên
quan. Câu hỏi nghiên cứu của chúng tôi là xác
suất bỏ điều trị theo các khoảng thời gian của
bệnh nhân MMT như thế nào để từ đó có những
khuyến nghị cho chương trình. Nghiên cứu có
mục tiêu phân tích xác suất bỏ điều trị theo thời
gian, xác định một số yếu tố ảnh hưởng.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Thiết kế nghiên cứu
- Nghiên cứu thuần tập hồi cứu sổ theo dõi
điều trị toàn bộ 2.638 bệnh nhân đăng ký tại 6
cơ sở MMT tỉnh Thái Nguyên từ 30/9/2011 đến
31/8/2015.
- Nghiên cứu bệnh chứng.
các lần đến uống thuốc gần đây nhất và phỏng
vấn trực tiếp.
2.3 Biến số nghiên cứu
Tuổi, giới, học vấn, tình trạng hôn nhân,
công việc có thu nhập, tính chất công việc, tình
trạng điều trị Methadone – ARV (khoảng cách,
thời gian giữa cơ sở điều trị), người hỗ trợ,
phương tiện và chi phí uống thuốc, tình trạng
sức khỏe mắc bệnh phối hợp (lao, tiêu chảy,
nấm, viêm phổi, bệnh răng miệng, viêm gan..),
HIV, khó khăn từ bản thân (đi lại xa, không sắp
xếp được thời gian, chi phí tổn kèm, bị bắt đi
trại/tù, chuyển địa bàn sinh sống, vấn đề về sức
khỏe), khó khăn từ gia đình (gia đình không
hỗ trợ, có biến động lớn trong gia đình), khó
khăn từ cán bộ Y tế - cơ sở Y tế (không có dịch
vụ điều trị bệnh phối hợp, thời gian chờ uống
thuốc), khó khăn từ phác đồ điều trị (tác dung
phụ từ Methadone, sợ phát hiện heroin trong
nước tiểu, quá trình điều trị lâu, vẫn thèm ma
túy); cải thiện mối quan hệ gia đình, sức khỏe,
công việc.
2.4 Phân tích và xử lý số liệu
Sự kiện bỏ điều trị được ghi nhận theo thời
gian để phân tích xác suất bỏ điều trị bằng
phương pháp phân tích sống còn Kapplan Meier. Phân tích yếu tố ảnh hưởng bằng hồi qui
Cox đơn và đa biến trên phần mềm Stata 12.0
2.2 Đối tượng và cỡ mẫu nghiên cứu
2.5 Đạo đức nghiên cứu
Nhóm chủ cứu: Toàn bộ 187 bệnh nhân
đăng ký tại 6 cơ sở MMT tỉnh Thái Nguyên
từ 30/09/2011 đến 31/08/2015 có 30 ngày liên
tục không đến uống thuốc (bỏ điều trị) tiếp cận
được qua liên hệ điện thoại. Nhóm chứng: 187
bệnh đang còn duy trì điều trị trong chương
trình MMT có mã số bệnh án tiếp liền với
bệnh nhân bỏ điều trị được chọn làm nhóm đối
chứng. Tiếp cận bệnh nhân nhóm đối chứng tại
Đề cương nghiên cứu được thông qua hội
đồng đạo đức của Cục phòng chống HIV/AIDS
Việt Nam. Thông tin của bệnh nhân trích xuất
từ sổ điều trị được bảo mật. Số liệu cá thể được
phân tích thành số liệu tổng hợp chung không
có sự kết nối với danh tính bệnh nhân.
260
III. KẾT QUẢ
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 10 (170) 2015
Bảng 1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu trong nghiên cứu bệnh chứng
Nhóm bỏ điều trị
Nhóm chứng
(n=187)
(n=187)
p
n
n
%
28
15,0
28
15,0
Trung Thành
28
15,0
28
15,0
Phổ Yên
24
12,8
24
12,8
Phú Lương
19
10,2
19
10,2
Đồng Hỷ
Cơ sở
%
Túc Duyên
43
23,0
43
23,0
Đại Từ
24,0
45
24,0
37,13±8,37
21-60
0,01*
39
20,9
34
18,2
29-49
143
76,5
135
72,2
5
2,6
18
9,6
Độc thân
52
27,8
41
21,9
Kết hôn
Nhóm tuổi
45
21-55
≤29
Tuổi TB Ā±SD (min-max)
118
63,1
138
73,8
35,31±6,90
≥50
Tình trạng hôn nhân
Ly hôn/Góa
9,1
8
54,6
107
57,2
78
41,7
77
7
3,7
3
1,6
Công an
23
12,3
0
0
Tự đến
20
10,7
9
4,8
Ủy ban nhân dân/cơ
131
70,1
170
90,9
Khác
13
7,0
8
4,3
Gia đình
172
92,0
174
93,1
Khác
15
8,0
13
0,04*
41,2
Cấp 3trở lên
0,02*
4,3
102
Cấp 2
Người giới thiệu
17
Mù chữ-cấp 1
Học vấn
--
6,9
0,42
<0,001*
sở Y tế
Sống với
Có công việc
135
72,2
135
72,2
>0,05
Công việc ổn định
73
54,1
76
56,3
0,71
Công việc xa nhà
54
40,0
31
23,0
0,003*
38
70,4
28
90,3
16
29,6
3
0,69
9,7
Hiếm khi, thỉnh
0,03*
thoảng
Mức độ
Thường xuyên
K/cách từ nhà-cơ sở MMT
7,49±6,35
0,5-30
6,90±6,34
0,1-40
0,37
T/gian từ nhà-cơ sở MMT
20,20±14,55
2-60
17,05±11,17
3-60
0,01*
Một mình
160
85,6
160
85,6
Khác (vợ chồng...)
18
14,4
18
14,4
Người đi cùng
Công cộng
11,8
10
5,4
144
77,0
168
89,8
Khác (đạp, oto,…)
Chi phí đi lại/lần uống
22
Xe máy
Phương tiện
21
11,2
9
4,8
0-100
18,56±18,48
0-155
>0,05
0,49
17,39±13,60
0,004*
* Khác biệt có ý nghĩa thống kê
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 10 (170) 2015
261
Bảng1 trình bày đặc điểm của đối tượng trong
nghiên cứu bệnh chứng cho thấy có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa nhóm chủ cứu và nhóm
đối chứng về những yếu tố: tuổi, tình trạng hôn
nhân, người giới thiệu đến cơ sở điều trị, mức độ
và công việc phải di chuyển xa nhà, thời gian và
phương tiện di chuyển từ nhà đến cơ sở MMT.
Vì hạn chế số trang của bài báo, do vậy đặc điểm
của 2638 bệnh nhân trong thiết kế thuần tập hồi
cứu xin độc giả tham khảo tại bài báo về " Thực
trạng bỏ điều trị, ra khỏi chương trình và quay
lại điều trị tại các cơ sở điều trị cai nghiện bằng
Methadone tỉnh Thái Nguyên từ 30/9/2011 đến
31/8/2015" được xuất bản cùng trong số báo này.
Bảng 2. Đặc điểm về sử dụng chất gây nghiện, cai nghiện và các bệnh kèm
theo trên cỡ mẫu của thiết kế nghiên cứu bệnh chứng
Đặc điểm
Nhóm bỏ điều trị
Nhóm
n
Nhóm chứng
%
n
p
%
Sử dụng chất gây nghiện, cai nghiện và điều trị methadone thay thế
Tuổi TB lần đầu sử dụng chất gây nghiện
24,26 ± 6,10
15-48
25,20 ± 6,05
14-45
0,18
Điều trị MMT lần:
1
172
92,0
185
98,0
2
15
8,0
2
1,1
Số lần cai nghiện
2,90 ± 2,16
0-10
3,04 ± 2,21
0-9
0,54
110
58,8
129
69,0
0,04*
XN HIV(+) tại cơ sở (n=187)
34
18,2
40
21,4
0,44
Điều trị ARV (bệnh án) (n=34)
16
47,1
29
72,5
0,03*
Điều trị ARV (tự báo cáo)
27
79,4
31
77,5
0,84
17
63,0
21
67,7
0,49
TB k/c khác cơ sở
7,1±5,75
2-20
8,2±8,12
2-25
0,73
Có bệnh kèm theo
57
30,5
64
34,2
0,44
Còn sử dụng chất gây nghiện trong quá
trình điều trị MMT
0,001*
Tình trạng sức khỏe
MMT-ARV:
Cùng cơ sở
* Khác biệt có ý nghĩa thống kê
Bảng 2 trình bày đặc điểm về sử dụng chất
gây nghiện, cai nghiện và các bệnh kèm theo
cho thấy có sự khác biệt giữa nhóm chủ cứu và
nhóm đối chứng về tình trạng sử dụng chất gây
nghiện trong quá trình điều trị MMT và tình
trạng điều trị ARV.
Hình 1. Xác suất bỏ điều trị theo thời gian 2.638 bệnh nhân theo dõi từ 9/2011-8/2015
262
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 10 (170) 2015
Hình 1 trình bày xác suất bỏ điều trị thời gian thấy xác suất bỏ trị tăng nhanh trong 3 năm đầu (sau
2.638 bệnh nhân theo dõi từ 9/2011-8/2015 cho năm 1: 8,7%, sau năm 2: 18,0% và sau năm 3: 25,8 %).
Hình 2. So sánh xác suất bỏ điều trị lũy tích theo thời gian theo (1) công việc xa nhà, (2) nguồn giới thiệu
bệnh nhân đến cơ sở MMT, (3) đặc điểm sử dụng chất gây nghiện ở giai đoạn duy trì điều trị MMT, (4) đặc
điểm mắc bệnh kèm theo trên cỡ mẫu nghiên cứu bệnh chứng
Hình 2 so sánh xác suất bỏ điều trị theo theo
các nhóm đối tượng khác nhau cho thấy xác
suất bỏ điều trị cao hơn: ở những đối tượng
có công việc phải thường phải đi xa nhà; ở
những đối tượng được giới thiệu từ công
an; ở những đối tượng còn sử dụng chất gây
nghiện; và ở những đối tượng không mắc bệnh
kèm theo.
Hình 3. So sánh xác suất bỏ điều trị lũy tích theo thời gian theo (1) đặc điểm khó khăn từ bản thân, (2)
khó khăn từ gia đình, (3) cải thiện mối quan hệ gia đình, (4) cải thiện sức khỏe, (5) cải thiện công việc
trên cỡ mẫu của nghiên cứu bệnh chứng
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 10 (170) 2015
263
Hình 3 so sánh xác suất bỏ điều trị theo các
khó khăn và cải thiện trong quá trình điều trị
MMT, cho thấy xác suất bỏ điều trị cao hơn
nhóm bệnh nhân có gặp khó khăn từ cá nhân và
gia đình; không cải thiện mối quan hệ gia đình;
không cải thiện sức khỏe, công việc.
Bảng 3. Phân tích đa biến hồi quy Cox về xác suất bỏ điều trị của đối tượng
Các yếu tố
Haz Ratio (HR)
95% CI
p
1,62
1,19-2,21
0,02
2,24
1,62-3,09
<0,001
1
1
Tự đến
1,75
1,07-2,86
<0,001
Công an
3,78
2,23-3,09
0,03
Khó khăn từ bản thân
Còn sử dụng chất gây nghiện trong điều trị
Cơ sở Y tế - Ủy ban nhân dân
Người giới thiệu:
Bảng 3 trình bày kết quả phân tích mô hình
hồi quy đa biến Cox với biến đầu vào là các
biến có ý nghĩa thống kê từ phân tích đơn biến
gồm điểm nhân khẩu học (có công việc mang
lại thu nhập, người giới thiệu tới cơ sở điều trị
methadone), các yếu tố về sử dụng chất gây nghiện và mắc các bệnh kèm theo, các khó khăn
về bản thân, gia đình, cán bộ Y tế, phác đồ và
các cải thiện mối quan hệ tại gia đình, công
việc, sức khỏe được đưa vào mô hình. Kết quả
cho thấy đối tượng có khó khăn từ bản thân có
khả năng bỏ điều trị gấp 1,62 lần (91%CI: 1,192,21) so với những đối tượng không có khó
khăn từ bản thân; những đối tượng còn sử dụng
chất gây nghiện có khả năng bỏ điều trị gấp
2,24 lần (95%CI: 1,62-3,09), những đối tượng
tự đến hoặc được giới thiệu từ công an có khả
năng bỏ điều trị cao gấp 1,75 lần (95%CI: 1,072,86); 3,78 lần (95%CI: 2,23-3,09) so với đối
tượng được Cơ sở Y tế - Ủy ban nhân dân giới
thiệu đến.
IV. BÀN LUẬN
đến 10,8 trường hợp trên 1000 bệnh nhân-tháng
[1]. Theo báo cáo năm 2012, ở Thanh Hóa cho
thấy tỷ lệ bệnh nhân bỏ điều trị là 10,6% (sao
12 tháng theo dõi), 13,3% (sau 18 tháng theo
dõi) [8].Nghiên cứu năm 2012 tại Malaysia
theo dõi trong vòng 2 năm có 25,0% bệnh
nhân bỏ điều trị [9],ở Pháp (2014) cho thấy tỷ
lệ này khá cao với 64,8% bệnh nhân bỏ điều
trị Methadone (sau 12 tháng điều trị) [2]. Theo
báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho
thấy sau theo dõi 1 năm, xác suất bệnh nhân bỏ
điều trị là 26%; bệnh nhân mới điều trị (điều trị
dưới 3 tháng) có xác suất bỏ điều trị cao gấp 4
lần so với bệnh nhân đã duy trì điều trị (điều
trị trong chương trình hơn 1 năm) [10]. Một số
nghiên cứu tại Hoa Kỳ, Trung Quốc, Indonessia
cho thấy xác suất bỏ điều trị sau 3 năm là 50%
[11], [12], nghiên cứu tại Trung Quốc (3/20082/2009) cho thấy xác suất bỏ điều trị tích lũy là
khá cao 1,3, 6 tháng là (6%, 25%, 43%) [13].
Như vậy có thể thấy xác suất bỏ điều trị theo
thời gian của bệnh nhân điều trị MMT tại Thái
Nguyên tương đồng với kết quả ở một số tỉnh
khác và trên thế giới.
Nghiên cứu này chỉ ra rằng xác suất bỏ
điều trị MMT tăng dần có ý nghĩa thống kê
trong 3 năm đầu tiên của điều trị MMT (sau
năm 1:8,7%, sau năm 2:18,0% và sau năm
3:25,8 %). Nghiên cứu tại Thành phố Hồ Chí
Minh 2008-2011 cho thấy trong số 1141 bệnh
nhân theo dõi trong hơn 33 tháng, trung bình
mỗi năm có khoảng 8% ra khỏi chương trình
methadone, sau 3 năm là 24%[7]. Tỷ suất ra
khỏi chương trình dao động trong khoảng từ 7
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng
những đối tượng có khó khăn từ bản thân (việc
đi xa, không sắp xếp được thời gian, chi phí
đi lại cá nhân mỗi lần đến cơ sở MMT, vướng
đi làm ăn xa, thiếu quyết tâm…) có khả năng
bỏ điều trị gấp 1,62 lần (91%CI: 1,19-2,21) so
với những đối tượng không có khó khăn từ bản
thân. Một nghiên cứu tại Trung Quốc năm 2010
chỉ ra rằng mặc dù hầu hết các chi chí về điều
trị đã được miễn hoặc giảm để giúp bệnh nhân
264
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 10 (170) 2015
tại các cơ sở điều trị MMT tuân thủ điều trị,
nhưng thực tế bệnh nhân vẫn phải chi trả một
số phí khác liên quan tới việc đi lại cơ sở điều
trị và điều này góp phần không nhỏ ảnh hưởng
tới duy trì điều trị của bệnh nhân [14]. Một
nghiên cứu khác cũng tại Trung Quốc (2009)
chỉ ra những bệnh nhân mất thời gian đi tới cơ
sở trên >30 phút có nguy cơ bỏ điều trị cao 1,63
lần sau 12 tháng [13]. Báo cáo của WHO (2004)
cũng đã chỉ ra việc chi phí tốn kém của cá nhân
đến nhân khi đến điều trị MMT là yếu tố ảnh
hưởng tới duy trì điều trị[10]. Nghiên cứu tại
Malaysia (2012) cho thấy trình độ văn hóa thấp
là yếu ảnh hưởng đến tình trạng bỏ điều trị
MMT [9]. Nghiên cứu năm 2014 tại Pháp cho
thấy những bệnh nhân không có chỗ ở ổn định,
gặp khó khăn trong việc đi tới cơ sở MMT là
những yếu tố ảnh hưởng tới tỉ lệ 64,8% bỏ điều
trị sau 12 tháng [2]. Vì vậy để giảm khó khăn
trong đi lại cho bệnh nhân, chương trình điều
trị MMT có thể cân nhắc mô hình triển khai
MMT tại cộng đồng. Tăng cường tư vấn nâng
cao nhận thức đúng đắn cho bệnh nhân điều trị
MMT, tư vấn cho người nhà bệnh nhân hỗ trợ
về tinh thần trong việc điều trị, cải thiện được
mối quan hệ gia đình.
Kết quả của chúng tôi cũng chỉ ra rằng
những đối tượng còn sử dụng chất gây nghiện
trong quá trình điều trị có khả năng bỏ điều trị
gấp 2,24 lần những đối tượng không có hành
vi này. Nghiên cứu tại Trung Quốc (2010),Malaysia (2012) và Pháp (2014) đều chỉ ra rằng
liều điều trị methadone thấp làm bệnh nhân
vẫn tiếp tục sử dụng chất gây nghiện và đây là
yếu tố ảnh hưởng tới bỏ điều trị của bệnh nhân
[14],[9],[2]. Đặc biệt nghiên cứu tại Trung
Quốc (2014) cho thấy cho thấy xác suất bỏ
điều trị của những đối tượng còn sử dụng chất
gây nghiện cao gấp 5,72 lần (HR: 5,72, 95%CI:
1,49-21,92)[15].
Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng những đối
tượng tự đến hoặc được giới thiệu từ công an
có khả năng bỏ điều trị cao gấp 1,75 lần và 3,78
lần so với đối tượng được Ủy ban nhân dân
và cơ sở Y tế giới thiệu đến.Thực tế cho thấy
những đối tượng do công an giới thiệu tới điều
trị thường do ép buộc hơn là nhận thức được từ
bản thân nên quá trình điều trị không được lâu
dài và bền vững. Những đối tượng tự đến mặc
dù có thể đã có nhận thức từ bản thân hoặc gia
đình nhưng lại thiếu tư vấn đầy đủ quá trình
điều trị MMT từ cán bộ y tế và chính quyền
và những yếu tố này có thể đã ảnh hưởng tới
sự tham gia lâu dài của bệnh nhân trong điều
trị MMT. Vì vậy cần tăng cường tiếp cận và
giới thiệu người nghiện tại cộng đồng tới cơ
sở MMT qua cán bộ y tếvà cán bộ ủy ban nhân
dân thay cho tiếp cận từ công an.
Ưu nhược điểm của nghiên cứu: Nếu kinh
phí và thời gian cho phép thì nghiên cứu này
sẽ thiết kế theo dõi dọc đối tượng theo thời
gian từ khi đăng ký điều trị đến khi xuất hiện
sự kiện "bỏ điều trị". Tuy nhiên thời gian cần
theo dõi là 4 năm và kinh phí tương ứng sẽ rất
lớn. Trên thực tế đề tài có sự khống chế về thời
gian triển khai trong 1 năm với kinh phí hạn.
Do vậy để phục vụ cho mục tiêu phân tích yếu
tố ảnh hưởng tới bỏ điều trị, chúng tôi sử dụng
thiết kế bệnh chứng để tận dụng nguồn thông
tin sẵn có được ghi nhận trong bệnh án về đặc
điểm cá nhân, đặc điểm điều trị, đặc điểm tuân
thủ trong của bệnh nhân từ khi đăng ký đến
thời điểm bỏ điều trịbỏ điều trịbỏ điều trị. Vì
vậy, về lý thuyết thông tin hồi cứu phụ thuộc
vào mức độ ghi nhận đầy đủ của cán bộ Y tế.
Tuy nhiên những thông tin được hồi cứu trong
nghiên cứu đều dựa trên bằng chứng xác thực
gồm: thông tin về nguồn giới thiệu bệnh nhân
đến dựa trêngiấy giới thiệu; thông tin về vấn đề
sức khỏe dựa trên hồ sơ bệnh ánkhám lâm sàng,
xét nghiệm máu, nướctiểu, chụp xquang, thông
tin về tuân thủ điều trị dựa trên kết quả xét nghiệm nước tiểu định kỳ hàng tháng, lý do bỏ
điều trị và khó khăn trong quá trình điều trị dựa
trên phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân. Vì vậy, ưu
điểm của nghiên cứu bệnh chứng này là kiểm
soát tốt các sai số hồi cứu thông tin. Hạn chế
trong thiết kế bệnh chứng này là hạn chế trong
phân tích xác suất bỏ điều trị theo thời gian trên
cỡ mẫu của thiết kế nghiên cứu bệnh chứng. Vì
vậy riêng đối với phân tích xác suất này, chúng
tôi không sử dụng cỡ mẫu của nghiên cứu bệnh
chứng mà chúng tôi phân tích trên toàn bộ 2638
bệnh nhân theo dõi từ 9/2011-8/2015 như một
thuần tập hồi cứu.
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 10 (170) 2015
265
V. KẾT LUẬN
6.
Xác suất bỏ điều trị tăng dần trong 3 năm
đầu điều trị methadone. Xác suất bỏ điều trị
sau năm 1:8,7%, sau năm 2:18,0% và sau năm
3:25,8 %. Một số yếu tố ảnh hưởng đến xác suất
bỏ điều trị: đối tượng có khó khăn từ bản thân
có khả năng bỏ điều trị gấp 1,62 lần (91%CI:
1,19-2,21) so với những đối tượng không có
khó khăn từ bản thân; những đối tượng còn sử
dụng chất gây nghiện có khả năng bỏ điều trị
gấp 2,24 lần (95%CI: 1,62-3,09), những đối
tượng tự đến hoặc được giới thiệu từ công an có
khả năng bỏ điều trị cao gấp 1,75 lần (95%CI:
1,07-2,86); 3,78 lần (95%CI: 2,23-3,09) so với
đối tượng được Ủy ban nhân dân và cơ sở Y tế
giới thiệu đến.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế, F., Đánh giá hiệu quả chương trình thí điểm
điều trị nghiện các chất thuốc phiện bằngmethadone
tại Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh. 2014.
2. Roux, P., et al., Predictors of non-adherence to methadone maintenance treatment in opioiddependent individuals: Implications for clinicians. Current pharmaceutical design, 2014. 20(25): p. 4097-4105.
3. Xiao, L., et al., Quality of life of outpatients in methadone maintenance treatment clinics. Journal of acquired immune deficiency syndromes (1999), 2010.
53(Suppl 1): p. S116.
4. Rhoades, H.M., et al., Retention, HIV risk, and illicit
drug use during treatment: methadone dose and visit
frequency. American Journal of Public Health, 1998.
88(1): p. 34-39.
5. Sees, K.L., et al., Methadone maintenance vs 180day psychosocially enriched detoxification for treatment of opioid dependence: a randomized controlled
266
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
trial. Jama, 2000. 283(10): p. 1303-1310.
Metzger, D.S., et al., Human immunodeficiency virus seroconversion among intravenous drug users
in-and out-of-treatment: an 18-month prospective
follow-up. JAIDS Journal of Acquired Immune Deficiency Syndromes, 1993. 6(9): p. 1049-1056.
Thịnh, T., Kết quả Điều trị Thay thế Bằng Methadone trên bệnh nhân nghiện Heroin tại TPHCM sau
3 năm theo dõi, 2008-2011. 2011.
Trung tâm phòng, c.H.A., Báo cáo Hoạt động điều
trị thay thế các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc
Methadone tại Thanh Hóa. 2012.
Ramli, M., et al., Associated risk factors to
Non-compliance to Methadone Maintenance Therapy. The Medical journal of Malaysia, 2012. 67(6):
p. 560-564.
Blum, J., J. Durocher, and D. Abbas, Proposal for the
inclusion of misoprostol in the WHO model list of
essential medicines. Gynuity Health Projects, 2010:
p. 1-34.
Riki Febrian, J.B., When Do Indonesian MMT
Clients Cease Injecting? Harm Reduction, in In
CD The 10th International Congress on AIDS in
Asia and the Pacific. 2011: Busan, Korea.
Igor Van Laere, T.H., et al, Methadone Maintenance Treatment and HIV Care in West Java
Indonesia: Smaller Team, Higher Retention, in In
CD The 10th International Congress on AIDS in
Asia and the Pacific. 2011: Busan, Korea.
Che, Y., et al., Predictors of early dropout in methadone maintenance treatment program in Yunnan
province, China. Drug and alcohol review, 2010.
29(3): p. 263-270.
Yin, W., et al., Scaling up the national methadone
maintenance treatment program in China: achievements and challenges. International journal of epidemiology, 2010. 39(suppl 2): p. ii29-ii37.
Jiang, H., et al., Factors associated with one year
retention to methadone maintenance treatment program among patients with heroin dependence in
China. Subst Abuse Treat Prev Policy, 2014. 9(11).
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 10 (170) 2015
PROBABILITY OF DROPOUT AND DETERMINANTS AMONG PATIENTS
REGISTERED AT SIX METHADONE MAINTENANCE TREATMENTS
IN THAI NGUYEN
Dao Thi Minh An1, Nguyen Thi Huyen Trang1, Le Ai Kim Anh2, Nguyen Hoang Long3
1
Department of Epidemiology – Hanoi Medical University
2
Provincial AIDS center of Thai Nguyen
3
Vietnam Administration for HIV/AIDS Control, Ministry of Health
To analyse probability of quitting methadone
treatment 30 days continously and determinants
among patients registered at 6 MMTs in Thai
Nguyen. Retrospective cohort design was applied
to estimate propobality of dropout MMT through
times. Case control study was applied to analyze
determinants of quitting. Quitting events were
identified through time for calculating propobality of dropout using Kapplan Meier analysis. Cox
regression were used to analyze determinants.
Probabilityamong of quitting increased rappidly
in the first 3 years of treatment (year 1:8,7%, year
2:18,0% and year 3:25,8 %. ). Determinants of
quitting are having individual difficulties; keep
using heroine; be introduced for MMT bypolice.
MMT implemented at communce is model of
concern. Strengthening patient’s family supports for MMT patients regarding spiritand
family relationships. Enhance the involvement
of the health workers and staff of the people's
Committees in troduce in step of introducing
drug users to the MMTs.
Keywords: Dropout, MMT, determinants
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 10 (170) 2015
267