Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xác định dấu hiệu giá trị tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đo...

Tài liệu Xác định dấu hiệu giá trị tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt từ thực tiễn quận bình tân, thành phố hồ chí minh

.PDF
95
140
79

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN NHẬT XÁC ĐỊNH DẤU HIỆU GIÁ TRỊ TÀI SẢN TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN NHẬT XÁC ĐỊNH DẤU HIỆU GIÁ TRỊ TÀI SẢN TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ĐINH XUÂN NAM HÀ NỘI - 2017 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT ............................. 6 1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt .............................................................................6 1.2 Cơ sở pháp lý của việc định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt .............................................................................................................15 1.3 Phương thức định giá tài sản...........................................................................22 Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TẠI QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .............................................................................................. 36 2.1 Tình hình định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt của HĐĐGTS và các cơ quan tiến hành tố tụng tại quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh ...............................................................................................................36 2.2 Đánh giá thực trạng tình hình định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt tại quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh .........................53 2.3 Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế, khó khăn vướng mắt trong quá trình định giá tài sản đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt ................. 58 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN ĐÚNG TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT ............ 62 3.1 Tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật .....................................................62 3.2 Tăng cường tổng kết thực tiễn việc định giá tài sản .......................................67 3.3 Nâng cao trình độ, nhận thức cho đội ngũ áp dụng pháp luật ........................70 3.4 Tăng cường phối hợp giữa Hội đồng định giá và các cơ quan tiến hành tố tụng dựa trên các quy định pháp luật để giải quyết tốt vấn đề định giá tài sản trong pháp luật hình sự .........................................................................................71 3.5 Tăng cường cơ sở vật chất ..............................................................................73 3.6 Kiến nghị, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng pháp luật hình sự ............................................................74 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 80 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật dân sự BLHS : Bộ luật hình sự BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra ĐTV : Điều tra viên HĐĐGTS : Hội đồng định giá tài sản KSV : Kiểm sát viên TA : Tòa án TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh TP : Thẩm phán TAND : Tòa án nhân dân TTDS : Tố tụng dân sự TTHS : Tố tụng hình sự UBND : Ủy ban nhân dân VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, thực hiện các Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác cải cách tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/05/2005 của Bộ chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và Nghị quyết số 49/NQTW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, công cuộc cải cách tư pháp đã được các cấp ủy, đảng lãnh đạo thực hiện với quyết tâm cao và đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và sự quan tâm của toàn xã hội đối với công tác cải cách tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đã được những kết quả nhất định, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bình Tân là quận ven của Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập trên cơ sở Nghị định số 130/2003/NĐ-CP ngày 05/11/2003 của Chính phủ, trên cơ sở chia tách từ huyện Bình Chánh cũ. Có vị trí địa lý là cầu nối giữa Thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh miền Tây có tốc độ phát triển kinh tế vượt bật trong những năm qua. Song song với sự phát triển của xã hội, điều đáng quan tâm chính là tình hình tội phạm của quận Bình Tân cũng diễn biến ngày càng phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt những năm gần đây nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu chiếm tỉ lệ tội phạm cao nhất so với các nhóm tội phạm khác (chiếm khoảng trên dưới 65%). Về nguyên nhân dẫn đến tình hình nhóm tội phạm này ngày càng tăng, có thể thấy bên cạnh sự phát triển của kinh tế, xã hội, kéo theo là các tệ nạn xã hội như trộm cắp, cướp giật và các vấn đề khác có liên quan đến tình hình an ninh trật tự của địa phương. Do đó, việc áp dụng pháp luật đúng, đảm bảo trong việc phòng, chống tội phạm được hiệu quả hơn. Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự nói chung, các vụ án xâm phạm sở hữu nói riêng tại địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy việc định tội danh, quyết định hình phạt chính xác, đúng pháp luật, là tiền đề, là điều kiện để đạt được mục đích của hình phạt. Trong BLHS có rất nhiều tội danh quy định yếu tố giá trị tài sản bị xâm 1 phạm (hư hỏng, huỷ hoại, chiếm đoạt, chiếm giữ, sử dụng trái phép...) là một trong những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Vì vậy, việc xác định giá trị tài sản bị xâm phạm có ý nghĩa quan trọng và mang tính bắt buộc để xác định hành vi xâm phạm về tài sản có phải là tội phạm hay không. Bên cạnh đó, việc xác định giá trị tài sản còn là căn cứ để xác định khung hình phạt; đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khi lượng hình và xác định mức bồi thường cho người bị thiệt hại. Xuất phát từ nhận thức đó, nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt cũng như góp phần giải quyết những vướng mắc trong việc quyết định hình phạt, bồi thường thiệt cho người bị thiệt hại đối với các tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả chọn vấn đề “Xác định dấu hiệu giá trị tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học là đáp ứng yêu cầu khách quan hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Xác định dấu hiệu giá trị tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu là tội phạm có tính chất nhạy cảm cao, phức tạp và đã được một nhà luật học đề cập đến trong một số sách chuyên khảo, giáo trình, tạp chí. Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có liên quan đến đề tài luận văn, đó là: Nhóm các sách, bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí chuyên ngành có TS. Đỗ Văn Đương, TS. Lê Hữu Thể, ThS. Nguyễn Thị Thủy (2013). Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb chính trị quốc gia; Ths. Vũ Mạnh Thông, Luật sư Nguyễn Ngọc Điệp (2009). Bình luận Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Lao động; TS. Võ Thị Kim Oanh (2016). Bình luận Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Hồng Đức. Bên cạnh đó, các vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử còn được nghiên cứu trong một số công trình nghiên cứu khoa học như: Ths. Đinh Văn Quế (2012). Bình luận khoa học Bộ Luật Hình Sự 1999, phần các tội phạm, tập II Các tội phạm xâm phạm sở hữu, Nxb Lao động; TS. Cao Thị Oanh (2010) Giáo trình luật hình sự Việt Nam, phần các tội phạm, Chương IV, Các tội xâm phạm quyền sở hữu, Nxb Giáo 2 dục; GS.TS Võ Khánh Vinh (2014) Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb Khoa học xã hội. Chu Xuân Quyền (2016), Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học Viện Khoa Học Xã Hội - Thành phố Hồ Chí Minh. Lê Phong Toàn (2017), Tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ luật học, Học Viện Khoa Học Xã Hội - Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Văn Thanh (2016), Các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ luật học, Học Viện Khoa Học Xã Hội - Thành phố Hồ Chí Minh Tuy nhiên, qua nghiên cứu các công trình trên cho thấy, một số công trình có phạm vi nghiên cứu rộng, một số lại chưa đề cập đến một khía cạnh của xác định giá trị tài sản theo pháp luật hình sự. Hiện tại chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào chuyên sâu về vấn đề này đối với các tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về việc “Xác định dấu hiệu giá trị tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh” có ý nghĩa rất quan trọng việc định tội danh, quyết định hình phạt, bồi thường thiệt hại đối với các tội xâm phạm sở hữu từ những địa phương cụ thể vẫn còn có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới. Đây là đề tài hoàn toàn mới không trùng lặp với bất kỳ đề tài nào đã nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc xác định giá trị tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, qua đó, đưa ra giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về xác định giá trị tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự trong thời gian tới. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là làm rõ các nội dung liên 3 quan đến việc định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, với các nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống những vấn đề về lý luận, quy định của pháp luật về hoạt động định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. - Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình hoạt động định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trong các vụ án hình sự xảy ra trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. - Đề xuất những giải pháp khả thi, phù hợp để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xác định dấu hiệu giá trị tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Phạm vi nghiên cứu Xác định dấu hiệu giá trị tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt là một vấn đề rộng, lớn và rất phức tạp. Do đó, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật hình sự Việt Nam về định giá tài sản đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Nghiên cứu thực tiễn thông qua các số liệu về định giá tài sản đối với các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh thông qua các bản án và các báo cáo công tác của HĐĐGTS, CQĐT, VKS, TAND quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh trong năm năm, từ năm 2012 đến năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận Luận văn dựa trên phương pháp luận là phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Phương pháp nghiên cứu Quá trình thực hiện luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể sau đây: Phương pháp khảo sát; 4 Phương pháp đối chiếu so sánh; Phương pháp phân tích tổng hợp; Phương pháp phỏng vấn trực tiếp các ĐTV, KSV, TP có nhiều kinh nghiệm trong việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn này góp phần hoàn thiện về lý luận về định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Qua đó thấy được những mâu thuẫn, bất cập, những điều chưa đạt được trong việc định giá tài sản đối với nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt để tiến hành hoàn thiện các quy định pháp luật, giúp cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử áp dụng vào thực tiễn đạt hiệu quả cao, khắc phục những hạn chế, sai sót trong việc định giá tài sản cho nhóm tội xâm phạm sở hữu này. Về mặt thực tiễn Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu khoa học. Những đề xuất, kiến nghị thay đổi nâng cao hiệu quả của luận văn có thể làm luận chứng khoa học phục vụ tốt hơn cho công tác áp dụng Bộ luật hình sự liên quan đến nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm nước ta hiện nay. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Chương 2: Thực tiễn định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt tại quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Các giải pháp nhằm bảo đảm định giá tài sản đúng trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT 1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt 1.1.1 Khái niệm Định giá tài sản có lịch sử hình thành và phát triển khá lâu ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt những nước có nền kinh tế phát triển. Ở nước ta, trong những năm gần đây, nghề định giá tài sản cũng được phát triển rất nhanh chóng, khi Đại hội lần thứ VI năm 1986 của Đảng Cộng Sản Việt Nam mở đường cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam thì các hoạt động của kinh tế thị trường mới có điều kiện hình thành và phát triển. Thực hiện chủ trương chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường và cũng là cơ hội tất yếu phải có sự xuất hiện của nghề thẩm định giá để đáp ứng việc mở cửa nền kinh tế với thế giới. Ban đầu, nghề thẩm định giá được thừa nhận năm 1998 từ một trung tâm sự nghiệp trực thuộc Bộ Tài chính để thực hiện thí điểm sau đó được thừa nhận và phát triển mạnh trên toàn quốc vào khoảng giữa năm 2005 theo quy định của Nghị định 101/2005/NĐ-CP ngày 03/08/2005 của Chính phủ về dần chuyển sang mô hình doanh nghiệp vào đầu năm 2006. Theo Bộ Tài chính, hiện nay tại Việt Nam không còn các đơn vị nhà nước hoạt động theo mô hình sự nghiệp trong lĩnh vực giá mà phải đổi thành mô hình doanh nghiệp, hoạt động bình đẳng trước pháp luật không có sự can thiệp, ưu đãi đặc biệt của Nhà nước. Với nhiều loại hình doanh nghiệp tham gia thị trường và đội ngũ cán bộ định giá chuyên nghiệp, được đào tạo chính quy góp phần hình thành một nghề mới “Định giá tài sản” trong xã hội. Định giá tài sản là hoạt động định giá mang tính chất khách quan tồn tại trong đời sống kinh tế xã hội của mọi nền kinh tế sản xuất hàng hoá, đặc biệt đối với những nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, có liên quan đến lợi ích của nhiều chủ thể khác nhau. Như vậy, sự ra đời của nghề định giá là tất yếu khách quan đã, đang và sẽ đem lại nhiều tiện ích cho xã hội, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của cá nhân, tổ chức, đáp ứng được các yêu cầu đa dạng của các thành phần trong xã hội trong thời kỳ hội nhập Quốc tế. 6 Khi nghiên cứu về khái niệm định giá, thẩm định giá, giới nghiên cứu học thuật trên thế giới đó đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau: Theo giáo sư W.Seabrooke - Viện đại học Portsmouth, Vương quốc Anh: “Thẩm định giá là sự ước tính giá trị của các quyền sở hữu tài sản cụ thể bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích đó được xác định”. [40, tr. 2] Theo Ông Fred Peter Marrone - Giám đốc Marketing của AVO, Úc “Thẩm định giá là việc xác định giá trị của bất động sản tại một thời điểm có tính đến bản chất của bất động sản và mục đích của thẩm định giá. Do vậy, thẩm định giá là áp dụng các dữ liệu của thị trường so sánh mà các thẩm định viên thu thập được và phân tích chúng, sau đó so sánh với tài sản được yêu cầu thẩm định giá để hình thành giá trị của chúng”. [40, tr. 2] Theo GS. Lim Lan Yuan - Singapore: “Thẩm định giá là một nghệ thuật hay khoa học về ước tính giá trị cho một mục đích cụ thể của một tài sản cụ thể tại một thời điểm, có cân nhắc đến tất cả những đặc điểm của tài sản cũng như xem xét tất cả các yếu tố kinh tế căn bản của thị trường bao gồm các loại đầu tư lựa chọn”. [40, tr. 2] Theo TS. Phạm Thị Ngọc Mỹ, hiệu trưởng trường đại học BC Marketing: “Thẩm định giá là một khoa học hay là một khoa học về sự ước tính giá trị của tài sản phù hợp với thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, cho một mục đích nhất định theo những tiêu chuẩn được công nhận như những thông lệ quốc tế hoặc quốc gia”. [40, tr. 2] Theo Pháp lệnh giá số 40/2002/PL-UBTVQH10 ngày 26/04/2002 của Việt Nam, trong thẩm định giá được định nghĩa như sau: “Thẩm định giá là việc đánh giá hoặc đánh giá lại giá trị của tài sản phù hợp với thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định theo tiêu chuẩn của Việt Nam hoặc thông lệ quốc tế”. Theo Luật giá số 11/2012/QH13 do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/06/2012, Thẩm định giá được định nghĩa như sau: “Thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá” 7 Nghiên cứu chế định về “Định giá tài sản” hay xác “xác định dấu hiệu giá trị tài sản” theo quy định pháp luật hình sự Việt Nam, thì đây là một vấn đề khá mới mẻ đối với chúng ta, cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng. Nghị định số 117-HĐBT ngày 21/07/1988 của Hội đồng Bộ trưởng quy định về giám định tư pháp “Giám định tư pháp là sử dụng những kiến thức, phương pháp khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn để kết luận về vấn đề có liên quan đến các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, các tranh chấp lao động theo quyết định trưng cầu giám định của cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân (trong văn bản này gọi chung là cơ quan tiến hành tố tụng) nhằm phục vụ công tác điều tra, truy tố và xét xử”. Theo pháp lệnh số 24/2004/PL-UBTVQH11 ngày 29/09/2004 quy định về giám định tư pháp “Giám định tư pháp là việc sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ án) do người giám định tư pháp thực hiện theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm phục vụ cho việc giải quyết các vụ án”. Theo luật số 11/2012/QH13 ngày 20/06/2012 Luật giá quy định tại khoản 5 Điều 4 “Định giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quy định giá cho hàng hóa, dịch vụ”. Từ những khái niệm về “Định giá” hay “Thẩm định giá” nêu trên, tác giả có thể khái quát và đưa ra khái niệm định giá tài sản trong các vụ án hình sự: Là việc cơ quan, tổ chức có trình độ chuyên môn, có chức năng định giá tài sản hoặc được giao nhiệm vụ thực hiện việc định giá tài sản được quy đổi thành tiền theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, để phục vụ cho việc giải quyết vụ án hình sự theo đúng trình tự thủ tục quy định pháp luật. Do vậy, chúng ta có thể hiểu “Định giá” hay “Thẩm định giá” theo quy định của pháp luật Việt Nam là việc cơ quan, tổ chức có chức năng xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của BLDS phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định, theo tiêu chuẩn thẩm định giá. Việt Nam đang tồn tại hai khái niệm “Định giá” và khái niệm “Thẩm định 8 giá” nhưng trên thực tế không có sự phân biệt rõ ràng giữa “Định giá” và “Thẩm định giá” vì công việc của định giá và thẩm định giá đều là xác định giá trị tài sản để tìm ra giá cả của tài sản trong một tập hợp giả định các điều kiện trên thị trường nhất định, tại không gian và thời gian nhất định. Công việc này được thực hiện bởi các nhà chuyên môn được đào tạo, có kiến thức, kinh nghiệm, có tính trung thực và tuân theo các tiêu chuẩn thẩm định giá do Nhà nước quy định. 1.1.2 Đặc điểm của định giá tài sản Mặc dù có nhiều định nghĩa, khái niệm khi đề cập đến việc định giá tài sản đều có chung một số yếu tố nhất định là: - Thứ nhất, định giá hay thẩm định giá là sự ước tính giá trị tài sản tại thời điểm nhất định. Giá trị của tài sản được xác định là giá trị theo thị trường. Thị trường là một môi trường trong đó sự trao đổi hàng hoá hay dịch vụ giữa người mua và người bán được thực hiện thông qua cơ chế giá cả. Thị trường chỉ ra rằng hàng hoá và dịch vụ có thể được trao đổi giữa người bán và người mua mà không có sự hạn chế nào trong hoạt động của mình. Đặc điểm của thị trường: + Thị trường có thể bao gồm số lượng đáng kể người mua và người bán, hay có thể theo tính chất mà hạn chế số người tham gia. + Thị trường trong đó tài sản được trưng bày để bán, quảng bá thương hiệu hay hình ảnh của tài sản mà không có sự ngăn cấm nào. +Thị trường có thể là thị trường địa phương, thị trường trong vùng, thị trường quốc gia hoặc thị trường quốc tế. - Thứ hai, định giá tài sản được biểu hiện chủ yếu bằng hình thái tiền tệ. Thị trường là một cơ chế, trong đó người mua và người bán tương tác lẫn nhau để xác định giá cả hàng hóa dịch vụ. Trong hệ thống thị trường mọi thứ điều có giá của nó. Đó là giá trị của hàng hóa và dịch vụ được xác định bằng tiền. Giá cả thể hiện mức mà mọi người và các doanh nghiệp tự nguyện trao đổi mua bán nhiều loại hàng hóa khác nhau. Sau khi các bên đã ước tính giá cả hàng hóa dịch vụ được bằng tiền thì các bên sẽ tiến hành thực hiện các giao dịch về hàng hóa dịch vụ theo nhu cầu của mình mà không bị ràng buộc bởi một thế lực nào hay chịu sự ép buộc của một cá nhân 9 hay tổ chức nào. Trong trường hợp đặc biệt thì hàng hóa dịch vụ đặc biệt chịu sự điều chỉnh, chi phối của nhà nước để bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc phải đặt lợi ích toàn dân lên hàng đầu thì giá cả hàng hóa dịch vụ này do nhà nước quyết định. - Thứ ba, định giá hay thẩm định giá là việc ước tính giá trị đó phải được đặt trong một địa điểm, một thị trường nhất định với những điều kiện nhất định và tại một thời điểm cụ thể. Theo Thông tư số 158/2014/TT-BTC ngày 27/10/2014 của Bộ Tài chính, ban hành tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam, có khái niệm giá trị thị trường làm cơ sở cho thẩm định giá tài sản như sau: Giá trị thị trường là mức giá ước tính của tài sản tại thời điểm, địa điểm thẩm định giá, giữa một bên là người mua sẵn sàng mua và một bên là người bán sẵn sàng bán, trong một giao dịch khách quan, độc lập, có đủ thông tin, các bên tham gia hành động một cách có hiểu biết, thận trọng và không bị ép buộc, trong đó: + Thời điểm, địa điểm thẩm định giá là thời gian, không gian cụ thể tương ứng với thời gian, không gian mà giá trị của tài sản thẩm định giá được thẩm định viên định giá tài sản gắn với những yếu tố về cung, cầu, thị hiếu và sức mua trên thị trường. + Người mua sẵn sàng mua là người có khả năng thanh toán và có nhu cầu mua tài sản với mức giá tốt nhất có thể được trên thị trường. + Người bán sẵn sàng bán là người có tài sản hợp pháp và có nhu cầu muốn bán tài sản với mức giá tốt nhất có thể được trên thị trường. + Giao dịch khách quan, độc lập, có đủ thông tin là giao dịch giữa các bên không có mối quan hệ đặc biệt gây ảnh hưởng đến giá giao dịch của tài sản và các bên tham gia có đủ thời gian cần thiết để khảo sát, tiếp cận đầy đủ thông tin về tài sản và thị trường tài sản sau quá trình tiếp thị thích hợp. Giá trị thị trường thể hiện mức giá hình thành trên thị trường công khai và cạnh tranh. Thị trường này có thể là thị trường trong nước hoặc thị trường quốc tế, có thể bao gồm nhiều người mua, người bán hoặc bao gồm một số lượng hạn chế người mua, người bán. - Thứ tư, định giá hay thẩm định giá được thực hiện theo những yêu cầu và 10 mục đích nhất định của chủ thể yêu cầu. Thẩm định giá có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường, được biểu hiện như sau: + Thẩm định giá đưa ra kết quả tư vấn về giá trị, giá cả tài sản giúp các chủ thể tài sản, các bên có liên quan và công chúng đầu tư đưa ra các quyết định liên quan đến việc mua, bán, đầu tư, cầm cố, cho vay tài sản, giải quyết các vấn đề khác có liên quan đến tài sản. + Trong kinh tế thị trường, thẩm định giá tài sản được áp dụng cho nhiều mục đích kinh tế khác nhau như mua bán, thế chấp, cho thuê, bảo hiểm, tính thuế, thanh lý, đầu tư... Tương ứng với từng mục đích kinh tế, với cùng một tài sản, cùng một thời điểm thẩm định sẽ cho kết quả giá trị tài sản thẩm định là khác nhau. Do vậy, kết quả thẩm định giá sẽ được sử dụng để ra quyết định trong nhiều tình huống khác nhau, ví dụ như: + Giải quyết tranh chấp trong dân sự hoặc trong một vụ án hình sự có liên quan đến tài sản; + Báo cáo tài chính theo yêu cầu doanh nghiệp để phục vụ cho việc quản lý tài sản doanh nghiệp, thanh quyết toán thuế... + Mua sắm, chuyển nhượng, thế chấp vay vốn, bảo hiểm, tính thuế, đền bù, cho thuê tài sản; Làm căn cứ cho phê duyệt các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, dự án đầu tư công trình sử dụng vốn của Nhà nước, đề án cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, dự toán cấp phát kinh phí, mua sắm tài sản từ nguồn ngân sách nhà nước, vay nợ của Chính phủ, vay nợ nước ngoài có sự bảo lãnh của Chính phủ… Làm căn cứ để sáp nhập, chia tách, phá sản hay giải thể doanh nghiệp. - Thứ năm, việc thẩm định giá phải tuân thủ theo những tiêu chuẩn thẩm định giá và phương pháp thẩm định giá nhất định. Để kiểm soát và quản lý hoạt động thẩm định giá phát triển đúng hướng, phát huy được vai trò tích cực trong nền kinh tế, Chính phủ quan tâm xây dựng hành lang pháp lý, quản lý và điều hành bằng pháp luật. Khi xem xét báo cáo kết quả thẩm định giá của một thẩm định viên khác, thẩm định viên phải nhận xét một cách độc lập, khách quan và kết luận thống nhất 11 hay không thống nhất với một phần hay toàn bộ nội dung của báo cáo đó. Người thẩm định giá phải thẳng thắn, trung thực và có chính kiến rõ ràng khi thực hiện thẩm định giá. Phải trung thực về trình độ, kinh nghiệm và năng lực chuyên môn của mình; phải bảo đảm bản thân và các trợ lý, nhân viên dưới quyền của mình tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật về thẩm định giá và hệ thống Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam khi thực hiện thẩm định giá. Phải từ chối thực hiện thẩm định giá nếu xét thấy không có đủ điều kiện thực hiện thẩm định giá hoặc nếu bị chi phối bởi những ràng buộc có thể làm sai lệch kết quả thẩm định giá. Người thẩm định giá, doanh nghiệp thẩm định giá phải công bằng, tôn trọng sự thật khách quan và không được thành kiến, thiên vị trong việc thu thập tài liệu và sử dụng tài liệu để phân tích các yếu tố tác động khi thẩm định giá. Không được tiến hành công việc thẩm định giá khi những ý kiến, kết luận thẩm định và kết quả thẩm định giá đã được đề ra có chủ ý từ trước hoặc tiến hành thẩm định dựa trên những điều kiện có tính giả thiết mà không có biện luận chặt chẽ, khả thi, xác đáng. Mọi tài liệu thể hiện tính pháp lý và đặc điểm, kỹ thuật của tài sản cần thẩm định giá phải thể hiện rõ trong các báo cáo, kết quả thẩm định giá phải được trình bày đầy đủ, rõ ràng. Báo cáo kết quả thẩm định giá phải nêu rõ các phạm vi công việc, điều kiện hạn chế, giả thiết đặt ra của người thẩm định giá. - Thứ sáu, thẩm định giá đòi hỏi tính chuyên môn, nghiệp vụ thẩm định giá. Do đặc điểm của hoạt động thẩm định giá liên quan đến lợi ích kinh tế của các thành phần kinh tế chủ thể kinh doanh, chủ thể sử dụng trong xã hội nên nếu muốn được xã hội thừa nhận tất yếu đòi hỏi người làm thẩm định giá phải đạt một số tiêu chuẩn và phẩm chất nhất định khi tham gia hoặc thực hiện hoạt động dịch vụ này, đó là: + Có bằng cấp chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo và phải trải qua một số năm hoạt động về thẩm định giá. + Là người có kinh nghiệm nghề nghiệp trong lĩnh vực thẩm định giá. + Phải tuân thủ quy tắc hành nghề thẩm định giá do Nhà nước hoặc các tổ chức nghề nghiệp quy định. Phải có đạo đức nghề nghiệp, đó là sự trung thực, sự công bằng, đảm bảo bí mật và không gây ra mâu thuẫn về lợi ích cho khách hàng. + Phải có giấy phép hành nghề theo quy định pháp luật. 12 - Thứ bảy, định giá hay thẩm định giá được thực hiện dựa trên cơ sở sử dụng các dữ liệu, các yếu tố của thị trường. Khi nhận được yêu cầu định giá thì cơ quan, tổ chức tiến hành yêu cầu cung cấp thông tin nếu thấy cần thiết thì đưa ra những giả thiết và những điều kiện đối với những yêu cầu và mục đích thẩm định giá của chủ thể yêu cầu; những yếu tố ràng buộc ảnh hưởng đến giá trị tài sản; những giới hạn về tính pháp lý, công dụng của tài sản, nguồn dữ liệu, sử dụng để phục vụ cho việc xác định giá trị tài sản. Thực tế việc định giá tài sản để phục vụ cho một mục đích nhất định của chủ thể yêu cầu nhưng việc xác định chính xác giá trị tài sản là điều vô cùng khó khăn, phức tạp đòi hỏi cơ quan, tổ chức phải thực hiện rất nhiều công việc như lập kế hoạch khảo sát, thu thập thông tin, phân tích thông tin, thống kê, kể cả thông qua một tổ chức khác để tiến hành một số công việc cụ thể theo yêu cầu nhất định liên quan đến chuyên môn, công nghệ cao mới cho ra được kết luận định giá hoàn chỉnh và chuẩn về nội dung và hình thức. 1.1.3 Ý nghĩa của việc định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt Lịch sử lập pháp hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho đến nay đã xây dựng và ban hành được 03 BLHS, đó là BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015. Quá trình lập pháp đã kế thừa phát huy những mặt tích cực của Bộ luật hình sự trước, đồng thời loại bỏ những mặt hạn chế không còn phù hợp với tình hình hiện nay, đồng thời bổ sung các quy định mới, tiến bộ nhằm đáp ứng yêu cầu tất yếu của đời sống xã hội, góp phần vào việc phát triển kinh tế, văn hóa, giữ gìn an ninh trật tự. BLHS năm 1985 đã được Quốc hội sửa đổi, bổ sung chưa đáp ứng được sự phát triển của xã hội. Cụ thể như: các tội về xâm phạm sở hữu tài sản: Cướp tài sản xã hội chủ nghĩa, tội Cướp tài sản của công dân, tội Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, tội Trộm cắp tài sản của công dân... không quy định về giá trị tài sản bị chiếm đoạt là bao nhiêu để xác định cấu thành cơ bản; về định khung hình phạt tăng nặng được quy định bằng trọng lượng lương thực là gạo (tấn gạo) để làm căn cứ xử lý. Cơ quan tiến hành tố tụng xác định giá trị tài sản bị xâm hại căn cứ vào lời khai của người bị hại, sau đó quy đổi ra trọng lượng gạo theo bảng giá gạo từng thời 13 điểm do cơ quan tài chính quy định để xử lý. Trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến tài sản thì thông thường người bị hại khai báo với cơ quan tiến hành tố tụng về giá trị tài sản bị xâm hại cao hơn giá trị thực tế dẫn đến tình trạng gây bất lợi cho bị can, bị cáo; Về phía bị can, bị cáo thường khai báo giá trị tài sản mà bị can, bị cáo chiếm đoạt có giá trị thấp hơn giá trị thực tế nên khi cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án, quyết định hình phạt áp dụng đối bị cáo thì bị cáo thường kháng cáo với lý do TA áp dụng hình phạt là không đúng và quá nặng. Trong những trường hợp cụ thể thì việc định tội danh, quyết định hình phạt còn mang tính chất tùy nghi, chưa đánh giá được tính chất mức độ của vụ án, sẽ dẫn đến việc quyết định hình phạt quá nhẹ đối với bị cáo. Từ những bất cập này, xã hội đòi hỏi phải có một cơ quan chuyên môn xác định giá trị tài sản bị xâm hại để làm căn cứ xử lý không gây bất lợi cho bị can, bị cáo, đồng thời đảm bảo quyền tài sản của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn dân sự. Khắc phục các bất cập nêu trên, BLHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 đã quy định cơ bản các tội về xâm phạm sở hữu cấu thành phải có định lượng giá trị tài sản là tiền Việt Nam đồng; khung hình phạt tăng nặng cũng được quy định giá trị tài sản bị xâm hại có định lượng là tiền Việt Nam đồng. Song hành với các quy định nêu trên của BLHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 về xác định giá trị tài sản bị xâm phạm, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/03/2005 quy định về định giá tài sản trong tố tụng hình sự. Bộ tài chính ban hành Thông tư số 55/2006/TT-BTC ngày 22/06/2006 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/03/2005 của Chính phủ HĐDGTS trong tố tụng hình sự. Hơn 10 năm thực hiện các quy định về HĐĐGTS trong TTHS cho thấy có nhiều bất cập; nhiều nơi Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự chưa làm hết trách nhiệm của mình, có nơi HĐĐGTS làm quá phạm vi chức trách của mình như: tài sản bị chiếm đoạt không thu giữ được thì HĐĐGTS từ chối không định giá tài sản hoặc chung chung không rỏ ràng hoặc HĐĐGTS khi tiến hành định giá tài sản chưa tiến hành đầy đủ các bước để làm căn cứ định giá, các thiếu sót này là vi phạm các quy định về phạm vi, trách nhiệm của HĐĐGTS trong TTHS được quy 14 định tại Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/03/2005 của Chính phủ, dẫn đến vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục TTHS, hậu quả là việc phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, nghiêm trọng hơn là khả năng xảy ra tình trạng oan sai. Thực tiễn, quá trình thực thi những quy định của BLTTHS năm 1988 và BLTTHS năm 2003 về chứng cứ đã chỉ ra những hạn chế, vướng mắc, trong đó những quy định về chứng cứ còn hạn hẹp, không còn phù hợp với việc chứng minh tình hình tội phạm hiện nay. Để khắc phục những tồn tại và khó khăn trên, BLTTHS năm 2015 đã có những thay đổi, bổ sung quan trọng theo hướng quy định rõ hơn những vấn đề cần phải chứng minh, mở rộng các loại nguồn chứng cứ… Đặc biệt, “Kết luận định giá tài sản” đã được BLTTHS năm 2015 quy định là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng của quá trình chứng minh. Trong một số trường hợp nếu không có kết quả của việc định giá tài sản thì cơ quan tiến hành tố tụng không thể giải quyết được vụ án. Ngoài ra, “Kết luận định giá tài sản” cũng là một trong những yếu tố để xác định căn cứ để buộc tội hoặc minh oan cho người vô tội. Xuất phát từ tầm quan trọng của các kết luận giám định khi giải quyết các vụ án hình sự và một số khó khăn vướng mắc trong thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 là trong một số vụ án cần phải định giá tài sản, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm nguồn chứng cứ mới đó là “Kết luận định giá tài sản” được quy định tài Điều 101 BLTTHS năm 2015. Cho đến nay, Nhà nước ta chưa có văn bản luật về định giá tài sản trong TTHS. Tuy nhiên, Chính phủ ban hành Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/03/2005 về HĐDGTS trong TTHS và những năm vừa qua, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã vận dụng văn bản pháp lý này để tiến hành định giá tài sản, làm chứng cứ cho việc giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, với những sự chỉnh lý, sửa đổi bổ sung lần này BLTTHS năm 2015 đã khắc phục được hạn chế, thiếu sót trong các quy định về chứng cứ từ thực tiễn thi hành của BLTTHS năm 2003; tạo hành lang pháp lý cho quá trình thu thập, kiểm tra đánh giá chứng cứ đồng thời góp phần điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. 1.2 Cơ sở pháp lý của việc định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt 1.2.1 Quy định pháp luật về tài sản 15 Thứ nhất, các quy định của Bộ luật dân sự về tài sản: Tài sản luôn được coi là điều kiện vật chất để duy trì các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội. Tài sản luôn biến đổi và phát triển cùng với sự thay đổi của thời gian, của điều kiện xã hội, sự nhận thức con người về giá trị vật chất, nên tài sản qua mỗi thời kì lại được nhìn nhận ở một góc độ khác nhau. Khái niệm tài sản lần đầu tiên được quy định tại Điều 172 BLDS năm 1995: “Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”. Tiếp đó, theo quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005 thì “tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Theo đó, cụm từ “vật có thực” theo quy định của BLDS năm 1995 đã được sửa lại thành “vật”. Như vậy, không phải vật có thực mới có thể trở thành tài sản mà ngay cả những vật hình thành trong tương lai cũng được coi là tài sản. Việc thay đổi này có ý nghĩa pháp lý quan trọng trong việc xác lập, thực hiện và bảo vệ các quyền lợi ích hợp pháp trong quan hệ dân sự, phản ánh đúng tình hình phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội qua từng thời kỳ khác nhau. Sự thay đổi này đã làm cho khái niệm tài sản được hiểu theo nghĩa rộng hơn và được đánh giá là một trong những ưu điểm của BLDS năm 2005, phù hợp với yêu cầu cuộc sống, đáp ứng nhu cầu về giao dịch trong nền kinh tế thị trường. BLDS năm 2015 đã trình bày theo hướng tiếp cận mới. Cụ thể là, Điều 105 BLDS năm 2015 quy định về tài sản như sau “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Mặt khác, BLDS năm 2015 còn bổ sung Điều 108 để giải thích rõ khái niệm tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Theo đó: “1. Tài sản hiện có là tài sản đã hình thành và chủ thể đã xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch. 2. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm: a) Tài sản chưa hình thành; b) Tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập giao dịch”. “Tiền mặt” là các loại tiền giấy, tiền kim loại do Ngân hàng Nhà nước phát hành. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 40/2012/NĐ-CP ngày 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan