Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xác định cha, mẹ cho con theo pháp luật việt nam...

Tài liệu Xác định cha, mẹ cho con theo pháp luật việt nam

.DOCX
45
2377
68

Mô tả:

MỤC LỤC Phần mở đầu.................................................................................................................. Chương 1....................................................................................................................... Những vấn đề lý luận chung về việc xác định cha, mẹ cho con trong hệ thống pháp luật Việt Nam................................................................................................................. 1.1.Khái niệm xác định cha, mẹ, con............................................................................. 1.2.Ý nghĩa của việc xác định cha, mẹ, con................................................................... 1.3. Quy định của pháp luật Việt Nam về xác định cha, mẹ, con qua các thời kỳ......... 1.3.1.Xác định cha, mẹ, con trong pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến................... 1.3.2.Xác định cha, mẹ, con trong pháp luật Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc................... 1.3.3. Xác định cha, mẹ, con trong pháp luật Việt Nam thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay.................................................................................................. Chương 2..................................................................................................................... Xác định cha, mẹ cho con theo Luật HN&GĐ năm 2000 và thực tiễn áp dụng........... 2.1. Các trường hợp xác định cha, mẹ, con.................................................................. 2.1.1. Xác định cha, mẹ, con trong giá thú................................................................... 2.1.2. Xác định cha, mẹ, con ngoài giá thú.................................................................. 2.1.3. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con theo phương pháp khoa học ..................................................................................................................................... 2.2. Thủ tục xác định cha, mẹ, con............................................................................... 2.2.1. Xác định cha, mẹ, con theo thủ tục hành chính.................................................. 2.2.2. Xác định cha, mẹ, con theo thủ tục tư pháp........................................................ Chương 3..................................................................................................................... Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật về xác định cha, mẹ, con theo pháp luật hiện hành........................................................................................ 3.1. Nhận xét chung về tình hình xác định cha, mẹ, con trong những năm vừa qua.... 3.1.1.Đối với trường hợp xác định cha, mẹ, con theo thủ tục hành chính.................... 3.1.2. Đối với trường hợp nhận con theo thủ tục tư pháp............................................. 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về xác định cha, mẹ, con................................................................................................................. 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ, con.................................................. 3.2.2. Một số giải pháp khác........................................................................................ Kết Luận...................................................................................................................... 1 Phần mở đầu 1.Tính cấp thiết của đề tài Việc xác định quan hệ cha, mẹ cho con vừa có ý nghĩa về mặt pháp lý vừa có ý nghĩa về mặt tự nhiên.Quan hệ cha, mẹ cho con được xác lập sẽ được pháp luật và cộng đồng thừa nhận, là cơ sở để thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con.Đồng thời còn là cơ sở để giải quyết những tranh chấp xảy ra trong thực tiễn đối với việc xác định quan hệ cha, mẹ cho con. Hệ thống pháp luật Việt Nam đã có những quy định về vấn đề này nhằm tạo hành lang pháp lý để xác định mối quan hệ cha, mẹ cho con, tuy nhiên pháp luật Việt Nam về xác định cha, mẹ cho con còn nhiều bất cập và hạn chế. Pháp luật quy định chưa thực sự rõ ràng, còn tản mản và chưa đầy đủ, thủ tục chưa nhất quán, còn nhiều chồng chéo. Chưa có căn cứ cụ thể để xác định cha, mẹ cho con ngoài giá thú dẫn đến tình trạng khi xảy ra tranh chấp thì cơ quan chức năng còn lúng túng trong vấn đề áp dụng pháp luật. Do đó, cần có những nghiên cứu, sửa đổi nhằm tạo ra các cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cha, mẹ cho con. Vì những lý do cơ bản trên, nên em chọn vấn đề: “Xác định cha mẹ cho con theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài khóa luận của mình. 2.Mục đích và phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của khóa luận là tập trung tìm hiểu, phân tích và làm sáng tỏ việc xác định cha, mẹ, con trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thực tiễn áp dụng về việc xác định cha, mẹ, con, qua đó nêu lên những điểm hạn chế trong các quy định của pháp luật hoặc những khó khăn trong giải quyết các vụ việc xác định cha, mẹ ,con trên thực tế. Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và thực hiện việc xác định cha, mẹ cho con trên thực tế. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật về xác định cha, mẹ, con và thực tiễn áp dụng pháp luật về việc xác định cha, mẹ, con. 3.Phương pháp nghiên cứu Khóa luận sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết MácLê nin nhằm nghiên cứu việc xác định cha, mẹ cho con từ nhiều góc độ, nhằm hiểu rõ các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này. 2 4.Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về xác định cha, mẹ, con trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Đặc biệt tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về xác định cha, mẹ cho con và thực tiễn áp dụng. 5.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Với việc đi sâu khai thác những nội dung cụ thể từng vấn đề trong chế định pháp lý về xác định cha, mẹ, con. Khóa luận đã khái quát được những vấn đề cơ bản của pháp luật về vấn đề này. Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập và nghiên cứu của sinh viên Trường đại học Luật Hà Nội cũng như sinh viên khoa Luật các trường đại học khác. 6.Kết cấu khóa luận Cơ cấu của khóa luận được bố cục như sau: - Phần mở đầu. Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về xác định cha, mẹ cho con trong - hệ thống pháp luật Việt Nam. Chương 2: Xác định cha, mẹ cho con theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm - 2000 và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Một sốgiải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật về việc xác định cha, mẹ cho con theo pháp luật hiện hành. Chương 1 3 Những vấn đề lý luận chung về việc xác định cha, mẹ cho con trong hệ thống pháp luật Việt Nam 1.1.Khái niệm xác định cha, mẹ, con Theo từ điển Tiếng Việt “Xác định” nghĩa là“qua nghiên cứu, tìm tòi, biết được rõ ràng, chính xác”, vậy xác định cha, mẹ cho con là việc nghiên cứu, tìm tòi để tìm ra nguồn gốc của một con người một cách rõ ràng và chính xác. Theo từ điển Luật học, xác định cha, mẹ cho con được hiểu là:“định rõ một người là cha hoặc một người là mẹ cho con trên cơ sở các quy định của pháp luật”, ngoài ra còn có khái niệm xác định con cho cha, mẹ là: “định rõ một người là con của cha hoặc mẹ trên cơ sở các quy định của pháp luật”. Tuy vậy, mối quan hệ giữa cha, mẹ và con là mối quan hệ hai chiều và không thể tách rời, xác định cha, mẹ cho con cũng chính là xác định xác định con cho cha, mẹ vì sau khi xác định được ai là cha, mẹ hoặc ai là con cũng sẽ phát sinh những quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con. + Dưới góc độ sinh học- xã hội: Xác định cha, mẹ cho con là việc nghiên cứu, tìm kiếm, nhận diện mối quan hệ huyết thống giữa hai thế hệ kế tiếp nhau thông qua sự kiện sinh đẻ [12.Tr20] + Dưới góc độ pháp lý: Xác định cha, mẹ cho con là một chế định pháp lý bao gồm các quy phạm pháp luật, quy định về căn cứ pháp lý, thủ tục pháp lý xác định cha, mẹ, con, cơ sở để hình thành ở các chủ thể quyền và nghĩa vụ theo luật định. [12.Tr23] Với ý nghĩa là một quan hệ pháp luật: xác định cha, mẹ, con là quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tìm kiếm, nhận diện tư cách cha, mẹ, con về mặt huyết thống của các chủ thể được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. [12.Tr26] 1.2.Ý nghĩa của việc xác định cha, mẹ, con Việc xác định cha, mẹ, con là một vấn đề phức tạp và nhạy cảm song lại rất cần thiết, việc xác định đó không chỉ có ý nghĩa đối với cá nhân từng chủ thể mà còn mang ý nghĩa pháp luật và xã hội sâu sắc. Do đó, việc xác định cha, mẹ, con chứa đựng nhiều ý nghĩa về mặt xã hội và pháp lý: + Ý nghĩa về mặt xã hội: Mối quan hệ giữa cha, mẹ và con là mối quan hệ thiêng liêng. Do đó xác định rõ mối quan hệ cha, mẹ, con có ý nghĩa đặc biệt quan trong đối với đời sống 4 Hôn nhân và Gia đình. Việc xác định cha, mẹ, con sẽ đảm bảo cho trẻ em có một mái ấm gia đình thực sự, được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục một cách tốt nhất, được bảo đảm cả về thể chất lẫn tinh thần giúp trẻ em phát triển toàn diện cả về mặt thể lực và thế lực. Việc xác định cha, mẹ, con một cách chính xác cũng là cơ sở cho việc tuân thủ Hiến pháp “Nhà nước không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con” (Điều 64) vì nó góp phần xóa bỏ những tư tưởng lạc hậu, xóa bỏ sự kỳ thị, phân biệt đối với trẻ em được sinh ra ngoài cuộc hôn nhân, đảm bảo cho mọi đứa trẻ đều bình đẳng với nhau dù đứa trẻ đó ra đời từ cuộc hôn nhân hợp pháp hay không hợp pháp. Đồng thời còn giúp cho việc quản lý dân số và hộ tịch của nhà nước tốt hơn. Việc xác định cha, mẹ, con là cơ sở giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp của cha, mẹ, con cũng như các chủ thể khác có liên quan theo quy định của pháp luật. Mục đích cuối cùng của việc xác định cha, mẹ, con là dung hòa được lợi ích của gia đình và xã hội. + Ý nghĩa về mặt pháp lý: Việc xác định cha, mẹ cho con được quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là phù hợp với công ước quốc tế về quyền trẻ em. Xác định cha, mẹ cho con là một chế định của Luật HN&GĐ năm 2000, phù hợp với quy định của Hiến pháp và BLDS, điều này thể hiện sự thống nhất đồng bộ trong việc xây dựng pháp luật, đặc biệt đã thể hiện được tầm quan trọng của chế định xác định cha, mẹ cho con cả về mặt lý luận và thực tiễn. Khi xác định một người là cha, mẹ, con của nhau thì ngoài tình cảm máu mủ, ruột thịt thì giữa họ cũng hình thành một quan hệ cha, mẹ, con trước pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa giữa họ đã có những quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật. Do đó, chế định xác định cha, mẹ, con còn là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ này như: xác định dân tộc, chia di sản thừa kế, cấp dưỡng... 1.3. Quy định của pháp luật Việt Nam về xác định cha, mẹ, con qua các thời kỳ 1.3.1.Xác định cha, mẹ, con trong pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến Hệ thống pháp luật thời kỳ này phản ánh rõ tư tưởng Nho giáo. Mối quan hệ cha, mẹ và con theo quan niệm đạo đức và pháp lý là tuyệt đối định đoạt và tuyệt 5 đối phục tùng, những đứa con sinh ra từ cuộc hôn nhân phong kiến đương nhiên trở thành thành viên của gia đình và theo phụ hệ. Việc xác định này hầu như là chắc chắn chính xác bởi phong tục tập quán, đạo đức truyền thồng và các nguyên tắc do Luật định. Nếu một người phụ nữ không đoan chính và gây ra hậu quả thì theo phong tục và luật định họ sẽ phải chịu những hình phạt hà khắc. Chính những khuôn giáo khắt khe và những hình phạt nghiêm khắc này mà đương nhiên khi người vợ sinh con ra thì đứa trẻ đó mặc nhiên được thừa nhận là con chung của vợ chồng. Tuy nhiên, người chồng có thể không thừa nhận đứa trẻ đó nếu phát hiện vợ mình không chính chuyên hoặc thông gian với người khác. Để chứng minh, theo phong tục tập quán thì trước sự chứng kiến của các chức sắc trong làng, họ sẽ lấy hai giọt máu của đứa trẻ và người chồng hòa vào một bát nước lã, nếu thấy hai giọt máu không hòa đồng màu sắc thì đứa trẻ đó được coi là con riêng của vợ và người khác, khi đó người chồng không phải có trách nhiệm gì với đứa trẻ và có quyền bỏ vợ, còn người vợ thì bị coi là phạm một trong bảy tội lớn. Như vậy dù với cách hành xử của phong tục tập quán hay các quy định về hình phạt của pháp luật phong kiến đều nhằm hạn chế tình trạng có con ngoài giá thú, giữ vững trật tự gia đình, đảm bảo đứa con do người vợ sinh ra là con chung của vợ chồng. Xã hội phong kiến thực hiện chính sách phân biệt đối xử giữa các con trong gia đình và sự phân biệt sâu sắc nhất chính là giữa con trong giá thú (con chính thức) với con ngoài giá thú (con tư sinh hay con ngoại hôn). Pháp luật chỉ quy định hành vi tự nhìn nhận con của người cha và người mẹ đứa trẻ, còn đứa con không thể nhận cha. Vì thế con tư sinh chỉ được coi là con chính thức khi được sự thừa nhận của người cha. Như vậy, hệ thống pháp luật thời kỳ này không đề cập một cách cụ thể và chi tiết về việc xác định cha, mẹ, con. Mối quan hệ cha, mẹ, con là mối quan hệ tuyệt đối định đoạt và phục tùng. Đây được xem là một điểm hạn chế của pháp luật.Chính sự chi phối của tư tưởng Nho giáo, đề cao quyền gia trưởng và sự cam chịu của người phụ nữ đã tạo nên sự bất bình đẳng sâu sắc tồn tại trong gia đình, quyền lợi của phụ nữ và trẻ em bị lấn át. 1.3.2.Xác định cha, mẹ, con trong pháp luật Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc 6 Trong thời kỳ thực dân pháp xâm lược, thực dân Pháp thực hiện chính sách “chia để trị”, đã chia nước ta thành ba kỳ khác nhau với mỗi kỳ lại ban hành từng bộ dân luật cụ thể: + Ở Bắc kỳ áp dụng những qui định của Bộ Dân Luật Bắc kỳ được ban hành năm 1931; + Ở Trung kỳ áp dụng những qui định của Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật hay còn gọi là Bộ Dân Luật Trung Kỳ; + Ở Nam kỳ áp dụng những quy định của Bộ luật Dân luật Giản Yếu năm 1883. Cả ba bộ dân luật này đều có những quy định cụ thể về hôn nhân và gia đình mà đặc biệt đã có những quy định riêng về việc xác định cha, mẹ, con. Các bộ luật này quy định về vấn đề xác định cha, mẹ, con có những nét tương đồng nhau, trong đó bộ dân Luật Bắc kỳ (DLBK) là bộ luật tiêu biểu. Pháp luật thời kỳ này đều thừa nhận chế độ đa thê, cho phép người chồng có quyền được lấy nhiều vợ, hiện tượng “năm thê, bảy thiếp” được xem là bình thường. Điều 79 BDLBK đã quy định : có hai cách xác định giá thú hợp phép là “giá thú về chính thất và giá thú về thứ nhất”. Đặc biệt là đã có sự phân biệt đối xử giữa “con chình thức” và “con hoang” (theo BDLBK) hoặc phân biệt giữa “con chính thức” và “con ngoại tình” (theo Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật): + “Con chính thức” là con do người mẹ có giá thú chính thức mà sinh ra; + “Con hoang” hay “con ngoại tình” là con không có giá thú chính thức mà sinh ra. Việc xác định cha, mẹ cho con hầu như chỉ được chú trọng về việc xác định cha, mẹ cho con trong giá thú. Tuy nhiên nhà làm luật thời kỳ này chỉ đặt việc xác định cha cho con mà không có việc xác định mẹ cho con vì quan hệ mẹ con là quan hệ đương nhiên được xác định từ sự kiện sinh đẻ. Việc xác định cha cho con, trước hết là căn cứ vào giá thú người mẹ như Điều148, Điều 151 BDLBK. Đứa con chỉ được thừa nhận là “con chính thức” khi người mẹ thụ thai trong thời kỳ giá thú, đó là khoảng thời gian mang thai tối thiểu và tối đa của người phụ nữ kể từ thời điểm thụ thai đến thời điểm sinh con, các nhà làm luật đã đưa ra khái niệm tại Điều 151 BDLBK như sau: “thụ thai trong thời kỳ giá thú, tức là kể từ sau khi đã làm lễ cưới cách ngoại một trăm tám mươi ngày sinh con, hay là kể từ sau khi đã tiêu hôn mà trong khoảng ba trăm ngày sinh con”. Đây được coi là nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha cho con (trong giá thú- còn gọi là con chính 7 thức). Tức là những đứa trẻ chỉ được công nhận là “con chính thức” khi được sinh ra sau 180 ngày kể từ ngày có hôn thú hoặc là trong vòng 300 ngày sau khi hôn thú đoạn tiêu. Do vậy, nếu đứa trẻ đó sinh ra khi chưa đủ 180 ngày kể từ ngày bố mẹ lập hôn thú thì người cha có quyền khởi kiện không nhận con theo Điều 153 BDLBK. Tuy nhiên cũng theo Điều 152 BDLBK thì người chồng đương nhiên phải nhận con sinh ra trước khi lập hôn thú 189 ngày là “con chính thức” khi: “1. Trước khi lập giá thú đã biết người đàn bà ấy có thai; 2. Đã chứng kiến việc khai sinh và ký vào chứng thư khai sinh, hay là trong chứng thư ấy đã biên lời khái rằng không biết ký tên”. Việc phân biệt đối xử giữa các loại con trong gia đình được thừa nhận, đặc biệt đối với con ngoài giá thú: “nếu là con loạn luân hay con ngoại tình của người me thì hộ lại không được đăng ký sự khai nhận đứa con hoang ấy. Nếu hộ đã trót khai nhận thì coi như không và vô hiệu” (Điều 168BDLBK). Con ngoài giá thú không được hưởng các quyền lợi như con trong giá thú cả về quyền nhân thân và quyền tài sản, chúng không có quyền mang họ của cha đẻ và đương nhiên không có quyền thừa kế tài sản của người cha đó và ngay cả quyền xin xác nhận một người là cha đẻ của mình mà pháp luật cũng không cho phép “con ngoài giá thú không được xin truy nhận cha, mẹ của mình trước tòa án”. Tuy nhiên, pháp luật thời kỳ này có sự tiến bộ khi quy định các trường hợp thừa nhận “con hoang” thành “con chính thức” tại các Điều 169 và Điều 170 BDLBK.Trong BDLBK cũng quy định một số trường hợp có thể xác định một người nào đó là cha đứa con hoang. Như vậy có thể thấy rằng, vấn đề xác định cha, mẹ, con đã được quy định khá cụ thể, chi tiết trong chế định riêng với nội dung tương đối đầy đủ và hoàn thiện hơn so với pháp luật thời kỳ trước đã phần nào làm căn cứ cho việc xác định cha, mẹ, con trên thực tế trong thời kỳ này. 1.3.3. Xác định cha, mẹ, con trong pháp luật Việt Nam thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay * Giai đoạn 1945-1954 Trong giai đoạn nàyđối với việc xác định cha mẹ cho con pháp luật không có quy định một cách rõ ràng và cụ thể. Tuy nhiên, Đảng và nhà nước ta đã chủ trương tiến hành phong trào vận động nhân dân tự nguyện xóa bỏ những hủ tục phong kiến lạc hậu trong đời sống hôn nhân và gia đình. Theo Sắc lệnh số 90/SL ngày 8 10/10/1945 của Chủ tịch nước thì vẫn tạm thời cho phép áp dụng những quy định cũ nhưng phải có sự chọn lọc theo nguyên tắc không trái với lợi ích của nhân dân, của chính thể nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Như vậy, về cơ bản thì các quy định trong ba bộ dân luật thời Pháp thuộc vẫn được áp dụng trong giai đoạn này và đương nhiên cũng sẽ được áp dụng đối với nguyên tắc xác định cha, mẹ, con. Năm 1946 Hiến pháp đầu tiên của nước ta ra đời đã quy định những vấn đề cơ bản của xã hội cũng như các vấn đề liên quan đến hôn nhân và gia đình. Trong Điều 9 Hiến pháp đã quy định về quyền bình đẳng giữa nam và nữ về mọi mặt, đây là cơ sở pháp lý để đấu tranh xóa bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, xây dựng một chế độ hôn nhân và gia đình dân chủ và tiến bộ. Ngày 22/05/1950, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 97/SL nhằm sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật, sắc lệnh này bao gồm 15 điều, trong đó có 8 điều để điều chỉnh quan hệ Hôn nhân và gia đình. Việc xác định cha, mẹ cho con không được quy định thống nhất thành một chế định riêng mà nó được quy định rải rác trong sắc lệnh. So với thời kỳ trước, Sắc lệnh có đưa ra những quy định tiến bộ hơn, chẳng hạn tại Điều 3 Sắc lệnh số 97/SL đã quy định thời gian tái giá của của người vợ khi chồng chết nhằm tránh sự lẫn lộn về con cái: “trong thời kỳ tang chế vẫn có thể lấy vợ lấy chồng được. Song người vợ góa chỉ có thể lấy chồng sau 10 tháng kể từ ngày chồng chết. Nhưng trong thời hạn ấy người vợ góa cũng có thể tái giá nếu chứng minh được rằng mình không có thai hoặc đã có thai với người chồng trước để tránh sự lẫn lộn về con cái”. Đối với những người ly hôn, Sắc lệnh đã dự liệu: “người đàn bà ly dị có thể lấy chồng khác ngay sau khi có án tuyên ly dị nếu dẫn chứng được rằng mình không có thai hoặc đang có thai” [34.Điều 4]. Những quy định đó nhằm xác định chính xác cha của đứa trẻ đó sau này và thời kỳ thai nghén tối đa của người phụ nữ theo tinh thần của sắc lệnh này là 10 tháng (300 ngày) kể từ ngày thụ thai đứa trẻ đó. Trong thời kỳ này người vợ có thể bị hạn chế quyền tái giá nhằm tránh sự lẫn lộn về con cái giữa người chống trước và người chồng sau. Việc phân biệt con hoang, con loạn luân hay con ngoại tình không được đặt ra trong sắc lệnh này và đặt biệt lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật của Việt Nam, nhà làm luật đã quy định:“người con hoang vô thừa nhận được phép thưa trước tòa án để truy nhận cha hoặc mẹ cho mình” [34.Điều 9]. Có thể thấy đây là một điểm vô cùng tiến bộ của pháp luật thời kỳ này. 9 * Giai đoạn 1954-1975 Năm 1959, bản Hiến pháp thứ hai của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã ghi nhận những nguyên tắc cơ bản quan trọng của Luật Hôn nhân gia đình như quyền bình đẳng nam nữ về mọi mặt, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em...tạo nền tảng cho việc xây dựng chế độ hôn nhân gia đình mới. Luật HN&GĐ năm 1959 đã được Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 11 chính thức thông qua ngày 29/12/1959, với sáu chương, trong đó quan hệ cha, mẹ và con được quy định tại chương VI. Các quy định này tuy chưa đầy đủ nhưng cũng có sự tiến bộ đáng kể về cách nhìn nhận các loại con. Luật HN&GĐ năm 1959 quy định quyền xin nhận cha, mẹ, con ngoài giá thú trước Ủy ban hành chính cơ sở (Điều 21) hoặc kiện trước Tòa án (Điều 22). Cũng như theo quy định tại Điều 21 Luật HN&GĐ năm 1959 các chủ thể có quyền khởi kiện xác định cha, mẹ, con ngoài giá thú bao gồm: người con ngoài giá thú đã thành niên, người mẹ của người con ngoài giá thú, người thay mặt cho đứa trẻ ngoài giá thú chưa thành niên. Việc con ngoài giá thú được cha, mẹ nhận hoặc được Tòa án nhân dân cho nhận cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ như con chính thức (Điều 23). Các quy định trên đã phần nào bảo vệ quyền lợi của con ngoài giá thú, xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các con. Điểm hạn chế của pháp luật thời kỳ này là không quy định nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ, con. Khi giải quyết các vụ án kiện Tòa án đã thiếu đi cơ sở pháp lý để áp dụng luật. Điều này dẫn đến việc giải quyết các tranh chấp về xác định cha, mẹ, con thường dựa vào tình cảm, ý chí chủ quan của Thẩm phán khi xét xử, khó tránh được sự tùy tiện, không thống nhất giữa các cấp Tòa án...[5.Tr11]. Ở miền Nam: Thời kỳ này, việc xác định cha, mẹ, con chủ yếu được quy định trong các văn bản pháp luật: Luật gia đình năm 1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm (thiên thứ ba, gồm hai chương); Sắc lệnh số 15/64 năm 1964 quy định về giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng (Chương thứ ba, gồm hai tiết); Bộ Dân luật Sài Gòn năm 1972 của chính quyền Việt Nam cộng hòa (Thiên thứ sáu, gồm ba chương). Các văn bản đã quy định một số điều cơ bản về việc xác định cha, mẹ, con có nét tương đồng so với các Bộ Dân luật thời kỳ Pháp như quy định về việc xác định con chính thức (con trong giá thú): là người con được thành thai trong thời kỳ hôn thú (Điều 100 sắc lệnh số 15/64) đồng thời Điều 207 Bộ Dân luật Sài Gòn quy định: 10 “đứa trẻ thụ thai trong thời kì hôn thú là con của chồng người mẹ”. Và điều luật này cũng quy định thời kỳ thụ thai của một đứa trẻ trong thời kỳ hôn thú: “được coi là thụ thai trong thời kỳ hôn thú đứa trẻ nào sinh đủ một trăm tám chục ngày sau khi hôn thú thành lập hay không quá ba trăm ngày sau khi hôn thú đoạn tiêu”. Do trong thời kỳ này quan hệ mẹ con đương nhiên được thừa nhận thông qua sự kiện sinh đẻ, việc xác định cha, mẹ, con chỉ nhằm xác định cha cho đứa trẻ thông qua nguyên tắc suy đoán rằng nếu người mẹ có chồng chính thức thì khi sinh con, đứa con đó mặc nhiên là con của người chồng, dựa vào thời kỳ thụ thai đã được quy định trong luật, đó là khoảng thời gian mang thai tối thiểu và tối đa là 180 ngày và 300 ngày. Cả ba văn bản pháp luật này đều dự liệu dựa theo BLDS Cộng hòa Pháp, trên cơ sở y học để quy định về thời kỳ thụ thai và nếu đứa trẻ được thụ thai trong thời kỳ đó thì được coi là con của người chồng, đây có thể được coi là nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ cho con (con trong giá thú). Vậy nếu đứa trẻ sinh ra khi chưa đủ 180 ngày sau khi lập hôn thú thì có được coi là con chính thức hay không? Điều 208 Bộ luật Sài Gòn đã quy định các trường hợp đứa trẻ đó được coi là con chính thức khi: “đứa trẻ sinh ra chưa đủ 180 ngày sau khi kết hôn cũng được coi là con của người chồng, trừ khi bị người này khước từ. Sự khước từ đương nhiên được chấp nhận ngoại trừ trường hợp người chồng: + Trước khi kết hôn biết rằng người đàn bà đã thụ thai + Có mặt khi lập giấy khai sinh cho đứa trẻ hay đã tự mình đứng khai sinh cho đứa trẻ”. Nhưng nếu có sự khước từ của người chồng thì cũng phải có chứng cứ chứng minh rằng trong thời gian từ 180 ngày đến 300 ngày trước khi sinh, vợ chồng không thể gần gũi nhau vì xa cách hoặc vì tai nạn rủi ro làm cho người chồng bất lực hoặc nếu sự sinh đẻ lại giấu diếm và có sự kiện chứng minh người chồng không thể là cha của đứa trẻ [20.Điều 209] Đối với những đứa trẻ sinh quá 300 ngày sau khi hôn thú đoạn tiêu, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 1972 đứa trẻ được sinh ra sau 300 ngày kể từ ngày hôn thú của cha, mẹ đoạn tiêu thì không được coi là con chính thức. Ngoài ra, pháp luật thời kỳ này đã có điểm tiến bộ trước khi quy định về việc chính thức hóa con ngoại hôn, thừa nhận con ngoại hôn, truy tìm phụ hệ ngoại hôn... 11 Tương tự như pháp luật thời kỳ trước, con ngoại hôn được phép thừa nhận và việc thừa nhận này chỉ phụ thuộc vào ý chí của người thừa nhận, tuy nhiên đối với con loạn luân hay con ngoại tình thì không được phép khai nhận (Điều 99 và Điều 102 Luật gia đình năm 1959). Đồng thời các nhà làm luật cũng đưa ra thế nào là con ngoại tình hay con loạn luân trong Bộ Dân luật Sài Gòn: + Con loạn luân là con của một người đàn ông và một người đàn bà có họ hàng vào trường hợp cấm kết hôn; + Con ngoại tình là con của một người đàn ông đã có vợ với một người đàn bà đã có chồng hoặc một trong hai bên đã có vợ, có chồng. Về truy tìm phụ hệ tư sinh, theo Điều 107 Luật gia đình năm 1959, Điều số 24 SL số 15/64 và Điều 229 Bộ Dân luật Sài Gòn thì phụ hệ tư sinh có thể do Tòa án công nhận tuyên bố một trong năm trường hợp: + Khi người đàn bà bị bắt đem đi hay bị hãm hiếp mà sự thụ thai lại đúng vào thời kỳ bị bắt hay bị hãm hiếp; + Khi người đàn bà bị người ta dùng mưu chước lừa gạt, lạm dụng quyền uy hay hứa kết hôn hay đính hôn; + Khi người đàn ông bị hồ nghi là cha và người mẹ đã sống công khai trong tình trạng ngoại hôn, trong thời kỳ thụ thai; + Khi có thư từ, giấy má của người đàn ông bị hồ nghi là cha biểu lộ một sự thú nhận rõ ràng người ấy là cha đứa trẻ; + Khi người bị hồ nghi là cha đã cấp dưỡng, dạy dỗ đứa trẻ với tư cách là cha. Về vấn đề chính thức hóa con ngoại hôn thì điều kiện để con ngoại hôn được chính thức hóa chính là hôn thú hợp pháp của cha mẹ. Việc chính thức hóa con ngoại hôn sẽ là đương nhiên nếu các con ngoại hôn đã được cha mẹ khai nhận khi cha mẹ làm giá thú [20.Khoản 1 Điều 243] còn đối với trường hợp các con ngoại hôn chưa được cha mẹ khai nhận cũng có thể được chính thức hóa nếu đồng thời khi lập giá thú, cha mẹ khai nhận con ngoại hôn là con mình. Đối với trường hợp con ngoại hôn được khai nhận sau khi cha mẹ lập giá thú: “con ngoại hôn được thừa nhận sau khi cha, mẹ kết hôn với nhau chỉ được chính thức hóa bởi một bản án công khai xác nhận đứa trẻ có thân trạng con chung của hai người từ ngày lập hôn thú và tuyên nhận sự chính thức hóa”. [20.Điều 244]. Pháp luật thời kỳ này tiến bộ hơn khi quy định về việc bồi thường cho người mẹ và 12 cấp dưỡng cho con tư sinh khi đã được Tòa án ra bản án công nhận tại các Điều 234, 235 Bộ Dân luật Sài Gòn. Như vậy, qua các phân tích trên có thể thấy quy định của pháp luật về việc xác định cha, mẹ cho con thời kỳ này còn tản mản và vẫn còn thể hiện sự bất bình đẳng giữa các con, đề cao sự gia trưởng của người cha. Tuy nhiên so với pháp luật thời kỳ trước đã có nhiều tiến bộ hơn trong việc chính thức hóa và thừa nhận con ngoại hôn... *Giai đoạn từ năm 1975 đến nay Thời kỳ này, bản Hiến pháp thứ ba của nước ta đã ra đời, làm nền tảng cho bước phát triển mới của Luật HN&GĐ.Luật HN&GĐ năm 1986 đã được Quốc hội khóa VII kỳ họp thứ 12 thông qua ngày 29/12/1987 và được hội đồng nhà nước công bố ngày 3/1/1987. Luật HN&GĐ năm 1986 đã dành hẳn chương V với sáu điều luật quy định về việc xác định cha, mẹ, con. Đây là một bước tiến mới thể hiện sự hoàn thiện của Luật hôn nhân và gia đình. Đặc biệt Điều 28 Luật HN&GĐ năm 1986 đã quy định: “con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng. Trong trường hợp có yêu cầu xác định lại vấn đề này thì phải có chứng cứ khác”. “chứng cứ khác” được giải thích tại Mục 5 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/1/1988 đó là: người vợ công nhận là mình có thai với người khác từ trước khi kết hôn; người chồng chứng minh rằng mình đã đi công tác xa trong thời gian mà người vợ có thể có thai đứa trẻ... Ngoài ra tại Điều 31 Luật HN&GĐ năm 1986 đã quy định quyền xin nhận cha, mẹ của con ngoài giá thú ngay cả khi cha, mẹ đã chết. Về hậu quả pháp lý của việc xác định cha, mẹ, con ngoài giá thú, Luật đã quy định: “con ngoài giá thú được cha, mẹ nhận hoặc được Tòa án nhân dân cho nhận cha, mẹ có mọi quyền và nghĩa vụ như con trong giá thú” [21.Điều 31], quy định này nhằm xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các con. Tóm lại, trong giai đoạn này pháp luật đã quy định khá đầy đủ về vấn đề xác định cha, mẹ, con phù hợp với thời kỳ đổi mới của đất nước.Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới của đất nước Luật HN&GĐ năm 1986 còn nhiều điểm hạn chế cần phải sửa đổi.Căn cứ trên những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp năm 1992 và BLDS năm 1995, Luật HN&GĐ năm 2000 được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 9/6/2000 và có hiệu lực thi hành ngày 1/1/2001. Luật gồm 13 chương, 110 điều, trong đó vấn đề xác định cha, mẹ, con được quy định ở một chương riêng đó 13 là chương VII, từ Điều 63 đến Điều 66. Về cơ bản, việc xác định cha, mẹ cho con vẫn dựa trên những quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 như các quy định về nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ, con trong giá thú, quyền nhận cha, mẹ, con...Luật HN&GĐ đã thể hiện được điểm mới tại Điều 63 quy định về việc xác định cha, mẹ, con được sinh ra theo phương pháp khoa học, hay tại Điều 66 đã quy định về quyền yêu cầu xác định cha mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự. Như vậy trong hệ thống pháp luật của nhà nước ta từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, vấn đề xác định cha, mẹ, con được quan tâm đáng kể. Những quy định của pháp luật trong việc xác định cha, mẹ cho con luôn có sự phát triển, thể hiện xu thế ngày càng hoàn thiện hơn nhằm đảm bảo giải quyết tốt mối quan hệ trong việc xác định cha, mẹ, con. 14 Chương 2 Xác định cha, mẹ cho con theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và thực tiễn áp dụng 2.1. Các trường hợp xác định cha, mẹ cho con 2.1.1. Xác định cha, mẹ cho con trong giá thú Thuật ngữ con trong giá thú được đề cập đến trong Luật HN&GĐ năm 2000. Tuy nhiên như thế nào là con trong giá thú thì luật này không có giải thích cụ thể.Theo từ điển Tiếng Việt thì “con trong giá thú” là con của cha mẹ có hôn nhân hợp pháp, cha mẹ đã đăng ký kết hôn và tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn mà Luật HN&GĐ năm 2000 quy định. Tuy nhiên, có trường hợp hai bên nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng được nhà nước thừa nhận. Bởi vậy, con của họ cũng là con của một cặp vợ chồng cho nên phải được xác định là con trong giá thú.Vì vậy, có thể hiểu con trong giá thú là con của cặp vợ chồng có quan hệ hôn nhân được Nhà nước thừa nhận. *Cơ sở pháp lý xác định cha, mẹ, con: Luật HN&GĐ năm 2000 đã đưa ra nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ có hôn nhân hợp pháp tại điều 63 như sau: “1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng. 2.Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định Việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra theo phương pháp khoa học do Chính phủ quy định” Đồng thời theo hướng dẫn tại mục 5 Nghị quyết 02/2000/NQ-HDTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ thì trong các trường hợp sau đây phải được coi là con chung của vợ chồng: -Con sinh ra sau khi đã tổ chức đăng ký kết hôn cho đến trước khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc của cả hai vợ chồng; 15 -Con sinh ra sau khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng, nhưng người vợ đã có thai trong thời kỳ hôn nhân (trong thời kỳ từ khi đã tổ chức đăng ký kết hôn cho đến trước khi chấm dứt quan hệ hôn nhân). -Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn (ngày tổ chức đăng ký kết hôn) nhưng được cả hai vợ chồng thừa nhận. Tại Điều 21 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 đã xác định con chung của vợ chồng: “1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 63 của Luật hôn nhân và gia đình được xác định là con chung của vợ chồng. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cùng là con chung của vợ chồng. 2.Con sinh ra trong vòng 300 ngày, kể từ ngày người chồng chết hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án xử cho vợ chồng ly hôn có hiệu lực pháp luật, thì được xác định là con chung của hai người”. Theo quy định trên thì căn cứ suy đoán mối quan hệ cha, mẹ, con trong giá thú bao gồm: + Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân: “thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân” [30.Khoản7, Điều8]. Theo thủ tục đăng ký kết hôn, ngày đăng ký kết hôn sẽ được tính từ ngày hai bên nam nữ ký vào giấy chứng nhận kết hôn và được cán bộ tư pháp hộ tịch ghi vào sổ đăng ký kết hôn và giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Ngày này cũng chính là ngày tổ chức đăng ký kết hôn và cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cho hai bên nam nữ để họ có thể trở thành vợ chồng [9.Tr57]. Hôn nhân sẽ chấm dứt khi một trong hai bên vợ hoặc chồng bị chết, bị tuyên bố là đã chết hoặc hai bên được Tòa án cho phép ly hôn bằng bản án hay quyết định thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật. Nếu người vợ sinh con trong thời kỳ hôn nhân này, về nguyên tắc con đó được xác định là con chung của vợ chồng. Tuy nhiên, việc xác định thời kỳ hôn nhân trong một số trường hợp còn gặp nhiều vướng mắc. Chẳng hạn, theo Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn đối với những trường 16 hợp kết hôn trái pháp luật mà không máy móc xử hủy, thì thời điểm bắt đầu của thời kỳ hôn nhân được tính từ thời điểm nào? Có quan điểm cho rằng thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân được tính từ ngày đăng ký kết hôn.Theo chúng tôi, lấy thời điểm này là chưa phù hợp. Bởi tại thời điểm đó họ đang vi phạm điều kiện kết hôn. Vì vậy, đối với trường hợp này thời kỳ hôn nhân được xác định bắt đầu từ thời điểm hai bên không còn vi phạm điều kiện kết hôn nữa là hợp lý. Điều này sẽ đảm bảo việc xác định cha, mẹ, con khi đứa trẻ sinh ra trong điều kiện hợp lệ sẽ được xác định là con trong giá thú của cha, mẹ. Ngoài ra đối với trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng thuộc các trường hợp quy định trong Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 của Quốc hội khóa VII về việc thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 và Thông tư tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-BTP của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn Nghị quyết số 35 về việc thi hành Luật HN&GĐ thì thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng được tính từ ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng (ngày họ tổ chức lễ cưới, ngày họ về ở với nhau được tổ chức chứng kiến...) chứ không phải là ngày họ đăng ký kết hôn. Do vậy, khi họ đăng ký kết hôn, thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân sẽ được xác định từ ngày họ bắt đầu chung sống trong quan hệ vợ chồng (được ghi rõ trong giấy chứng nhận kết hôn. [13.tr84]. + Căn cứ dựa trên cơ sở thụ thai và sự kiện sinh đẻ của người mẹ đứa trẻ: “Có thai” là đang mang thai trong bụng, thụ thai là bắt đầu có thai. [12.Tr85]. Được coi là con sinh ra do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân nếu “con sinh ra trong vòng 300 ngày kể từ ngày chồng chết hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án xử cho vợ chồng ly hôn có hiệu lực pháp luật” [21.Điều 23]. Theo đó, những đứa trẻ được sinh ra trong vòng 300 ngày kể từ khi hôn nhân chấm dứt trước pháp luật, đứa trẻ mặc nhiên được xác định là con do người vợ có thai với người chồng khi người chồng còn sống hoặc khi vợ chồng chưa ly hôn. Như vậy, việc mở rộng căn cứ suy đoán pháp lý này có ý nghĩa sâu sắc với việc xác định cha, mẹ, con, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người liên quan. Đặc biệt là quyền lợi chính đáng của người phụ nữ và trẻ em. + Căn cứ vào sự thừa nhận của cha, mẹ: 17 Đây được xem là căn cứ đặc biệt vì chỉ áp dụng với trường hợp con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn. Điều kiện để xác định đứa trẻ là con trong giá thú của vợ chồng là dựa vào việc đăng ký kết hôn của cha, mẹ đứa trẻ và sự thừa nhận đứa trẻ đó là con chung của vợ chồng. Điều 63 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định “trong trường hợp cha, mẹ không nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định”. Thực tế cho thấy, khi người vợ sinh con, người chồng đã làm giấy khai sinh cho đứa trẻ, lấy họ tên mình là họ tên cha của đứa trẻ. Thậm chí, đứa trẻ đó về mặt sinh học không phải con của người chồng nhưng về nguyên tắc trước tiên người chồng vẫn được xác định là cha của đứa trẻ, sự im lặng của người chồng chính là sự mặc nhiên mối quan hệ cha con. Pháp luật không can thiệp sâu vào mối quan hệ này. Nếu người chồng thấy nghi ngờ người vợ đã ngoại tình với người khác; sau khi người vợ sinh con mà không “thừa nhận” đứa trẻ đó là con của mình thì phải có nghĩa vụ chứng minh. Việc chứng minh của người chồng dựa trên sự thừa nhận của người vợ là đã “có thai” với người khác từ trước khi kết hôn hoặc người chồng mắc bệnh vô sinh, bị bất lực hoàn toàn về sinh lý, không thể có khả năng có con; người chồng thực sự đi “ công tác xa vắng”, không thể có “quan hệ vợ chồng” ở vào thời kỳ người vợ có thể thụ thai đứa con đó... Nếu người chồng chỉ vì nghi ngờ, không chứng minh được thì Tòa án buộc họ phải nhận con do người vợ sinh ra là con chung của vợ chồng. Chúng tôi cho rằng, đối với các trường hợp này, trước khi kết luận giải quyết vụ việc, Tòa án cần phải điều tra cẩn trọng và đánh giá chính xác. Ngoài ra trên thực tế có nhiều trường hợp vô ý hoặc cố ý dẫn đến việc nhiều đứa trẻ bị đánh tráo hoặc có sự nhầm lẫn... Trong trường hợp này nếu người cha, người mẹ không thừa nhận là con của mình, thì họ cũng phải cung cấp chứng cứ để chứng minh.Tuy nhiên, hiện nay trong các văn bản pháp luật có liên quan không có một hướng dẫn cụ thể nào về vấn đề này.Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của các chủ thể. Vì vậy, theo chúng tôi, pháp luật cần đưa ra hướng dẫn về hệ thống chứng cứ chứng minh mà đương sự cần thiết phải đưa ra để chứng minh mối liên hệ cha, mẹ, con trong đó chứng cứ khoa học có khả năng chứng minh cao là kết luận giám định ADN. *Một số trường hợp xác định là con chung của vợ chồng theo nguyên tắc suy đoán pháp lý 18 + Trường hợp thứ nhất, con do người vợ sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận.Khi đứa trẻ được sinh ra vì người mẹ không đang tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp, do đó, đứa trẻ là con ngoài giá thú. Nhưng khi cha mẹ kết hôn thì đứa trẻ sẽ trở thành con chung của vợ chồng. Tuy nhiên, không mang tính chất đương nhiên như các trường hợp khác, mà phải có điều kiện được cha mẹ thừa nhận.Ở đây, pháp luật quy định là “được cha mẹ thừa nhận” có nghĩa là, cả cha và mẹ đều phải thừa nhận đứa trẻ đó là con của mình. Đó là điều kiện để xác định đứa con đó là con chung của vợ chồng và là con trong giá thú. + Trường hợp thứ hai, con do người vợ thụ thai trước ngày đăng ký kết hôn và sinh ra trong thời kỳ hôn nhân. Đây là trường hợp thực tế và diễn ra khá phổ biến trong quan hệ hôn nhân hiện nay. Đứa con đó cũng được coi là con chung của vợ chồng. Luật HN&GĐ không quy định về thời gian mang thai tối thiểu sau khi kết hôn mà chỉ quy định đứa con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng, vậy nên người mẹ sinh ra ở bất kỳ thời điểm nào sau khi kết hôn đều được thừa nhận là con chung của vợ chồng. Quy định này phù hợp với tình hình xã hội hiện nay nhằm bảo vệ quyền lợi cho bà mẹ và trẻ em, khi mà thực trạng vấn đề hôn nhân và gia đình ngày nay, nam nữ được tự do yêu đương và tìm hiểu nhau trước khi đăng ký kết hôn. + Trường hợp thứ ba, con do người vợ thụ thai và sinh ra trong thời kỳ hôn nhân ..Đây là trường hợp đương nhiên, phù hơp với thực tế về hôn nhân và gia đình. + Trường hợp thứ tư, con do người vợ thụ thai trong thời kỳ hôn nhân và sinh ra sau khi hôn nhân chấm dứt trong thời hạn luật định tối đa là 300 ngày: được coi là con của người chồng trong quan hệ hôn nhân trước khi đứa trẻ được sinh ra. Theo nghiên cứu khoa học và cả kinh nghiệm dân gian, thời gian mang thai tối đa của người phụ nữ khoảng 300 ngày, điều này phù hợp với thai gian mang thai tối đa quy định tại Điều 21 Nghị định 70/2001/NĐ-CP của chính phủ quy định chi tiết Luật HN&GĐ năm 2000: “con sinh ra trong vòng 300 ngày, kể từ ngày người chống chết hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án xử cho vợ chồng ly hôn có hiệu lực pháp luật, thì được xác định là con chung của hai người”. Trên cơ sở thời gian mang thai tối đa này, Luật HN&GĐ năm 2000 đã dự liệu trường hợp đứa trẻ được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ ngày hôn nhân chấm dứt vẫn được coi là con 19 chung của vợ chồng, nghĩa là không loại trừ trường hợp đứa trẻ được thụ thai vào đúng ngày hôn nhân chấm dứt. + Trường hợp thứ năm, con do người vợ thụ thai trước thời kỳ hôn nhân và sinh ra sau khi hôn nhân chấm dứt trong một khoảng thời gian luật định: cũng được coi là con chung của vợ chồng. Đây là một trường hợp đặc biệt của nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ, con. Điều 63 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “ con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng” nên có thể hiểu là người vợ chỉ cần có thai trong thời kỳ hôn nhân (thời điểm thụ thai có thể trước và trong thời kỳ hôn nhân) và sau đó sinh con sau khi hôn nhân chấm dứt cũng có thể xác định đây là con chung của vợ chồng, không loại trừ trường hợp người vợ thụ thai vào cuối cùng của của cuộc hôn nhân nên thời gian tối đa là 300 ngày sau khi hôn nhân chấm dứt, nếu người vợ sinh con trong khoảng thời gian này thì đứa con vẫn được xác định là con của người chồng trong quan hệ hôn nhân đó. Như vậy, nguyên tắc suy đoán pháp lý đã được Luật HN&GĐ năm 2000 quy định có vai trò rất quan trọng nhằm xác định cha, mẹ cho con trong giá thú một cách chính xác và rõ ràng nhất. Điều đó đã góp phần vào việc ổn định các mối quan hệ gia đình, bảo vệ quyền lợi cho các thành viên trong gia đình, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. *Thực tiễn xác định cha, mẹ, con trong giá thú Thực tiễn xác định cha, mẹ, con trong giá thú xảy ra không nhiều. Tuy nhiên, trên thực tế đã xảy ra một số trường hợp đặc biệt, gây khó khăn và lúng túng cho UBND khi tiến hành giải quyết các vụ việc này. Chẳng hạn như trường hợp em gái chưa kết hôn đã dùng tên chị gái để sinh con, làm giấy khai sinh cho cho con theo tên trong giấy chứng sinh (tên của chị gái). Do đó, họ tên cha cũng không chính xác. Sau này, khi cha, mẹ thực của đứa trẻ kết hôn và tự nguyện nhận con. Họ giả mạo giấy tờ để khai sinh cho con, vậy trường hợp này đã có dấu hiệu vi phạm pháp luật về đăng ký hộ tịch. Vì vậy, theo quan điểm của chúng tôi, nên quy định cụ thể về thẩm quyền xác định cha, mẹ, con đối với những trường hợp này để có cơ sở giải quyết. Còn đối với những trường hợp như: nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng, sau khi người phụ nữ sinh con, hai bên nam nữ mới tiến hành đăng ký kết hôn và người chồng thừa nhận con; trong thời kỳ hôn nhân, người vợ đã ngoại tình và có con với người đàn ông khác, nhưng người chồng vẫn làm giấy khai sinh cho đứa
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan