Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Web 2.0 với hoạt động của thư viện trường đại học fpt...

Tài liệu Web 2.0 với hoạt động của thư viện trường đại học fpt

.PDF
70
202
72

Mô tả:

Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bước sang thế kỉ 21, cả thế giới đang chuyển mình cùng sự phát triển của công nghệ. Trong tình hình đó, doanh nghiệp hay cá nhân muốn phát triển thì phải đi theo những hướng đi của thời đại như ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông; tích hợp, liên kết thông tin đa phương tiện; hợp tác cùng phát triển; tiêu chuẩn hóa việc phổ biến tri thức…. Và Web 2.0 được xem là một cuộc cách mạng trên thế giới mạng, đây là thế hệ web mới có những thay đổi quan trọng không chỉ ở nền tảng công nghệ mà còn cả ở cách thức sử dụng - hình thành nên môi trường cộng đồng, ở đó mọi người cùng tham gia đóng góp cho xã hội "ảo" chứ không chỉ "duyệt và xem". Người dùng giờ đây được tiếp xúc với nhiều dịch vụ trực tuyến cho phép họ tạo ra, thu thập, phân nhóm, thanh lọc, truyền bá, và xuất bản nguồn lực thông tin trên Internet tại chỗ và toàn cầu. Việc ứng dụng Web 2.0 chính là giải pháp cho hướng phát triển của toàn cầu hiện nay. Thư viện đang tự chuyển mình cùng với sự phát triển của công nghệ bằng cách áp dùng những khía cạch tích cực của công nghệ vào trong các dịch vụ của mình. Với sự lớn mạnh của Internet, các thư viện đang cố gắng để nâng cao dịch vụ tra cứu của mình tới mức độ “mọi lúc mọi nơi”. Công nghệ Web 2.0 cung cấp cho dịch vụ thư viện những giá trị gia tăng và giúp thư viện chứng minh nguyên lý của Ranganathan1 rằng “thư viện là một thực thể hữu cơ đang phát triển” vẫn luôn luôn đúng. Tác động tích cực của công nghệ Web 2.0 đem lại lợi ích đồng thời cho cả thư viện và bạn đọc. 1 Ranganathan: nhà thư viện học người Ấn Độ Lê Thị Diệp 1 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT Đối với thư viện, công nghệ mới , nếu biết sử dụng khôn ngoan, sẽ luôn nâng cao chất lượng dịch vụ và đạt được mục tiêu cung cấp những dịch vụ tốt nhất cho cộng đồng. Ở môi trường Web 1.0, nơi thiếu điều kiện để người dùng tham gia, sự gia tăng nội dung trí tuệ không nhiều. Điều này đã khiến thư viện cung cấp những dịch vụ đáp ứng được nhu cầu của bạn đọc không đạt hiệu quả cao. Với sự phát triển của công nghệ Web 2.0 các dịch vụ thư viện hiện có giờ đây có thể được nâng cao tới mức độ bạn đọc có thể cùng tham gia. Sự tham gia của người dùng đã gián tiếp cho phép thư viện mở rộng thêm tri thức mới bằng cách bổ sung thông tin hữu ích từ những bạn đọc khác nhau. Kết quả là nội dung được dần dần làm giàu một cách tự nhiên và phần quan trọng nhất được những bạn đọc khác trong cộng đồng coi trọng. Hơn nữa sự tham gia cũng sẽ tạo ra bầu không khí khiến bạn đọc cảm thấy rằng họ đã đóng góp cho thư viện và cộng đồng, từ đó tạo nên tinh thần làm chủ. Họ sẽ cảm thấy được tôn trọng và vinh danh bởi đóng góp của họ được coi trọng. Điều này sẽ gián tiếp nâng cao sự hài lòng của bạn đọc.Hòa theo những xu thế đương đại, thư viện cũng có thể hòa nhập với lối sống của giới trẻ hôm nay, giúp thư viện linh hoạt và dễ được cộng đồng chấp nhận. Điều này gián tiếp tạo dựng một hình ảnh tích cực về dịch vụ thư viện tốt không chỉ đối với bạn đọc mà đối với cả cơ quan chủ quản. Các ứng dụng Web 2.0 có triển vọng làm thay đổi cách thức cung cấp các dịch vụ thư viện và nguồn lực thông tin hiện tại và tương lai. Trên thế giới việc áp dụng Web 2.0 nhằm nâng cao, cải tiến và bổ sung cho dịch vụ tra cứu ở các thư viện đại học lớn trên thế giới không còn là vấn đề mới. Kể từ khi xuất hiện, Web 2.0 đã làm thay đổi phương thức hoạt động và đặt ra nhiều thách thức cho các thư viện và hiệp hội thư viện các trường Đại học. Với sự hòa nhập cùng sự phát triển của thế giới, Thư viện các trường Đại học ở Việt Nam không nằm trong ngoại lệ. Sự gia nhập Tổ Lê Thị Diệp 2 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT chức thương mại thế giới (WTO) đã tạo nên cho Việt Nam nhiều cơ hội nhưng cũng nhiều thách thức trong tất cả các ngành. Trong thực tế, nhiều năm qua ngành Thông tin – Thư viện của Việt Nam nói chung, hệ thống Thư viện các trường Đại học nói riêng đang từng bước tìm hiểu và áp dụng những công nghệ mới để nâng cao hiệu quả hoạt động. Việc ứng dụng Web 2.0 vào hoạt động thư viện các trường Đại học tạo nên những hoạt động phối hợp giữa cán bộ thư viện và nhà trường giúp khai thác trí tuệ tập thể, tạo ra tri thức mới và cung cấp những dịch vụ và nguồn lực thư viện hỗn hợp và phù hợp cho cộng đồng bạn đọc trong trường đại học. Những dịch vụ này giúp nâng cao hình ảnh và cách nhìn tích cực về các dịch vụ thư viện cũng như những người làm thông tin thư viện. Những giải pháp và ứng dụng của các thư viện đã và đang biến thư viện đại học trở thành một kho tàng chọn lọc của thế giới tri thức nhằm phục vụ giảng dạy, nghiên cứu và phát triển của chính ngôi trường mình. Trường Đại học FPT là ngôi trường đi đầu trong lĩnh vực công nghệ thông tin, luôn nắm bắt những công nghệ mới và vận dụng sáng tạo công nghệ đó vào trong hoạt động của mình. Nhận thức được vai trò to lớn của Web 2.0 cũng như triển vọng của việc ứng dụng Web 2.0 vào hoạt động của thư viện các trường Đại học ở Việt Nam, đặc biệt là trường Đại học FPT tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Web 2.0 với hoạt động của thƣ viện trƣờng Đại học FPT” làm đề tài khóa luận của mình. Hi vọng đề tài này sẽ mở ra hướng nghiên cứu mới thư viện 2.0 năng động và phát triển - mà thư viện các trường Đại học sẽ đi tiên phong cho xu hướng này. 2. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu những vấn đề chung về Web 2.0, tác giả muốn khái quát cho người đọc hiểu về Web 2.0 cũng như các ứng dụng hữu ích của Web 2.0 trong hoạt động của Thư viện trường Đại học FPT. Trên cơ sở tìm hiểu sự Lê Thị Diệp 3 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT áp dụng Web 2.0 trong hoạt động của thư viện này, tác giả muốn phân tích đánh giá triển vọng cao cũng như một vài hạn chế khi ứng dụng điều này. Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ Web 2.0 cho hoạt đông của thư viện trường Đại học FPT. Hi vọng bước đi tiên phong của Thư viện trường Đại học FPT sẽ mở ra sự phát triển mới cho thư viện các trường Đại học ở Việt Nam khi ứng dụng Web 2.0 vào hoạt động của các thư viện. 3. Tình hình nghiên cứu theo hƣớng đề tài Cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về Web 2.0 với hoạt động của thư viện các trường Đại học, ứng dụng Web 2.0 – hướng đi đúng cho các thư viện hiện nay, thực trạng ứng dụng Web 2.0 vào hoạt động của thư viện trường Đại học RMIT,… Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về thực trạng ứng dụng Web 2.0 vào hoạt động của thư viện trường Đại học FPT – một trong những cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin mạnh mẽ vào hoạt động của thư viện. Do đó, cần có những nghiên cứu tìm hiểu về khả năng ứng dụng Web 2.0 vào hoạt động của các thư viện trường Đại học ở Việt Nam, trong đó có thư viện trường Đại học FPT. Việc nghiên cứu để tìm hiểu và đánh giá thực trạng ứng dụng Web 2.0 vào hoạt động của thư viện trường Đại học FPT từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện công tác này là việc làm cần thiết hiện nay, điều này có ý nghĩa mở ra những nghiên cứu về hướng đi mới cho hệ thống thư viện các trường Đại học cũng như hệ thống các thư viện khác của nước nhà . Chính vì vậy, việc tôi quyết định lựa chọn đề tài “Web 2.0 với hoạt động của Thƣ viện trƣờng Đại học FPT” là hoàn toàn phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế hiện nay. Lê Thị Diệp 4 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu và những nhiệm vụ đã để ra, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài khóa luận được xác định như sau: a. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Web 2.0 và những ứng dụng hữu ích của Web 2.0 trong hoạt động thư viện các trường Đại học. Khóa luận tập trung đi sâu nghiên cứu thực trạng ứng dụng Web 2.0 vào hoạt động của thư viện trường Đại học FPT. b. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về không gian: Thư viện trường Đại học FPT cơ sở Hà Nội - Phạm vi về thời gian: Từ khi thư viện được thành lập (năm 2006) đến nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện được đề tài khoá luận này, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu - Phương pháp quan sát khoa học - Phương pháp phỏng vấn, mạn đàm với các chuyên gia 6. Đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn của đề tài - Về mặt lý luận: Nêu lên những khái quát chung nhất về Web 2.0 và các ứng dụng cơ bản của Web 2.0 trong hoạt động của thư viện. Lê Thị Diệp 5 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT - Về mặt thực tiễn: + Giới thiệu và phân tích khái quát hoạt động của thư viện Đại học FPT. + Tìm hiểu và đánh giá thực trạng của việc ứng dụng Web 2.0 vào hoạt động của thư viện Đại học FPT Hà Nội. + Nghiên cứu đưa ra những giải pháp khả thi về việc áp dụng những ứng dụng hữu ích và phù hợp của Web 2.0 vào hoạt động của Thư viện trường Đại học FPT Hà Nội. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3 chương: Chƣơng 1: Tổng quan về Web 2.0 Chƣơng 2: Ứng dụng Web 2.0 vào hoạt động của Thư viện trường Đại học FPT Chƣơng 3: Nhận xét, đánh giá và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng việc ứng dụng Web 2.0 vào hoạt động của Thư viện trường Đại học FPT Lê Thị Diệp 6 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT NỘI DUNG CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ WEB 2.0 1.1. Khái quát về Web và Web 1.0 1.1.1 Lịch sử hình thành World Wide Web Vào tháng 1 năm 1978, hai chàng trai đến từ Chicago là Ward Christensen và Randy Suess đã quyết định sẽ xây dựng một hệ thống liên lạc đơn giản giữa 2 máy tính thông qua đường dây điện thoại… Và không ai ngờ, đây lại là những bước đi đầu tiên, quan trọng để bắt đầu một kỷ nguyên thông tin mới – kỷ nguyên của World Wide Web. Thiết bị kết nối mà họ sử dụng modem Hayes 110-baud thế hệ đầu tiên ra đời tháng tư năm 1977. Christensen trước đó đã viết các giao thức truyền tệp nhị phân (binary file transfer protocol) đầu tiên vào tháng 8 năm 1977 (mang tên MODEM.ASM, sau đó là XMODEM) và anh đã phụ trách viết phần mềm trong khi đó Suess là người thiết kế phần cứng cho hệ thống này. Một tháng sau, hệ thống mà Ward và Randy xây dựng đã có thể hoạt động được, được họ đặt tên là CBBS (tên viết tắt của Computerized Bulletin Board System - Hệ thống bảng tin trên nền máy tính). Sau khi tiến hành thử nghiệm và cải tiến trong những tháng tiếp theo CBBS được công bố rộng rãi vào năm 1979. Và đó là hệ thống mạng điện tử đầu tiên cho phép gửi các thông điệp dưới dạng văn bản lên hệ thống mạng (trừ các hệ thống chia sẻ và đồng bộ thời gian). CBBS cho phép người sử dụng có thể đưa các thông điệp lên mạng cộng đồng, đọc và phản hồi cũng như là tham gia vào các cuộc tranh luận ảo, đó chính là khởi nguồn của World Wide Web mà chúng ta đang sử dụng như ngày nay. Chỉ sau vài tháng sản phẩm của Lê Thị Diệp 7 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT Ward Christensen và Randy Suess đã thu hút được sự chú ý rộng khắp, từ các nhà khoa học cho đến những người yêu thích máy tính, sản phẩm còn rất hiếm thời đó đối với những người bình thường. Ở những phiên bản thử nghiệm đầu tiên, CBBS chỉ cho phép đường truyền có dung lượng khoảng 300 bauds (tương đương với khoảng 30 đến 40 ký tự trong một giây) và chỉ có các ký tự ASCII hoặc ANSI mới tương thích với hệ thống này. Tuy nhiên sau đó, tốc độ đường truyền đã được nâng cấp lên khoảng 1200 đến 2400 với các modem hiện đại hơn - tốc độ này có thể chấp nhận được ở thời điểm những năm cuối của thập kỷ 70. Các hệ thống CBBS trở nên rất thông dụng vào thập niên 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ trước, tuy nhiên nó dần bị thay thế và biến mất khi mạng Internet được đưa vào khai thác và ngày càng trở nên phổ biến. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng CBBS chính là tiền thân của mạng World Wide Web hiện nay và thậm chí là một số các tính năng của Internet cũng khởi nguồn từ hệ thống này . Khởi nguyên của ma ̣ng thông tin toàn cầ u WWW thực tế chỉ là mô ̣t dich ̣ vụ chia sẻ thông tin qua Internet , đươ ̣c phát triể n bởi viê ̣n si ̃ Viê ̣n Hàn lâm Anh Tim Berners-Lee và Robert Cailliau (Bỉ) khi còn làm viê ̣c Hiê ̣p hô ̣i nghiên cứu các vấ n đề ha ̣t nhân CERN thuô ̣c thành phố Geneva (Thụy Sỹ). Tuy nhiên, với viê ̣c chia sẻ thông tin mô ̣t cách nhanh chóng , mạng thông tin toàn cầ u WWW đã phát triể n rộng khắp. 1.1.2. Khái niệm Web Web là từ viết tắt của 3 từ World Wide Web (WWW). Theo từ điển Internet của nhà xuất bản Đà Nẵng (xuất bản năm 2004, tr. 493) web là “từ chung để chỉ hàng triệu website sử dụng giao thức truyền siêu văn bản (hypertext transfer protocol, viết tắt là http) và được đăng trên Internet. Nó được gọi là web vì tính phức tạp của các liên kết giữa các site. Bằng cách nhấp vào siêu liên kết (hyperlink) được nhúng trong các trang web, người Lê Thị Diệp 8 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT dùng có thể di chuyển từ trang này đến trang khác hoặc từ site này đến site khác một cách dễ dàng. Người dùng có thể truy cập các website và di chuyển (navigate) trong WWW thông qua các trình duyệt (browser); trình duyệt cũng cho phép kết nhập các hiệu ứng đa phương tiện (multimedia) vào các trang web. WWW chính là trung tâm của Internet và là phần dễ thấy nhất, mặc dù Internet còn có e-mail, nhóm tin (newsgroup), chat room và usenet. Nhiều người thường lẫn lộn Internet với WWW. Sự khác biệt giữa hai khái niệm này là: Internet chỉ mạng quốc tế gồm các máy tính được liên kết với nhau bằng các đường dây viễn thông hoặc công nghệ truyền thông không dây, còn WWW gồm hàng triệu website và trang web, và chỉ là một tiện ích được cung cấp cho những người sử dụng Internet mà thôi” [6]. Hay nói cách khác Web thực ra là một trong các dịch vụ chạy trên Internet, chẳng hạn như dịch vụ thư điện tử. Web được phát minh và đưa vào sử dụng vào khoảng năm 1990, 1991 bởi viện sĩ Viện Hàn lâm Anh Tim Berners-Lee và Robert Cailliau (Bỉ) tại CERN - Geneva, Thụy Sỹ. Các tài liệu trên World Wide Web được lưu trữ trong một hệ thống siêu văn bản (hypertext), đặt tại các máy tính trong mạng Internet. Người dùng phải sử dụng một chương trình được gọi là trình duyệt web (web browser) để xem siêu văn bản. Chương trình này sẽ nhận thông tin (documents) tại ô địa chỉ (address) do người sử dụng yêu cầu (thông tin trong ô địa chỉ được gọi là tên miền (domain name), rồi sau đó chương trình sẽ tự động gửi thông tin đến máy chủ (web server) và hiển thị trên màn hình máy tính của người xem. Người dùng có thể theo các liên kết siêu văn bản (hyperlink) trên mỗi trang web để nối với các tài liệu khác hoặc gửi thông tin phản hồi theo máy chủ trong một quá trình tương tác.[4] Hoạt động truy tìm theo các siêu liên kết thường được gọi là duyệt Web. Lê Thị Diệp 9 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT Quá trình này cho phép người dùng có thể lướt các trang web để lấy thông tin. Tuy nhiên độ chính xác và chứng thực của thông tin không được đảm bảo. 1.1.3. Khái niệm Web 1.0 Giai đoạn đầu của web sau này được gọi là Web 1.0 hay web thế hệ thứ nhất, nó thực sự phát triển và phổ biến vào những năm từ 1990 đến 2005. Web 1.0 đã tạo ra bước phát triển đột phá cho hoạt động của nhiều ngành kinh tế nói chung, ngành Thông tin – Thư viện (TT-TV) nói riêng. Các cơ quan TT-TV từ chỗ chỉ cung cấp các sản phẩm và dịch vụ thông tin truyền thống như bản tin, mục lục chủ đề định kỳ,… bằng công nghệ web, các trang web và các dịch vụ thông tin mới lần lượt ra đời, mà tiêu biểu như: 1. Bản tin điện tử 2. Tạp chí điện tử 3. CSDL trực tuyến 4. Dịch vụ tra cứu trực tuyến 5. Dịch vụ cập nhật bản tin định kì trực tuyến Các sản phẩm và dịch vụ thông tin kể trên đều được phát triển, tổ chức theo nhu cầu của người dùng. Cán bộ thông tin chủ động xử lý nguồn tin sẵn có rồi cung cấp cho người dùng. Người dùng nếu muốn thay đổi nội dung thì gửi phản hồi về cho cơ quan TT-TV qua thư điện tử, bưu điện, fax…. Thư viện đại học các nước trên thế giới đã áp dụng công nghệ web để phổ biến thông tin tới người dùng tin một cách tích cực thông qua các sản phẩm, dịch vụ như OPAC, CSDL trực tuyến, bản tin thư viện, thư mục chuyên đề,…thông tin được phát trên mạng để người dùng có thể truy cập từ xa. Lê Thị Diệp 10 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT Ở Việt Nam, theo khảo sát được tiến hành trên 73 website của thư viện các trường đại học tại địa chỉ : http://www.vietnamtradefair.com/dn/gd_dh.htm Chỉ một số ít các thư viện của các trường lớn như Thư viện Đại học Bách khoa Hà Nội, thư viện Đại học Cần Thơ, … cung cấp thông tin về thư viện trên website của trường, những nơi khác đều không làm được việc này. Về cơ bản, website sử dụng Web 1.0 cung cấp thông tin một chiều, cơ quan thông tin-thư viện thực hiện việc “xuất bản” thông tin cho người dùng của mình. Sự ra đời của thế hệ web thứ hai - Web 2.0 - vào năm 2004 đã mở ra một giai đoạn mới trong việc phát triển nguồn tin và thay đổi các sản phẩm và dịch vụ thông tin. 1.2. 1.2.1. Khái quát về Web 2.0 Khái niệm Web 2.0 Mục tiêu đầu tiên của những người tiên phong xây dựng Internet là nhằm kết nối các nhà nghiên cứu và các máy tính của họ với nhau để có thể chia sẻ thông tin hiệu quả. Khi bổ sung WWW (năm 1990), Tim Berners-Lee cũng nhằm mục tiêu tạo phương tiện cho phép người dùng tự do đưa thông tin lên Internet và dễ dàng chia sẻ với mọi người (trình duyệt web đầu tiên do Berners-Lee viết bao gồm cả công cụ soạn thảo trang web). Tuy nhiên, sau đó web đã phát triển theo hướng hơi khác mục tiêu ban đầu. Web 1.0 (thế hệ web trước Web 2.0) có nhiều hạn chế và Web 2.0 ra đời nhằm khắc phục những hạn chế của web 1.0 Khái niệm Web 2.0 đầu tiên được Dale Dougherty, phó chủ tịch của công ty OReilly Media (công ty sách công nghệ), đưa ra tại hội thảo Web 2.0 lần thứ nhất do OReilly Media và MediaLive International tổ chức vào tháng 10/2004. Dougherty không đưa ra định nghĩa mà chỉ dùng Lê Thị Diệp 11 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT các ví dụ so sánh phân biệt Web 1.0 và Web 2.0: "DoubleClick là Web 1.0; Google AdSense là Web 2.0. Ofoto là Web 1.0; Flickr là Web 2.0. Britannica online là Web 1.0; Wikipedia là Web 2.0. v.v...". Sau đó Tim O'Reilly, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành OReilly Media, đã đúc kết lại 7 đặc tính của Web 2.0: 1. Web có vai trò nền tảng, có thể chạy mọi ứng dụng 2. Tập hợp trí tuệ cộng đồng 3. Dữ liệu có vai trò then chốt 4. Phần mềm được cung cấp ở dạng dịch vụ web và được cập nhật không ngừng 5. Phát triển ứng dụng dễ dàng và nhanh chóng 6. Phần mềm có thể chạy trên nhiều thiết bị 7. Giao diện ứng dụng phong phú (O'Reilly, 2005) [12] Khái niệm Web 2.0 đã thay đổi cách thức làm việc của thủ thư tra cứu. Thư viện hay trung tâm thông tin có trách nhiệm đảm bảo rằng người dùng của mình được phục vụ nhanh chóng và hiệu quả nhất có thể bằng cách sử dụng những công cụ phù hợp nhất. Web 2.0 là một cách tiếp cận mới để sử dụng web như là một nền tảng nơi mà người dùng cùng nhau tham gia vào việc tạo ra, chỉnh sửa, và xuất bản thông tin thông qua những công cụ hợp tác sáng tạo nội dung trên nền web. Web 2.0 liên quan tới người dùng không phải chỉ ở chỗ người dùng tạo ra nội dung mà người dùng giúp thu thập, tổ chức, mô tả, cập nhật, chia sẻ, truyền bá, sắp xếp lại, bình luận, hiệu đính, và đóng Lê Thị Diệp 12 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT gói lại nội dung. Web 2.0 là một cuộc hội thoại trong đó người dùng có cơ hội để đánh dấu, nhận xét, và chia sẻ quan điểm về một số chủ đề, nguồn thông tin và dịch vụ thông tin nhất định. Nó là một kiến trúc tham dự trong đó những tương tác và đóng góp được khuyến khích. Điều đó có nghĩa là Web 2.0 hoàn toàn là nội dung do người dùng tạo ra nhờ khai thác trí tuệ tập thể. Thoạt đầu, Web 2.0 được chú trọng tới yếu tố công nghệ, nhấn mạnh tới vai trò nền tảng ứng dụng. Nhưng đến hội thảo Web 2.0 lần 2 tổ chức vào tháng 10/2005, Web 2.0 được nhấn mạnh đến tính chất sâu xa hơn – yếu tố cộng đồng. Thực tế, ứng dụng trên web là thành phần rất quan trọng của Web 2.0. Hàng loạt công nghệ mới được phát triển nhằm làm cho ứng dụng trên web mạnh hơn, nhanh hơn và dễ sử dụng hơn, được xem là nền tảng của Web 2.0. 1.2.2. Các đặc trƣng của Web 2.0 Như đã giới thiệu ở phần trên, chúng ta chưa đưa ra một khái niệm cụ thể nào về Web 2.0 mà chỉ dựa vào một số đặc tính cơ bản để đánh giá một ứng dụng mạng có phải là Web 2.0 hay không. Dựa vào yêu cầu về đặc tính đã nói, phần này sẽ nêu và phân tích để làm rõ hơn về các đặc trưng của Web 2.0 theo O'Reilly đã nói. Lê Thị Diệp 13 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT 1.2.2.1. Web có vai trò nền tảng Trong thời kì đầu của sự ứng dụng công nghệ thông tin, người ta coi máy tính cá nhân là nền tảng để phát triển các phần mềm. Các phương pháp kĩ thuật tiện lợi được áp dụng chủ yếu cho các ứng dụng desktop. Có thể nêu ra đây một số nguyên nhân chính dẫn đến sự hạn chế của ứng dụng Web: - Cơ sở hạ tầng mạng còn hạn chế, sự phát triển của các công nghệ mới áp dụng cho mạng chưa nhiều. - Các ứng dụng Web luôn gặp khó khăn về việc tiêu chuẩn hóa việc trình bày. Mọi ứng dụng Web phải được thẩm định với tối thiểu hai hoặc ba trình duyệt khác nhau để chắc chắn rằng tất cả những ai thăm trang Web với trình duyệt của họ đều không gặp vấn đề gì về sự tương thích. - Trong khi việc xây dựng các ứng dụng Web gặp nhiều khó khăn thì việc xây dựng phần mềm thân thiện với người dùng kiểu desktop thường dễ dàng hơn rất nhiều. Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cơ sở hạ tầng mạng viễn thông và công nghệ phần mềm, người ta có thể xây dựng được các ứng dụng Web khá dễ dàng. Nhiều công nghệ mạng đã và đang được phát triển để tăng cường tính năng về giao diện và khả năng truy cập cho các ứng dụng Web. Đáng JavaScript,ASP.NET kể như Java Applet, Macromedia Flash, …. Và đặc biệt là kĩ thuật lập trình AJAX - Asynchronous JavaScript and XML (JavaScript và XML không đồng bộ) được đề xuất như mọt đặc trưng chủ yếu của thế hệ Web 2.0. Người dùng cũng đã nhận ra thế mạnh của các ứng dụng Web so với các ứng dụng desktop, như việc cài đặt, nâng cấp phần mềm trở nên dễ Lê Thị Diệp 14 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT dàng, chi phí thấp, ứng dụng Web có thể làm việc với mọi hệ điều hành và trình duyệt, lưu trữ cơ sở dữ liệu tập trung, tránh được các lỗi kĩ thuật và giảm thiểu nguy cơ về an toàn dữ liệu. Với sự phát triển mạnh mẽ của mạng Internet toàn cầu, yêu cầu xây dựng các hệ thống phần mềm có khả năng hoạt động thông qua Internet là tất yếu không thể tránh được. Với những lý do trên, các ứng dụng kiểu Webtop sẽ là xu hướng của phần mềm trong tương lai. 1.2.2.2. Tập hợp trí tuệ cộng đồng Một trong những vấn đề cốt lõi của Web 2.0 là tập hợp trí tuệ cộng đồng, biến đổi Web thành một loại trí tuệ toàn cầu. Đối với lĩnh vực thương mại, việc khai thác trí tuệ của người dùng đang là một trào lưu của các công ty Web 2.0 với phương châm khách hàng tự phục vụ. Hai đại diện tiêu biểu cho đặc trưng này là Amazon và eBay – hai công ty kinh doanh trực tuyến. Nguồn lực phần mềm của các công ty Web 2.0 chính là tài nguyên mã nguồn mở phong phú. Quan điểm của cộng đồng nguồn mở là “người sử dụng phải được coi là người đồng phát triển”. Như vậy, người dùng cũng chính là người cải tiến, điều chỉnh, hoặc góp ý sao cho các phần mềm dịch vụ ngày càng được hoàn thiện và đáp ứng được nhiều đối tượng người dùng hơn. Các siêu liên kết là nền tảng của Web. Người dùng có thể thêm vào nội dung mới, trang Web mới, và các trang Web này được ràng buộc trong cấu trúc của Web và những người dùng khác thì khám phá nội dung và liên kết đến nó. Lê Thị Diệp 15 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT Một minh chứng khác về đặc trưng tập hợp trí tuệ cộng đồng, đó là bộ từ điển bách khoa mở đa ngôn ngữ Wikipedia, mỗi đầu mục ở đây có thể được thêm vào hoặc biên mục bởi người dùng Web bất kì. Trong khi một số học giả cho rằng bộ từ điển này không đáng tin cậy thì trên thực tế có hang triệu lượt truy cập mỗi ngày vào trang này, có thể nói bộ từ điển này đủ tốt để sử dụng ở mức phổ thông. Đây là một thay đổi sâu sắc trong việc tạo động lực cho việc hình thành nội dung Web. 1.2.2.3. Dữ liệu có vai trò then chốt Hoạt động của các ứng dụng Web hiện nay đều có một cơ sở dữ liệu chuyên dụng hỗ trợ phía hậu trường. Với chủ trương xây dựng các ứng dụng mashup thì mô hình của cơ sở dữ liệu nhỏ, lẻ không còn phù hợp nữa, thay vào đó là các cơ sở dữ liệu chuyên dụng được xây dựng với quy mô lớn và có tính liên kết chặt chẽ, liên hoàn với nhau. Vì vậy, vai trò quan trọng tất yếu của dữ liệu như là vật liệu để xây dựng nên các ứng dụng của Web 2.0 Hiện nay, các thế mạnh cạnh tranh thị trường thuộc về những người sở hữu các cơ sở dữ liệu chuyên dụng. Các cơ sở dữ liệu chuyên dụng là tài nguyên của các dịch vụ giá trị. Với các ứng dụng hữu ích này người ta hi vọng cách mạng công nghệ thông tin có thể hội tụ cả thế giới trong một cơ sở dữ liệu khổng lồ với các dịch vụ liên hoàn với nhau như một thể thống nhất. Lê Thị Diệp 16 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT 1.2.2.4. Phần mềm được cung cấp ở dạng dịch vụ web và được cập nhật không ngừng Web 2.0 chủ trương cung cấp các phần mềm tới khách hàng như là những dịch vụ, họ coi việc quản lý cơ sở dữ liệu là chủ đạo, khách hàng bằng cách gián tiếp hoặc trực tiếp sẽ trả tiền cho việc sử dụng dịch vụ và khai thác dữ liệu của các công ty này. Bên cạnh đó phải nói đến nguồn lợi mà các công ty thu được qua dịch vụ quảng cáo, môi giới trung gian cho các thương vụ. Các phần mềm Webtop đang có xu hướng dần dần thay thế các phần mềm desktop truyền thống với sự phát triển của dịch vụ Internet băng thông rộng làm cho các phần mềm dịch vụ trở nên gần gũi với người dùng hơn, với những đặc điểm hài lòng người dùng: - Phần mềm dịch vụ liên tục được cập nhật, bảo trì. Trách nhiệm bảo trì, nâng cấp phần mềm, đảm bảo sự an toàn dữ liệu thuộc về nhà cung cấp dịch vụ. - Đối với nhà cung cấp dịch vụ thì việc nâng cấp, bảo trì trở nên dễ dàng bởi lẽ chỉ có một phiên bản được cài trên server của nhà cung cấp dịch vụ, khách hàng chỉ truy cập phần mềm thông qua các trình duyệt Web thông dụng. 1.2.2.5. Phát triển ứng dụng dễ dàng và nhanh chóng Năm 1992, Web đã được sử dụng để phân phối các Applet và một số loại nội dung động trong trình duyệt Web. Năm 1995, Java đã trình bày hướng phân phối Applet, JavaScript và sau đó là DHTML - Dynamic HyperText Markup Language (Ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản hiện đại) được giới thiệu như một phương thức gọn nhẹ để cung cấp khả năng lập Lê Thị Diệp 17 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT trình trên máy khách. Một vài năm trước đây, Macromedia tạo ra thuật ngữ “Rich Internet Application” làm nổi bật khả năng của Flash để phân phối các nội dung đa phương tiện và cung cấp các giao diện người dùng phong phú cho ứng dụng Web. Tuy nhiên, tiềm năng của Web để phân phối các ứng dụng hoàn chỉnh không thỏa mãn cho đến khi Google giới thiệu dịch vụ thư điện tử Gmail, dịch vụ bản đồ trực tuyến Google Maps – đều là các ứng dụng nền tảng Web với các giao diện hướng tới người dùng và tính năng tương tác như các phần mềm desktop. Tập hợp các công nghệ được sử dụng bởi Google và AJAX. Hiện tại, Internet Explorer, Netscape Navigate và Mozilla Firefox là những trình duyệt phổ biến đều hỗ trợ kĩ thuật AJAX. 1.2.2.6. Phần mềm có thể chạy trên nhiều thiết bị Hiện nay Web không còn bị hạn chế với nền tảng máy tính cá nhân. Phần mềm chạy được trên nhiều thiết bị sẽ chiếm lĩnh thị trường trong tương lai. Sự phát triển của mạng như nền tảng mở rộng ý tưởng này tới những ứng dụng tổng hợp bao gồm các dịch vụ do nhiều máy tính cung cấp. Hện tại đã có nhiều dịch vụ mạng cho phép các thiết bị cầm tay kết nối với Internet. Với phương châm truy cập Internet và các dịch vụ Web từ bất kỳ đâu và bằng bất kỳ thiết bị liên lạc nào. Lê Thị Diệp 18 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT 1.2.2.7. Giao diện ứng dụng phong phú Nhiều ứng dụng Web 2.0 đã thay thế các dịch vụ phức tạp bằng các mô hình thiết kế đơn giản, RSS đang trở thành dịch vụ mạng được triển khai rộng khắp vì tính đơn giản. Ý tưởng của Web 2.0 là: - Hỗ trợ mô hình lập trình gọn nhẹ, năng động và cho phép các hệ thống được kết hợp lỏng. - Mục đích của các dịch vụ mạng dạng RSS - Really Simple Syndication (Định dạng tệp tin) và REST - Representational State Transfer (Biểu hiện trạng thái chuyển) là tổ chức dữ liệu ra chứ không phải kiểm soát những gì xảy ra khi nó đến đầu kia của kết nối. - Sử dụng các ngôn ngữ lập trình kịch bản đơn giản, hiệu quả thay cho các ngôn ngữ lập trình truyền thống đòi hỏi môi trường phát triển lớn. Tái sử dụng các thư viện mã nguồn mở dưới dạng các thư viện nhỏ gọn. - Sự cách tân trong thành phần: các mô hình tác nghiệp gọn nhẹ là một sự kết hợp tự nhiên của các ngôn ngữ lập trình và các kết nối đơn giản. Một dịch vụ mới được xây dựng đơn giản bằng cách kết hợp hai dịch vụ sẵn có nào đó. Chúng ta tin rằng, Web 2.0 sẽ mang lại cơ hội chiếm lĩnh thị trường bằng cách khai thác và kết hợp các dịch vụ được cung cấp bởi các cơ quan, công ty, cá nhân khác. Lê Thị Diệp 19 K52 Thông tin – Thư viện Khóa luận tốt nghiệp 1.2.3. Web 2.0 với hoạt động của TV ĐH FPT Các đặc điểm kỹ thuật của Web 2.0 1.2.3.1. Kỹ thuật AJAX AJAX - Asynchronous JavaScript and XML là một kỹ thuật phát triển trên Web để tạo ra các ứng dụng Web tương tác. Mục đích là để tạo các trang Web có khả năng hồi đáp các yêu cầu người dùng nhanh hơn bằng cách trao đổi một lượng nhỏ với máy chủ (server) ở hậu trường, sao cho toàn bộ trang Web không phải tải lại mỗi khi người dùng thực hiện một thao tác thay đổi nào đó trên trang Web, điều này làm tăng khả năng tương tác, tốc độ truy cập trang Web. Web cổ điển được thiết kế để duyệt các tài liệu HTML với mô hình tương tác người dùng kiểu “bấm, chờ, và làm mới lại” (click, wait, and refresh) và một cơ chế giao tiếp yêu cầu/ hồi đáp đồng bộ. Vì vậy có hai nhược điểm xảy ra: Thứ nhất: trong ngữ cảnh của các ứng dụng phần mềm, cơ chế hoạt động “bấm, chờ, và làm mới lại” diễn ra chậm, làm mất ngữ cảnh mỗi khi trang Web đang được lằm mới lại. Thứ hai: nhiều nội dung của trang Web được Server tải về là thừa, dẫn đến tiêu thụ băng thông quá mức cần thiết và thiếu chiều thứ hai trong việc khởi tạo các cập nhật giao tiếp thời gian thực hiện trên server. Bằng việc sử dụng công nghệ AJAX người ta có thể khắc phục được hai nhược điểm trên: - Mô hình tương tác người dùng “cập nhật từng phần màn hình” thay cho mô hình “bấm, chờ, và làm mới lại”. Khi người dùng tương tác một ứng dụng AJAX, việc cập nhật chỉ diễn ra đối với các phần tử giao diện người Lê Thị Diệp 20 K52 Thông tin – Thư viện
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan