Vua Việt Nam
Vua Việt Nam là danh sách các vị vua nước Việt Nam từ khi bắt đầu hình thành
nhà nước tới hết thời phong kiến.
Do hoàn cảnh lịch sử, vua Việt Nam có thể có những danh hiệu khác nhau, cao
nhất là hoàng đế, thấp hơn là "vương", thấp nữa là "công" hoặc "Tiết độ sứ".
Khái quát
Một vị vua Việt Nam vào khoảng giữa thế kỷ 19
Sau thời kỳ Bắc thuộc đến triều đại nhà Lý một số vị vua đã xưng hoàng đế, đây là điều thách
thức thần quyền của các vua Trung Quốc, người vẫn tự xưng là con trời ("thiên tử") vâng mạng
trời ("thiên mệnh") cai trị "thiên hạ", và đụng chạm tới tính chính danh của họ, tức lúc đó thế
giới có đến hai vua. Sau các cuộc tấn công thất bại của nhà Tống, người Hoa đã phải công nhận
quyền lực của người Việt ở Thăng Long. Nước Việt được xem như một dạng chư hầu đặc biệt
mà Trung Quốc không thể sát nhập bằng vũ lực nhưng, ngược lại, người Việt cũng phải công
nhận Trung Quốc là một nước lớn, về phương diện ngoại giao phải chịu lép nhường thần quyền
con trời, mạng trời cao hơn cho vua Trung Quốc, tuy vua Việt vẫn có quyền xưng là con trời và
vâng mạng trời cai trị dân đối với dân nước Việt. Vua Việt Nam được tự ví mình với Mặt Trời
như vua Trung Quốc. Từ đây mô hình chính trị Trung Hoa đã được Việt hóa và phát triển để
khẳng định ngai vua ở Thăng Long là ngai vàng của Hoàng đế nước Nam người trị vì "Vương
quốc phía nam" theo mệnh trời. Hệ thống triều đình của các vua nước Việt cũng tương tự các
triều đình của vua chúa Trung Quốc, các nghi thức và danh phận của các vị quan cũng tương tự
như quan lại Trung Quốc.
Các vị vua nước Việt đã sử dụng rất nhiều nghi thức, biểu tượng chỉ dành riêng cho vua Trung
Quốc như áo long bào màu vàng có rồng 5 móng, giường long sàng, ngôi cửu ngũ, khi chết thì
dùng từ "băng hà" và xây lăng có đường hầm dẫn xuống huyệt. Các vua nước Việt được chính
thức dùng các nghi thức đặc biệt nhạy cảm với vua Trung Quốc như thờ trời, tế trời ở đàn Nam
Giao, được quyền cai quản các thần linh ở nước Việt, được quyền phong chức tước cho các
thánh, thần, sông núi ở nước Việt, có lẽ chỉ ngoại trừ vua Đồng Khánh là vị vua Việt Nam duy
nhất chịu làm em của một nữ thần mà thôi...; có vua Việt Nam còn mượn cớ đau chân để khỏi
quỳ gối trước chiếu chỉ vua Trung Quốc để chứng tỏ mình không phải là cấp dưới của vua Trung
Quốc. Tóm lại, các vị vua của Việt Nam là các vị vua thực sự như các vua Trung Quốc.
Các vua Việt Nam đã dùng gần như đầy đủ các nghi thức thần quyền phong kiến dành riêng cho
vua chúa Trung Quốc, chỉ có cái khác duy nhất là quyền lực thần quyền này không được phép áp
đặt lên dân Trung Quốc, ngược lại, quyền lực thần quyền của vua chúa Trung Quốc cũng không
áp đặt được lên vua quan và dân nước Việt, các quan của triều đình Việt Nam thì chỉ tuân lệnh
và trung thành với vua Việt Nam mà thôi.
Thiên mệnh của vua Trung Quốc chỉ kéo dài đến biên giới Hoa-Việt, biên giới này về cơ bản gần
giống với ngày nay. Theo ý thức thần quyền của hai chế độ phong kiến thì biên giới này do Trời
vạch sẵn và được Trời cũng như các thần bảo vệ. Cả hai nước đều ý thức được tầm quan trọng
của đường biên giới này trong việc duy trì quyền lực giữa hai nước và đã giữ được sự cố định
truyền thống của nó trong một thời gian rất dài trong lịch sử. Quan hệ triều cống với Trung Quốc
được coi là lựa chọn thay thế duy nhất cho đối đầu, chiến tranh hoặc cấm vận kinh tế với giá rẻ
nhất.
Vì vậy Việt Nam trên danh nghĩa vẫn là một nước chư hầu của Trung Quốc, hầu hết các vị vua
Việt Nam lên ngôi đều phải chịu sắc phong của Trung Quốc; hoặc phải để vua Trung Quốc hợp
thức hóa vương vị và thần quyền của mình như vua Quang Trung. Vào lúc loạn lạc thay đổi triều
đại ở Việt Nam là cơ hội tốt để các triều đại phong kiến phương bắc mượn cớ giúp vua triều
trước, không chịu sắc phong cho vua mới hoặc đem quân qua can thiệp nhằm chiếm đóng và đô
hộ lâu dài nước Việt như thời nhà Minh, nhà Thanh. Một số vua khác chỉ trị vì trên danh nghĩa,
quyền lực thực sự lại nằm trong các vị chúa hoặc các đại thần và phe cánh. Hầu hết các vị vua
đều được biết bằng miếu hiệu, trong khi các vua nhà Nguyễn được biết bằng niên hiệu.
Sau đây là danh sách các vị vua Việt Nam từ khi hình thành nhà nước đến hết thời kỳ phong
kiến.
Hồng Bàng và Văn Lang
Thời Hồng Bàng và nước Văn Lang mang tính truyền thuyết, có nhiều giả thuyết chưa thống
nhất. Tên hiệu các vua Hùng được Hùng triều ngọc phả ghi gồm các vua như sau[1]:
Tên húy
Trị vì[1]
Kinh Dương Vương,
Hùng Dương hay Lộc
Lục Dương Vương
Tục
3054-2839
TCN[cần dẫn nguồn]
Trị vì từ năm 2839Hùng Hiền Vương
2439 TCN, có nhiều đời
Lạc Long Quân, Hùng Hiền
vua đều xưng là Hùng
hay Sùng Lãm
Hiền Vương
Hùng Vương
Hùng Quốc Vương
Lân Lang
Trị vì từ 2439-2218 TCN gồm nhiều đời
vua, đều xưng là Hùng Quốc Vương
Hùng Diệp Vương
Bảo Lang
Gồm nhiều vua Trị vì từ 2218-1918 TCN,
đều xưng Hùng Diệp Vương
Hùng Hy Vương
Viên Lang
Gồm nhiều đời vua trị vì từ 1918-1718
TCN, đều xưng Hùng Hy Vương
Hùng Huy Vương
Pháp Hải Lang
Gồm nhiều đời vua trị vì từ 1718-1631
TCN, đều xưng Hùng Huy Vương
Hùng Chiêu Vương
Lang Liêu
Gồm nhiều đời vua trị vì từ 1631-1431
TCN, đều xưng Hùng CHiêu Vương
Hùng Vi Vương
Thừa Vân Lang
Gồm nhiều đời vua trị vì từ 1431-1331
TCN, đều xưng Hùng Vi Vương
Hùng Định Vương
Quân Lang
Gồm nhiều đời vua trị vì từ 1331-1251
TCN, đều xưng Hùng Định Vương
Đức Hiền LangGồm nhiều
đời vua trị vì từ 1054-958
TCN đều xưng Hùng Vũ
VươngGồm nhiều đời vua trị vì
Hùng Hải Lang
Gồm nhiều đời vua trị vì từ 1251-1161 TCN đều
xưng Hùng Nghi Vương
Hùng Việt VươngHưng Đức
Lang
Hùng Trinh Vương
Tuấn Lang
Gồm nhiều đời vua trị vì từ 958-853 TCN,
đều xưng Hùng Việt Vương
Hùng Anh Vương
Chân Nhân Lang
Gồm nhiều đời vua trị vì từ 853-754 TCN,
đều xưng Hùng Anh Vương
Hùng Triệu Vương
Cảnh Chiêu Lang
Gồm nhiều đời vua trị vì từ 754-660 TCN,
đều xưng Hùng Triệu Vương
Hùng Tạo Vương
Đức Quân Lang
Gồm nhiều đời vua trị
vì từ 660-568 TCN, đều
xưng Hùng Tạo Vương
Hùng Nghi Vương
Bảo Quang Lang
Gồm nhiều đời vua trị vì từ 568-408 TCN,
đều xưng Hùng Nghi Vương
Hùng Duệ Vương
Huệ Lang
Gồm nhiều đời vua trị vì từ 408-258 TCN,
đều xưng Hùng Duệ Vương
từ 1161-1054 TCN đều xưng
Hùng Trinh VươngHùng Nghi
Vương
Hùng Vũ Vương
^ Thời Hùng Vương
có nhiều điều không
rõ. Danh sách trên
theo Ngọc phả của
người đời sau soạn.
Con số 18 đời khiến
nhiều nhà nghiên cứu
nghi ngờ. Trong
truyền thuyết, con số
9 (như voi 9 ngà, gà
9 cựa...) được các
nhà sử học cho rằng
mang tính chất biểu
trưng là "nhiều"; các
bội số của 9 như 18,
27... cũng mang tính
biểu trưng là sự
truyền nối lâu dài
như vậy[2].
Âu Lạc và Nam Việt
Nhà Thục (257-207 TCN hoặc 179 TCN)
Vua
Tên húy
Trị vì
An Dương Vương
Thục Phán
257-179 TCN
Vua
Tên húy
Trị vì
Triệu Vũ Vương
Triệu Đà
179-137 TCN
Triệu Văn Vương
Triệu Hồ
137-125 TCN
Triệu Minh Vương
Triệu Anh Tề
125-113 TCN
Triệu Ai Vương
Triệu Hưng
113-112 TCN
Nhà Triệu (207-111 TCN)
Triệu Thuật Dương Vương
Triệu Kiến Đức
112-111 TCN
Các vua nhà Triệu là người Hán, không phải người Việt.
Bắc thuộc
Hai Bà Trưng
Bà Triệu
Nhà Triệu
111TCN
40
43
246
249
Các cuộc khởi nghĩa lớn
Triều đại Trung
Quốc
Khởi nghĩa
Lãnh đạo
Thời gian
Nhà Hán
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng
Trưng Trắc - Trưng Nhị
40-43
Nhà Đông Ngô
Khởi nghĩa Bà Triệu
Triệu Thị Trinh
246-249
Nhà Đường
Khởi nghĩa Mai Hắc Đế
Mai Thúc Loan
Nhà Đường
Khởi nghĩa Phùng Hưng
Phùng Hưng
Phùng An
766-789
722
Nhà Tiền Lý (544-602)
Nhà
Tiền
Lý
544 602
111TCN
938
Vua
Tên húy
Cai trị
Lý Nam Đế
Lý Bí (Lý Bôn)
541-548
Triệu Việt Vương
Triệu Quang Phục
549-571
Hậu Lý Nam Đế
Lý Phật Tử
571-602
Tự chủ (905-938)
Tự
chủ
111TCN
905 938
Tiết độ sứ
Tên húy
Cai trị
Tĩnh Hải Tiết độ sứ (Tiên
chủ)
Khúc Thừa Dụ
905-907
Tĩnh Hải Tiết độ sứ (Trung
chủ)
Khúc Hạo (Khúc Thừa Hạo)
907-917
Tĩnh Hải Tiết độ sứ (Hậu
chủ)
Khúc Thừa Mỹ
917-923/930
Tĩnh Hải Tiết độ sứ (Dương
Chính công)
Dương Đình Nghệ (Dương Diên
Nghệ)
931-937
Tĩnh Hải Tiết độ sứ
Kiều Công Tiễn[2]
937-938
^ Tiết độ sứ cuối cùng cai trị lãnh thổ Việt Nam trước thời kỳ độc lập
Thời kỳ độc lập
Thuộc
Minh
Nhà
Nhà Nhà
Tiền
Ngô Đinh
Lê
Trước độc lập
939
Nhà Lý
1009
Nhà
Nhà
Hậu
Hồ
Trần
Nhà Trần
1225
1400
Nhà Ngô (939-965)
939 965
1945
Vua
Niên hiệu
Tên húy
Trị vì
Tiền Ngô Vương
không có
Ngô Quyền
939-944
Nhà H
1427
Dương Bình Vương[3]
Hậu Ngô Vương[4]
không có
Dương Tam Kha (Dương
Thiệu Hồng)
944-950
không có
Ngô Xương Ngập
Ngô Xương Văn
950-965
^ Dương Tam Kha cướp ngôi của nhà Ngô và làm vua trong 6 năm.
^ Thời Hậu Ngô Vương gôồm hai vị vua Nam Tấấn Vương và Thiên Sách V ương cùng tr ị vì.
Nhà Đinh (968-979)
939 968 979
1945
Vua
Niên hiệu
Tên húy
Trị vì
Đinh Tiên Hoàng
Thái Bình
Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Hoàn)
968-979
Đinh Phế Đế
Thái Bình[5]
Đinh Toàn (Đinh
Tuệ)
979-980
^ Dùng tiếp niên hiệu cũ.
Nhà Tiền Lê (980-1009)
939 980 1009
1945
Vua
Niên hiệu
Tên húy
Trị vì
Lê Đại Hành
Thiên Phúc
Hưng Thống (989993)
Ứng Thiên (9941005)
Lê Hoàn
980-1005
Lê Trung Tông
không có
Lê Long Việt
1005 (3 ngày)
Lê Ngoạ Triều
Cảnh Thụy (10081009)
Lê Long Đĩnh
1005-1009
Nhà Lý (1010-1225)
939 1010
1225
1945
Vua
Niên hiệu
Tên húy
Trị vì
Lý Thái Tổ
Thuận Thiên
Lý Công Uẩn
1010-1028
Lý Phật Mã
1028-1054
Lý Dương Hoán
1128-1138
Lý Thẩm
1209-1209
1211-1224
Thái Ninh (1072-1075)
Anh Võ Chiêu Thắng (10761084)
(1028Quảng Hữu (1085-1091) Thiên Thành
1033)
Hội Phong (1092-1100)
Thông Thụy (1034Long Phù (1101-1109)
1038)
Càn Phù Hữu Đạo
Hội Tường Đại Khánh
(1039-1041)
(1110-1119)
Minh Đạo (1042-1043)
Thiên Phù Duệ Võ (1120Thiên Cảm Thánh Võ
1126)
(1044-1048)
Thiên Phù Khánh Thọ
Sùng Hưng Đại Bảo
(1049-1054)
(1127)Lý Càn Đức10721127Lý Nhật Tôn1054-1072Lý
Thái Tông
Lý Nhân Tông
Trinh Phù (1176-1185)
Thiên Gia Bảo Hữu (1202-1204)
Trị Bình Long Ứng (12051210)Lý Long Trát (Lý Long
Cán)1176-1210Lý Thiên Tộ11381175Lý Thần TôngLong Thụy
Thiên Thuận (1128Thái Bình (1054-1058)
1132)
Chương Thánh Gia Khánh (1059Thiên Chương Bảo Tự
1065)
(1133-1137)
Long Chương Thiên Tự (10661067)
Thiên Huống Bảo Tượng (1060)
Thần Võ (1069-1072)
Lý Cao Tông
Lý Thánh Tông
Thiệu Minh (1138-1139)
Đại Định (1140-1162)
Chính Long Bảo Ứng 11631173)
Thiên Cảm Chí Bảo (11741175)
Lý Anh Tông
Lý Huệ Tông
Kiến Gia
Lý Sảm
Lý Nguyên vương
Càn Ninh
Không rõ
1214-1216
Thiên Chương
Hữu Đạo[6]
Lý Chiêu Hoàng
Lý Phật Kim (Lý Thiên
Hinh)
1224-1225
^ Nữ vương duy
nhất trong lịch sử
phong kiến Việt
Nam.
Nhà Trần (1225-1400)
939
1225
1400
1945
Vua
Niên hiệu
Tên húy
Trị vì
Trần Thái Tông
Kiến Trung (12251237)
Thiên Ứng Chính
Bình (1238-1350)
Nguyên Phong
(1251-1258)
Trần Cảnh
1225-1258
Thiệu Long (12581272)
Bảo Phù (1273-1278)
Trần Hoảng
1258-1278
Trần Anh TôngThiệu Bảo
(1279-1284)
Trùng Hưng (1285-1293)
Trần Nhân Tông
Hưng Long
Trần Thuyên
1293-1314
Trần Minh Tông
Đại Khánh (13141323)
Khai Thái (13241329)
Trần Mạnh
1314-1329
Trần Hiến Tông
Khai Hữu
Trần Vượng
1329-1341
Trần Dụ Tông
Thiệu Phong
(1341-1357)
Đại Trị (13581369)
Trần Hạo
1341-1369
Trầm Khâm1279-1293Trần
Thánh Tông
Hôn Đức Công
Đại Định
Dương Nhật Lễ
1369-1370
Trần Nghệ Tông
Thiệu Khánh
Trần Phủ
1370-1372
Trần Duệ Tông
Long Khánh
Trần Kính
1372-1377
Trần Phế Đế
Xương Phù
Trần Hiện
1377-1388
Trần Thuận Tông
Quang Thái
Trần Ngung
1388-1398
Trần Thiếu Đế
Kiến Tân
Trần Án
1398-1400
Nhà Hồ (1400-1407)
939
1400 1407
1945
Vua
Niên hiệu
Tên húy
Trị vì
Hồ Quý Ly
Thánh Nguyên
Lê Quý Ly
1400
Hồ Hán Thương
Thiệu Thành
(1401-1402)
Khai Đại (14031407)
Hồ Hán Thương
1401-1407
Nhà Hậu Trần (1407-1413)
939
1407 1413
1945
Vua
Niên hiệu
Tên húy
Trị vì
Giản Định Đế
Hưng Khánh
Trần Ngỗi
1407-1409
Trùng Quang Đế
Trùng Quang
Trần Quý Khoáng
1409-1413
Thời thuộc Minh (1407-1427)
939
1407 1427
1945
Vua
Niên hiệu
Tên húy
Trị vì
Trần Cảo
Thiên Khánh
Trần Cảo
1426-1428
Nhà Hậu Lê - Lê sơ (1428-1527)
939
1428
1527
1945
Vua
Niên hiệu
Tên húy
Trị vì
Lê Thái Tổ
Thuận Thiên
Lê Lợi
1428-1433
Lê Nguyên Long
1433-1442
Lê Bang Cơ
1442-1459
Lê Thái Tông
Lê Nhân Tông
Thiệu Bình (14341440)
Đại Bảo (14401442)
Đại Hòa/Thái Hòa
(1443-1453)
Diên Ninh (14541459)
Lệ Đức Hầu (Lạng Sơn
Vương)
Thiên Hưng (14591460)
Lê Nghi Dân
1459-1460
Lê Thánh Tông
Quang Thuận
(1460-1469)
Hồng Đức (14701497)
Lê Tư Thành (Lê Hạo)
1460-1497
Lê Hiến Tông
Cảnh Thống
Lê Tranh
1497-1504
Lê Túc Tông
Thái Trinh
Lê Thuần
6/1504-12/1504
Lê Uy Mục
Đoan Khánh
Lê Tuấn
1505-1509
Lê Tương Dực
Hồng Thuận
Lê Oanh
1510-1516
Lê Chiêu Tông
Quang Thiệu
(1516-1526)
Lê Y
1516-1522
Lê Cung Hoàng
Thống Nguyên
(1522-1527)
Lê Xuân
1522-1527
Nam - Bắấc triêồu
Bắc Triều - Nhà Mạc (1527-1592)
939
1527 1592
1945
Vua
Niên hiệu
Tên húy
Trị vì
Mạc Thái Tổ
Minh Đức
Mạc Đăng Dung
1527-1529
Mạc Thái Tông
Đại Chính
Mạc Đăng Doanh
1530-1540
Mạc Hiến Tông
Quãng Hòa
Mạc Phúc Hải
1541-1546
Mạc Phúc Nguyên
1546-1561
Mạc Mậu Hợp
1562-1592
Mạc Toàn
1592
Mạc Tuyên Tông
Mạc Mậu Hợp
Mạc Toàn
Vĩnh Định (1547)
Cảnh Lịch (15481553)
Quang Bảo (15541561)
Thuần Phúc (15621565)
Sùng Khang
(1566-1577)
Diên Thành (15781585)
Đoan Thái (15861587)
Hưng Trị (15881590)
Hồng Ninh (15911592)
Vũ An (15921592)
Sau đời Mạc Toàn, con cháu nhà Mạc rút lên Cao Bằng, tồn tại cho đến năm 1677 mới bị diệt
hẳn:
Mạc Kính Chỉ (1592-1593)
Mạc Kính Cung (1593-1625)
Mạc Kính Khoan (1623-1638)
Mạc Kính Vũ (Mạc Kính Hoàn) (1638-1677)
Nam Triều - Nhà Hậu Lê (1533-1788)
939
1533
1788
1945
Vua
Niên hiệu
Tên húy
Trị vì
Lê Trang Tông
Nguyên Hòa
Lê Duy Ninh
1533-1548
Lê Trung Tông
Thuận Bình
Lê Huyên
1548-1556
Thiên Hữu (1557)
Chính Trị (1558Lê Anh Tông
1571)
Lê Duy Bang
1556-1573
Hồng Phúc (15721573)
Gia Thái (15731577)
Lê Thế Tông
Lê Duy Đàm
1573-1599
Quang Hưng
(1578-1599)
Lê Trung Hưng - Trịnh-Nguyễn phân tranh
Trong thời kỳ này các vua Lê chỉ trị vì trên danh nghĩa, quyền lực nằm trong tay chúa Trịnh ở
Đàng Ngoài (miền Bắc) và chúa Nguyễn ở Đàng Trong (miền Nam).
Thận Đức (1600)
Lê Kính Tông
Hoằng Định
Lê Duy Tân
1600-1619
(1601-1619)
Vĩnh Tộ (16201628)
Đức Long (1629Lê Thần Tông (lần thứ 1)
Lê Duy Kỳ
1619-1643
1643)
Dương Hòa (16351643)
Lê Chân Tông
Phúc Thái
Lê Thần Tông (lần thứ 2) Khánh Đức (16491652)
Thịnh Đức (16531657)
Vĩnh Thọ (1658-
Lê Duy Hựu
1643-1649
Lê Duy Kỳ
1649-1662
1661)
Vạn Khánh (1662)
Lê Huyền Tông
Lê Gia Tông
Lê Hy Tông
Lê Dụ Tông
Cảnh Trị
Lê Duy Vũ
1663-1671
Dương Đức (16721773)
Lê Duy Hợi (Lê Duy Cối, Lê
Đức Nguyên
Duy Khoái)
(1674-1675)
Vĩnh Trị (16781680)
Lê Duy Hợp
Chính Hòa (16801705)
Vĩnh Thịnh (17061719)
Lê Duy Đường
Bảo Thái (17201729)
1672-1675
1676-1704
1705-1728
Hôn Đức Công
Vĩnh Khánh
Lê Duy Phường
1729-1732
Lê Thuần Tông
Long Đức
Lê Duy Tường
1732-1735
Lê Ý Tông
Vĩnh Hữu
Lê Duy Thận
1735-1740
Lê Hiển Tông
Cảnh Hưng
Lê Duy Diêu
1740-1786
Lê Mẫn Đế
Chiêu Thống
Lê Duy Khiêm (Lê Duy Kỳ)
1787-1789
Trịnh - Nguyêễn phấn tranh
Chúa Trịnh (1545-1786)
939
1545
1786
1945
Chúa
Tên húy
Trị vì
Thế Tổ Minh Khang Thái Vương
Trịnh Kiểm
1545-1570
Bình An Vương
Trịnh Tùng
1570-1623
Thanh Đô Vương
Trịnh Tráng
1623-1652
Tây Định Vương
Trịnh Tạc
1653-1682
Định Nam Vương
Trịnh Căn
1682-1709
An Đô Vương
Trịnh Cương
1709-1729
Uy Nam Vương
Trịnh Giang
1729-1740
Minh Đô Vương
Trịnh Doanh
1740-1767
Tĩnh Đô Vương
Trịnh Sâm
1767-1782
Điện Đô Vương
Trịnh Cán
1782 (2 tháng)
Đoan Nam Vương
Trịnh Khải
1782-1786
Án Đô Vương
Trịnh Bồng
1786-1787
Chúa Nguyễn (1600-1802)
939
1600
1802
1945
Chúa
Tên húy
Trị vì
Tiên vương (chúa Tiên)
Nguyễn Hoàng
1600-1613
Sãi vương (hay Chúa Bụt)
Nguyễn Phúc Nguyên
1613-1635
Thượng vương
Nguyễn Phúc Lan
1635-1648
Hiền vương
Nguyễn Phúc Tần
1648-1687
Nghĩa vương
Nguyễn Phúc Trăn
1687-1691
Minh vương
Nguyễn Phúc Chu
1691-1725
Ninh vương
Nguyễn Phúc Chú
1725-1738
Vũ Vương
Nguyễn Phúc Khoát
1738-1765
Định Vương
Nguyễn Phúc Thuần
1765-1777
Nguyễn Ánh
Nguyễn Phúc Ánh
1781-1802
Phong kiêấn tái thôấng nhấất (1778-1945)
Nhà Tây Sơn (1778-1802)
939
1778 1802
1945
Vua
Niên hiệu
Tên húy
Trị vì
Thái Đức Hoàng Đế
Thái Đức
Nguyễn Nhạc
1778-1793
Thái Tổ Vũ Hoàng Đế
Quang Trung
Nguyễn Huệ
1788-1792
Cảnh Thịnh Hoàng Đế
Cảnh Thịnh
Bảo Hưng
Nguyễn Quang Toản
1792-1802
Nhà Nguyễn (1802-1945)
939
1802
1945
Niên hiệu
Miếu hiệu
Tên húy
Trị vì
Gia Long
Nguyễn Thế Tổ
Nguyễn Phúc Ánh
1802-1819
Minh Mạng
Nguyễn Thánh Tổ
Nguyễn Phúc Đảm
1820-1840
Thiệu Trị
Tự Đức
Nguyễn Hiến Tổ
Nguyễn Phúc Miên Tông
1841-1847
Nguyễn Dực Tông Nguyễn Phúc Hồng Nhậm
1848-1883
Dục Đức
Nguyễn Cung
Tông
Nguyễn Phúc Ưng Ái
(Nguyễn Phúc Ưng Chân)
1883 (3 ngày)
Hiệp Hoà
không có
Nguyễn Phúc Hồng Dật
6/1883-11/1883
Kiến Phúc
Nguyễn Giản Tông
Nguyễn Phúc Ưng Đăng
12/1883-8/1884
Hàm Nghi
không có
Nguyễn Phúc Ưng Lịch
8/1884-8/1885
Đồng Khánh
Nguyễn Cảnh
Tông
Nguyễn Phúc Ưng Kỷ
1885-1888
Thành Thái
không có
Nguyễn Phúc Bửu Lân
1889-1907
Duy Tân
không có
Nguyễn Phúc Vĩnh San
1907-1916
Khải Định
Nguyễn Hoằng
Tông
Nguyễn Phúc Bửu Đảo
1916-1925
Bảo Đại
không có
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy
1926-1945
Thống kê
Nếu không tính Hùng Vương là thời kỳ huyền sử còn nhiều nghi vấn, có thể đưa ra các thống kê
về vua Việt Nam và các triều đại Việt Nam như sau (không tính các thời Bắc thuộc)[3]:
Về các vua
Hoàng đế đầu tiên: Lý Nam Đế (544 - 548) với niên hiệu đầu tiên là Thiên Đức
Hoàng đế cuối cùng: Bảo Đại (1925 - 1945)
Ở ngôi lâu nhất: Triệu Vũ Vương Triệu Đà: 70 năm (207-137 TCN), Lý Nhân Tông Càn
Đức: 56 năm (1072 - 1127), Lê Hiển Tông Duy Diêu: 47 năm (1740 - 1786), Lê Thánh
Tông Tư Thành: 37 năm (1460 - 1496)
Ở ngôi ngắn nhất: Tiền Lê Trung Tông Long Việt: 3 ngày (1006), Dục Đức (Nguyễn
Cung Tông): 3 ngày (1883)
Lên ngôi trẻ nhất: Lê Nhân Tông lúc 1 tuổi (1442); Mạc Mậu Hợp lúc 2 tuổi (1562); Lý
Cao Tông lúc 3 tuổi; Lý Anh Tông cũng 3 tuổi; Lý Chiêu Hoàng lúc 6 tuổi (1224).
Lên ngôi già nhất: Trần Nghệ Tông Phủ, khi 50 tuổi (1370); Triệu Đà khi 50 tuổi (207
TCN)
Trường thọ nhất: Bảo Đại 85 tuổi (1913-1997), vua Trần Nghệ Tông 74 tuổi (1321 1394). Nếu tính Triệu Đà thì Triệu Đà là vua thọ nhất: 120 tuổi (257-137 TCN) (theo Đại
Việt Sử ký Toàn thư). Ngoài ra, nếu tính cả các chúa thì chúa Nguyễn Hoàng thọ hơn
Bảo Đại: 89 tuổi (1525 - 1613)
Sống nhiều năm nhất ở nước ngoài trong thời gian làm vua: Bảo Đại
Yểu thọ nhất: Tiền Lê Trung Tông (Lê Long Việt); Hậu Lê Gia Tông Duy Khoái 15 tuổi
(1661 - 1675)
Vua đặt nhiều niên hiệu nhất: Lý Nhân Tông có 8 niên hiệu
Vua có niên hiệu sử dụng lâu nhất: Lê Hiển Tông - niên hiệu Cảnh Hưng trong 47 năm
(1740-1786)
Vua có tôn hiệu dài nhất: Lý Thái Tổ (được truy tôn hiệu dài 52 chữ)
Nữ vương đầu tiên: Trưng Vương (Trưng Trắc) (vì chỉ xưng vương) (40-43)
Nữ hoàng duy nhất: Lý Chiêu Hoàng Phật Kim (1224 - 1225), vợ vua Trần Thái Tông
Cảnh (1226 - 1258).
Vua lập nhiều hoàng hậu nhất: Lý Thái Tổ lập 9 hoàng hậu (6 bà lập năm 1010, 3 bà lập
năm 1016).
Vua duy nhất ở ngôi 2 lần: Hậu Lê Thần Tông (1619-1643 và 1649-1662)
Vua Việt Nam đầu tiên lấy vợ người phương Tây: Lê Thần Tông (Lê Duy Kỳ) lấy vợ
người Hà Lan
Vua có nhiều con làm vua: 2 người mỗi người có 4 người con làm vua. Thứ nhất là Trần
Minh Tông cha của Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông và Trần Duệ Tông.
Thứ hai là Lê Thần Tông cha của Lê Duy Hựu (Chân Tông); Lê Duy Vũ (Huyền Tông);
Lê Duy Cối; (Gia Tông); Lê Duy Hợp (Hy Tông).
Vua có nhiều con rể làm vua nhất: Lê Hiển Tông có 3 con rể làm vua là Nguyễn Huệ (lấy
công chúa Lê Ngọc Hân), Nguyễn Quang Toản (lấy công chúa Lê Ngọc Bình) và Nguyễn
Ánh (cũng lấy Ngọc Bình). Nhưng khi còn sống ông chỉ chứng kiến Nguyễn Huệ làm con
rể mình.
Vua có nhiều loại tiền mang niên hiệu nhất: Lê Hiển Tông đã cho đúc 16 loại tiền Cảnh
Hưng trong thời gian làm vua
Vua trăm trận trăm thắng: Quang Trung (Nguyễn Huệ) (1753 - 1792)
Người mở đất mạnh nhất, rộng nhất: Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725)
Vua nhiều con nhất Minh Mệnh (Nguyễn Phúc Đảm) (1790 -1840) con chính thức là 142
gồm 78 trai, 64 gái
Vua có nhiều vợ mà không có người con nào: Tự Đức (Nguyễn Phúc Hồng Nhậm) có
300 vợ.
Vua làm nhiều thơ văn nhất: Tự Đức để lại 4000 bài thơ chữ Hán, 100 bài thơ Nôm, 600
bài văn[4].
Về các triều đại
Triều đại tồn tại lâu nhất: nhà Hậu Lê 356 năm (1428 - 1527 và 1533 - 1788).
Triều đại tồn tại ngắn nhất: nhà Hồ 8 năm (1400 - 1407).
Triều đại truyền nhiều đời vua nhất: nhà Hậu Lê: 27 vua (từ Thái Tổ đến Chiêu Thống),
nhà Trần (kể cả Hậu Trần) 14 vua.
Triều đại truyền ít đời nhất: nhà Thục 1 vua.
Triều đại truyền qua nhiều thế hệ nhất: nhà Hậu Lê 14 đời (từ Thái Tổ Lê Lợi đến Trung
Tông Duy Huyên, rồi từ Anh Tông Duy Bang đến Chiêu Thống Duy Kỳ), sau đó là nhà
Lý: 9 đời (từ Thái Tổ Công Uẩn đến Chiêu Hoàng Phật Kim).
Triều đại xảy ra phế lập, sát hại các vua nhiều nhất: Nhà Lê sơ 6/11 vua. Nếu tính cả các
vua không chính thức là Lê Quang Trị (1516), Lê Bảng và Lê Do (1519) thì tổng cộng có
9/14 vua.
Triều đại có các vua bị bắt đi đày ra nước ngoài nhiều nhất: Nhà Nguyễn
Thái thượng hoàng
Thái thượng hoàng gọi tắt là thượng hoàng, ngôi vị mang nghĩa là "vua bề trên" trong triều.
Tùy từng hoàn cảnh lịch sử, thực quyền của thượng hoàng khác nhau. Thượng hoàng có thể giao
toàn quyền cho vua hoặc vẫn nắm quyền chi phối việc triều chính; hoặc có thể thượng hoàng chỉ
mang danh nghĩa.
Thông thường thượng hoàng là cha vua, nhưng có các trường hợp không phải như vậy: Thượng
hoàng Trần Nghệ Tông truyền ngôi cho em là Duệ Tông, Duệ Tông mất lại lập cháu gọi bằng
bác là Phế Đế; Thượng hoàng Mạc Thái Tổ truyền ngôi cho con là Thái Tông, Thái Tông mất
sớm lại lập cháu nội là Hiến Tông; Thượng hoàng Lê Ý Tông là chú của vua Lê Hiển Tông.
Triều đại có nhiều thượng hoàng nhất là nhà Trần với 9 thượng hoàng. Ngoài 7 thượng hoàng
nhà Trần từ Trần Thừa tới Nghệ Tông cùng Mạc Thái Tổ, các thượng hoàng còn lại trong lịch sử
Việt Nam đều không tự nguyện làm thượng hoàng mà do sự sắp đặt của quyền thần trong triều.
- Xem thêm -