Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Việt hóa các chương trình thiếu nhi trên kênh truyền hình HTV3...

Tài liệu Việt hóa các chương trình thiếu nhi trên kênh truyền hình HTV3

.PDF
112
315
82

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN __________________________________________________________________________ NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN “VIỆT HÓA” CÁC CHƯƠNG TRÌNH THIẾU NHI TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH HTV3 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2013 Trang 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN __________________________________________________________________________ NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN “VIỆT HÓA” CÁC CHƯƠNG TRÌNH THIẾU NHI TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH HTV3 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC MÃ SỐ: 60.32.01 Người hướng dẫn khoa học: TS.Trần Ngọc Châu Thành phố Hồ Chí Minh - 2013 Trang 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 0.1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................................... 7 0.2. Lịch sử nghiên cứu đề tài .............................................................................................................. 8 0.3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 11 0.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 12 0.5. Phương pháp lý luận và phương pháp nghiên cứu .................................................................... 13 0.6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ............................................................................... 14 0.7. Bố cục của luận văn .................................................................................................................... 15 Chương 1 “VIỆT HÓA” CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO THIẾU NHI – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN 1.1. Vấn đề “Việt hóa” chương trình truyền hình ............................................................................. 16 1.1.1. Khái niệm “Việt hóa” ........................................................................................................... 16 1.1.2. “Việt hóa” chương trình truyền hình .................................................................................. 17 1.1.3. Những khía cạnh kỹ thuật của vấn đề “Việt hoá” chương trình truyền hình ..................... 21 1.1.4. Các mức độ “Việt hoá” ........................................................................................................ 23 1.2. Những khía cạnh đặc thù về đối tượng thiếu nhi trong xã hội truyền hình ............................... 25 1.3. Chương trình truyền hình dành cho thiếu nhi ở Việt Nam......................................................... 35 1.4. Chương trình mua bản quyền nước ngoài ................................................................................. 38 1.5. Vấn đề chất lượng chương trình truyền hình ............................................................................. 39 1.6. Tiểu kết ....................................................................................................................................... 42 Chương 2 KHẢO SÁT NỘI DUNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH “VIỆT HÓA” DÀNH CHO THIẾU NHI TRÊN KÊNH HTV3 2.1. Tổng quan về kênh HTV3........................................................................................................... 44 2.1.1. Giới thiệu Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTV).................................................. 44 2.1.2. Các thể loại chương trình chính trên kênh HTV3 ................................................................ 45 Trang 5 2.1.3. Hợp tác giữa HTV và TVM để phát triển chương trình trên kênh HTV3 ............................. 46 2.2. Các hình thức “Việt hóa” chương trình truyền hình ................................................................. 50 2.2.1.Các chương trình “Việt hóa” đơn giản................................................................................. 50 2.2.2. Các chương trình “Việt hoá” một phần............................................................................... 65 2.2.3.Các chương trình “Việt hoá” toàn phần............................................................................... 74 2.3. Tiểu kết ....................................................................................................................................... 81 Chương 3 ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHƯƠNG TRÌNH “VIỆT HÓA” DÀNH CHO THIẾU NHI TRÊN KÊNH HTV3 3.1. Đề xuất nâng cao chất lượng chương trình ................................................................................ 85 3.1.1. Xây dựng chiến lược phát triển kênh trên quan điểm hội nhập quốc tế ............................ 85 3.1.2. Tiếp nhận văn hoá có chọn lọc ............................................................................................ 88 3.1.3. Định hướng phát triển chương trình theo hướng giáo dục kết hợp giải trí ....................... 89 3.1.4. Đa dạng hóa nội dung ......................................................................................................... 90 3.1.5. Tăng cường đào tạo đội ngũ sản xuất chương trình .......................................................... 92 3.1.6. Nghiên cứu điều chỉnh lịch phát sóng phù hợp với công chúng thiếu nhi .......................... 93 3.1.7. Xây dựng và áp dụng định dạng về phong cách ngôn ngữ phù hợp với công chúng mục tiêu ...................................................................................................................................... 96 3.1.8. Tổ chức nghiên cứu đối thủ để học hỏi và cạnh tranh ........................................................ 97 3.2. Kiến nghị ..................................................................................................................................... 98 3.2.1. Kiến nghị đối với nhà sản xuất truyền hình......................................................................... 98 3.2.2. Kiến nghị đối với xã hội ..................................................................................................... 101 3.2.3. Kiến nghị đối với các bậc cha mẹ ...................................................................................... 105 3.3. Tiểu kết ..................................................................................................................................... 108 KẾT LUẬN....................................................................................................................... 109 TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................... 112 Trang 6 MỞ ĐẦU 0.1. Lý do chọn đề tài Thời gian qua, trong xu thế phát triển chung của xã hội truyền hình Việt Nam, số lượng kênh truyền hình và chương trình truyền hình dành cho thiếu nhi ở nước ta nói chung và ở HTV nói riêng cũng đã tăng lên rõ rệt. Đối tượng công chúng truyền hình là thiếu nhi chiếm giữ một góc quan trọng trong xã hội truyền hình và đòi hỏi những chương trình có tính chuyên biệt rất cao. Để đáp ứng được yêu cầu đó, một bộ phận không nhỏ các chương trình truyền hình dành cho thiếu nhi ở Việt Nam là những chương trình mua bản quyền nước ngoài. Thực tế này giúp các đài truyền hình có thể nhanh chóng đa dạng hóa về thể loại, nội dung lẫn hình thức thể hiện cho các chương trình truyền hình dành cho thiếu nhi để đáp ứng nhu cầu thực tế trong khi chờ đợi sự trưởng thành về kinh nghiệm thiết kế chương trình truyền hình thiếu nhi của đội ngũ làm truyền hình trong nước. HTV3 - kênh truyền hình dành cho thiếu nhi duy nhất của HTV cũng không ngoại lệ. Các chương trình nước ngoài nổi tiếng phát sóng trên kênh HTV3 được mua bản quyền từ nhiều nước trên thế giới như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ… nhằm tạo thêm nhiều sự lựa chọn, nhiều sản phẩm tinh thần đáp ứng nhu cầu thưởng thức của trẻ em Việt Nam. HTV cũng như nhiều đơn vị sản xuất chương trình truyền hình khác đã chọn lựa, nhập khẩu nhiều chương trình truyền hình hay, nổi tiếng với đủ các thể loại: phim hoạt hình (Đôrêmon– Chú mèo máy đến từ tương lai, Ben 10, Thám tử lừng danh Conan, Thủ lĩnh thẻ bài,…), trò chơi truyền hình, Phim truyền hình (Tuổi ô mai, Tây du ký, Cẩm nang của Ned,…), phim điện ảnh (Kỷ băng hà, Mèo siêu quậy Garfield, Garfield ở thế giới thực, Horton và thế giới tí hon, Barbie – Công chúa thiên Trang 7 nga,…) các chương trình giải trí dành cho thiếu nhi (Vui cùng Giggles, Các em bé Teletubbies, Vũ điệu hồn nhiên, Yoga cho bé, Học làm giàu, Giới trẻ vào bếp,…), chương trình giải trí truyền hình thực tế (Con đã lớn khôn)… Các chương trình được chọn mang tính giải trí lành mạnh, có đặc điểm, màu sắc văn hóa phù hợp với Việt Nam. Hơn nữa, vì là những sản phẩm hướng tới đối tượng khán giả nhỏ tuổi nên quá trình “Việt hóa” được thực hiện rất cẩn trọng về ngôn từ và được biên tập một cách kỹ lưỡng, đảm bảo về mặt nội dung mang tính giáo dục cũng như giữ gìn được sự trong sáng của tiếng Việt, đồng thời giúp trẻ em dễ tiếp thu, phù hợp với khả năng nắm bắt và thấu hiểu của trẻ em. Chính vì vậy, nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu cách chọn chương trình, xử lý chuyển đổi ngôn ngữ gốc sang tiếng Việt một số chương trình nước ngoài (đa số đã được quốc tế hoá sang tiếng Anh) dành cho thiếu nhi càng cần thiết hơn. Được sự đồng ý của cán bộ hướng dẫn là Tiến sĩ Trần Ngọc Châu, người viết đã thống nhất chọn đề tài “Việt hóa các chƣơng trình thiếu nhi trên kênh truyền hình HTV3” để tìm hiểu, phân tích về sự hấp dẫn cũng như tác động của các chương trình dành cho đối tượng khán giả là thiếu nhi. Trước khi quyết định thực hiện đề tài, chúng tôi đã tìm hiểu tài liệu lưu trữ về những đề tài, công trình nghiên cứu đã thực hiện trước đây với đề tài tương tự. 0.2. Lịch sử nghiên cứu đề tài Để thực hiện đề tài chúng tôi đã tham khảo, nghiên cứu một số luận án, luận văn, sách, dự án, công trình nghiên cứu,… liên quan đến vấn đề ở các khía cạnh: các thể loại chương trình dành cho thiếu nhi hiện nay, tâm lý khán giả, nhất là khán giả trẻ em và cả những người cùng xem với các em, văn hóa xem truyền hình,… Trong giới hạn tìm hiểu của tác giả, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề “Việt hoá” mảng tin tức. Việc chuyển dịch tin quốc tế vào tiếng Trang 8 Việt đã được Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN), cơ quan thông tấn duy nhất và chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng) và Nhà nước Việt Nam, thực hiện ngay từ những năm đầu thành lập. Có thể nói, cơ quan này đã đạt được những thành công to lớn về thực hành chuyển dịch tin quốc tế sang tiếng Việt phục vụ cho nhiều cơ quan truyền thông đại chúng khác và đặc biệt là phục vụ công chúng báo chí Việt Nam trong suốt mấy chục năm qua. Gần đây, một số cơ quan truyền thông như Đài tiếng nói Việt Nam (Đài TNVN), Đài truyền hình Việt Nam (Đài THVN), Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội (Đài PTTH Hà Nội), báo Nhân dân và một số tờ báo khác, ngoài việc sử dụng tin quốc tế đối nội của TTXVN, đã tự tổ chức chuyển dịch tin quốc tế theo nhu cầu riêng. Bắt đầu từ năm 1995, PGS. TS. Vũ Quang Hào đã có ý tưởng nghiên cứu quá trình chuyển dịch sản phẩm báo chí từ nước ngoài sang tiếng Việt. Ý tưởng này đã được thể hiện thông qua việc hướng dẫn một số luận văn cử nhân ngành báo chí học. Và trong khuôn khổ lúc bấy giờ, PGS. TS. Vũ Quang Hào mới chỉ tập trung hướng dẫn sinh viên nghiên cứu về chuyển dịch tin thế giới chứ chưa mở rộng ra các loại sản phẩm báo chí khác. Đầu tiên phải kể đến luận văn của Hồ Hương Giang, Quá trình xử lí tin quốc tế vào Việt Nam và sự thể hiện trên mặt báo của tin quốc tế, Khoa báo chí, Đại học tổng hợp Hà Nội, 1995; Trần Long Hải, Dịch tin – Tin dịch, Khoa Báo chí, Đại học tổng hợp Hà Nội, 1996; Mai Thị Thanh Hà, Vấn đề thể hiện tin quốc tế bằng tiếng Việt trên Đài truyền hình Việt nam, Khoa Báo chí, Đại học KHXH và NV, 1998; Cai Ánh Nguyệt, Vấn đề biên tập tin quốc tế tiếng Việt ở Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội, Khoa Báo chí, Đại học KHXH và NV, 1998; Nguyễn Phương Anh, Sự tương đồng và khác biệt giữa ngôn ngữ tin quốc tế và ngôn ngữ tin trong nước, Khoa Báo chí, Đại học KHXH và NV, 2000; Nguyễn Thị Thu Hường, Chuyển dịch tin quốc tế và sự Trang 9 thể hiện tin quốc tế bằng tiếng Việt trên báo Nhân Dân, Khoa Báo chí, Đại học KHXH và NV, 2000. Những công trình nói trên tuy đã nói đến quá trình “Việt hóa” nhưng vẫn xem xét trên phương diện “Việt hóa” tin tức. Phải chờ đến khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Thanh Hằng thực hiện vào năm 2011 đề tài Cách xử lý Tạp chí Công chúa sang tiếng Việt từ bản gốc tiếng Anh Princess, Khóa luận tốt nghiệp ngành báo chí, Đại học KHXH&NV Hà Nội, do PGS. TS. Vũ Quang Hào hướng dẫn, một loại sản phẩm báo chí khác ngoài tin mới được nghiên cứu xem cách thức chuyển dịch và “Việt hóa” như thế nào để phù hợp với đối tượng công chúng Việt Nam. Tuy nhiên đây là đề tài về “Việt hoá” trên báo in, tác giả đã đưa ra được một số kết luận về nội dung, cách trình bày cũng như mức độ, thể loại bài được “Việt hoá” sao cho phù hợp với độc giả là thiếu nhi ở Việt Nam. Tuy nhiên vấn đề mà Thanh Hằng nghiên cứu ở đây vẫn là sản phẩm báo in. Về sản phẩm truyền hình (ngoài tin quốc tế bằng hình) hiện chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến. Luận văn của chứng tôi là tài liệu đầu tiên xem xét vấn đề “Việt hóa” sản phẩm truyền hình từ nước ngoài vào Việt Nam. Một số đề tài về truyền hình đã được tác giả tham khảo: - Khóa luận tốt nghiệp ngành báo chí Các chương trình thiếu nhi trên HTV hiện nay của tác giả Nguyễn Viên An, thực hiện năm 2007, Đại học KHXH&NV TPHCM đã đề cập đến một số chương trình dành cho thiếu nhi trên HTV, những điểm mạnh và chưa đạt được của một số chương trình dành cho thiếu nhi. - Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí, Đại học KHXH&VN Hà Nội của tác giả Trần Thị Hồng Vân năm 2011 với đề tài Xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình qua sản phẩm Trang 10 của các công ty truyền thông: Cát Tiên Sa, LASTA, Hoa Hồng Vàng từ năm 2008 đến năm 2010 trên sóng Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh cũng là một tài liệu tham khảo chi tiết về vấn đề hợp tác sản xuất chương trình truyền hình để phát triển các kênh của HTV trong những năm gần đây. Như vậy, chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề “Việt hóa” các chương trình truyền hình, nhất là chương trình dành cho thiếu nhi. Cái mới và cái không trùng lắp của luận văn này chính là việc phân tích quy trình tổ chức sản xuất, “Việt hoá” cho đến phát sóng các chương trình truyền hình dành cho thiếu nhi như thế nào để vừa có ý nghĩa giáo dục vừa mang tính giải trí cao cho nhóm đối tượng đặc biệt này. 0.3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu của luận văn là tìm hiểu về “Việt hoá” của các chương trình thiếu nhi mua bản quyền nước ngoài phát sóng trên kênh HTV3. Không chỉ tìm hiểu về nội dung các chương trình, tác giả còn tìm hiểu các quy trình đánh giá, mua bản quyền và những cách thức “Việt hoá” một chương trình truyền hình hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả chọn khảo sát, phân tích, đánh giá 5 chương trình thiếu nhi mua bản quyền nước ngoài đã được “Việt hoá” ở nhiều thể loại, hình thức thể hiện khác nhau đã phát sóng trên kênh HTV3: 1. Hoạt cảnh: Teletubbies – Các em bé rối Teletubbies, 2. Phim hoạt hình: Đôrêmon – Chú mèo máy đến từ tương lai, 3. Chương trình giải trí: Yoga cho trẻ em, 4. Giáo dục: Dạy từ vựng tiếng Anh, 5. Truyền hình thực tế (Reality): Con đã lớn khôn. Sau khi khảo sát, tác giả tiến hành đánh giá chất lượng, hiệu ứng của từng chương trình đối với khán giả trẻ em, đặc biệt là ý kiến của phụ huynh Trang 11 (có thể là ông bà, cha mẹ, những người cùng xem (co-watchers) với con, cháu…) về những chương trình “Việt hóa” này. Trên cơ sở thực tiễn đó tác giả đưa ra một số đề xuất về cách chọn và tổ chức sản xuất “Việt hóa” và giờ phát sóng các chương trình nước ngoài trên kênh HTV3 cho phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi. Sau cùng là một vài kiến nghị để các chương trình “Việt hoá” có thể kết hợp hài hòa giữa tính giáo dục và tính giải trí, kết hợp giữa sự bảo tồn văn hóa dân tộc về bản sắc với sự hội nhập quốc tế một cách uyển chuyển, phù hợp với đối tượng thiếu nhi Việt Nam. 0.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề “Việt hoá” các chương trình truyền hình nước ngoài trên một một nhóm sản phẩm truyền hình dành cho nhóm công chúng đặc thù là thiếu nhi phát sóng trên kênh HTV3 của Đài Truyền hình TP.HCM. Với điều kiện nghiên cứu giới hạn, trong hàng trăm chương trình nước ngoài đã được “Việt hóa” và phát sóng mới trên kênh HTV3 từ năm 2010 đến 6/2012, chúng tôi chỉ chọn khảo sát chính 5 chương trình nhận được nhiều sự quan tâm, ảnh hưởng xã hội cũng như phản hồi từ phía khán giả (Qua khảo sát thực tế và thống kê khán giả xem Đài của HTV) với nhiều thể loại khác nhau như: 1. Hoạt cảnh: Teletubbies – Các em bé rối Teletubbies 2. Phim hoạt hình: Đôrêmon – Chú mèo máy đến từ tương lai 3. Chương trình giải trí: Yoga cho trẻ em 4. Giáo dục: Dạy từ vựng tiếng Anh 5. Truyền hình thực tế (Reality): Con đã lớn khôn Trang 12 Công chúng khảo sát của luận văn tập trung chủ yếu vào đối tượng là trẻ em lứa tuổi mầm non từ 3 - 6 tuổi, phụ huynh và những chương trình thiếu nhi có yếu tố nước ngoài đã được “Việt hóa” và phát sóng trên kênh truyền hình HTV3 từ năm 2010 đến 6/2012. Sau khi thống kê chương trình; phỏng vấn các nhà sản xuất và khán giả; thu thập thông tin từ các trang mạng và xét mức độ ảnh hưởng của từng chương trình ra toàn xã hội (ảnh hưởng của hình ảnh các nhân vật trong phim tới mọi sinh hoạt của các em như Siêu nhân, Người Nhện, Robot trái cây, xe hơi, người máy biến hình, Ben 10, các em bé Teletubbies, mèo máy Đôrêmon…). Hiện nay chúng ta dễ dàng tìm thấy hình ảnh của những nhân vật tưởng tượng này trên quần áo, giày dép, cặp sách, vở học sinh, viết, thước, thú nhồi bông, đồ chơi bằng nhựa… Qua khảo sát chúng tôi sẽ lấy ý kiến của phụ huynh về ảnh hưởng của các nhân vật trong các chương trình thiếu nhi hiện nay đến các em. 0.5. Phương pháp lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận báo chí truyền thông, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển sự nghiệp thông tin - báo chí; các tài liệu, giáo trình, sách tham khảo, báo và tạp chí trong và ngoài nước, các tài liệu có liên quan đến nội dung nghiên cứu về truyền thông đối với trẻ em. Luận văn vận dụng những nghiên cứu thực tế các chương trình truyền hình “Việt hoá” dành cho thiếu nhi phát sóng trên kênh HTV3. Để việc nghiên cứu đề tài có cơ sở và phương pháp luận vững chắc, luận văn sử dụng 3 phương pháp chủ đạo: - Phương pháp thống kê (định lượng) - Phương pháp phỏng vấn. Tác giả đã thực hiện khảo sát bằng bảng hỏi (an-ket, diary) đối với các em thiếu nhi, phụ huynh và phỏng vấn sâu các chuyên gia, các nhà quản lý, những người trực tiếp thực hiện chương trình… Trang 13 - Phương pháp phân tích (đối chiếu, so sánh; định tính) 0.6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Thành công và cũng là kết quả nghiên cứu mới của tác giả chính là ở chỗ đã tìm ra một số quá trình riêng của HTV3 trong việc “Việt hoá” chương trình truyền hình cho thiếu nhi, kết hợp hài hòa giữa tính giáo dục và tính giải trí, kết hợp giữa sự bảo tồn văn hóa dân tộc về bản sắc, với sự hội nhập quốc tế một cách uyển chuyển, phù hợp với đối tượng thiếu nhi. Và không chỉ với đối tượng thiếu nhi ở thành phố Hồ Chí Minh mà theo tôi nghĩ còn có thể áp dụng cho thiếu nhi ở thủ đô Hà Nội và một số thành phố khác. Nhận thấy đây là một đề tài hay và là vấn đề được nhiều người quan tâm, người viết hy vọng việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần cho sự tìm hiểu, nghiên cứu về công tác truyền bá thông tin mà đối tượng nghiên cứu là chương trình nước ngoài đã được “Việt hóa” trên kênh HTV3. Sau khi nghiên cứu, khảo sát, chúng tôi sẽ tiến hành đánh giá chất lượng, hiệu ứng đối với khán giả, đặc biệt là phụ huynh đối với những chương trình nước ngoài dành cho thiếu nhi Việt Nam hiện nay. Qua những ưu khuyết điểm của từng chương trình truyền hình được “Việt hóa” trên kênh HTV3, tác giả tổng kết và đưa ra những đề xuất, kiến nghị tối ưu nhất đóng góp cho những người trực tiếp tạo ra sản phẩm truyền hình dành cho thiếu nhi. Từ đó phát huy tính sáng tạo cũng như nâng cao khả năng tự sản xuất của đội ngũ làm truyền hình cho thiếu nhi Việt Nam, những người trực tiếp làm ra những sản phẩm thuần Việt cho khán giả nhỏ Việt Nam bên cạnh các chương trình nước ngoài được “Việt hoá”. Điều này cũng là hướng phát triển tất yếu của truyền hình dành cho thiếu nhi khi mà ngày càng có nhiều kênh truyền hình dành cho thiếu nhi trong và ngoài nước ra đời cạnh tranh như BiBi, Cartoon Network (CN), Disney Chanel, Disney Junior…. Trang 14 Trên cơ sở thực tiễn đó chúng tôi sẽ đề cập và kiến nghị về cách chọn và tổ chức sản xuất “Việt hóa”, các chương trình nước ngoài trên kênh HTV3 cho phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi, cập nhật được những tiến bộ về công nghệ sản xuất chương trình truyền hình của thế giới nhưng vẫn bảo đảm phù hợp với phong tục tập quán của người Việt Nam. Chúng tôi cũng hy vọng đề tài sẽ đóng góp được một vài tư liệu, tài liệu tham khảo cho các cơ quan truyền thông, đặc biệt là những người đang công tác trong lĩnh vực truyền hình, truyền thông và những ai quan tâm đến lĩnh vực này. 0.7. Bố cục của luận văn Ngoài Mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn được tổ chức thành 3 chương. Chương 1 tập trung trình bày một số vấn đề lý thuyết và thuật ngữ liên quan đến vấn đề “Việt hoá” chương trình truyền hình, đặc biệt là chương trình truyền hình dành cho lứa tuổi thiếu nhi, làm cơ sở những nội dung phân tích, khảo sát và đề xuất giải pháp ở những chương tiếp theo. Chương 2 trình bày kết quả khảo sát cụ thể về nội dung và cách thức tổ chức “Việt hoá” các chương trình truyền hình thiếu nhi trên kênh HTV3 của Đài Truyền hình TP.HCM. Cụ thể, chúng tôi trình bày kết quả khảo sát 5 chương trình truyền hình có mức độ “Việt hoá” khác nhau. Trên cơ sở lý thuyết ở chương 1 và kết quả khảo sát ở chương 2, chương 3 của luận văn trình bày các ý kiến đề xuất và kiến nghị nâng cao chất lượng các “Việt hoá” các chương trình truyền hình dành cho thiếu nhi trên kênh HTV3. Trang 15 Chương 1 “VIỆT HÓA” CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO THIẾU NHI – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN 1.1. Vấn đề “Việt hóa” chương trình truyền hình 1.1.1. Khái niệm “Việt hóa” “Việt hóa” thật ra là cách nói thông dụng để chỉ quá trình điều chỉnh, biến đổi một đối tượng có nguồn gốc nước ngoài sao cho phù hợp với môi trường ngôn ngữ, xã hội, văn hóa Việt Nam. Quá trình này, trước hết, có liên quan đến hiện tượng bản địa hóa ngôn ngữ (language localization). Theo Wikipedia, bản địa hóa ngôn ngữ là giai đoạn tiếp theo của một quá trình lớn hơn diễn ra trước đó (quá trình quốc tế hóa), bao gồm việc dịch sản phẩm và giúp sản phẩm đó thích ứng văn hóa (đối với quốc gia, khu vực, hoặc nhóm cụ thể) cho thị trường riêng biệt. Bản địa hóa ngôn ngữ không chỉ là một hoạt động dịch thuật thuần túy, mà nó liên quan đến việc nghiên cứu toàn diện về nền văn hóa bản địa để giúp sản phẩm thích ứng một cách chính xác với nhu cầu địa phương”. Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam nhận diện hiện tượng “Việt hóa” dưới góc độ giao lưu ngôn ngữ, xem đó là mức độ cao nhất (kết quả cuối cùng) của quá trình nhập hệ các yếu tố ngôn ngữ được vay mượn vào tiếng Việt. Ví dụ, từ commissaire của tiếng Pháp được “Việt hóa” thành từ “cẩm”, “cò” (cảnh sát trưởng thời Pháp thuộc), từ chambre “Việt hóa” thành “săm”, từ enveloppe “Việt hóa” thành “lốp”, từ gare “Việt hóa” thành “ga”, … Bản thân tiến trình đi từ yếu tố xa lạ tới yếu tố được người Việt chấp nhận, trong đó vừa có sự đồng hóa yếu tố xa lạ (quá trình thuận), vừa có sự biến đổi các đặc điểm cấu trúc của bản thân tiếng Việt để đủ tiềm năng vật chất hấp thụ yếu tố xa lạ (quá trình ngược – tự biến đổi). Trên thực tế, “Việt hóa” không Trang 16 chỉ là quá trình diễn ra ở bình diện giao lưu ngôn ngữ, mà còn diễn ra ở nhiều lĩnh vực khác, cần được nhận diện như là một quá trình tiếp biến văn hóa (acculturation). Sự tiếp xúc, giao thoa giữa các nền văn hoá luôn luôn diễn ra trong quá trình phát triển của nhân loại. Đó là một nhu cầu tất yếu, một quy luật của phát triển. Trong quá trình giao thoa văn hóa, có thể xảy ra hiện tượng các yếu tố của nền văn hoá này thâm nhập vào nền văn hoá kia hoặc nền văn hóa này vay mượn các yếu tố của nền văn hoá kia rồi cải biến điều chỉnh cho phù hợp dẫn đến sự tiếp biến văn hóa. Như vậy, “Việt hóa” không chỉ đơn thuần là quá trình chuyển dịch ngôn ngữ cho một đối tượng nào đó đến từ bên ngoài nền văn hóa – ngôn ngữ Việt Nam, mà còn là quá trình biến đổi đối tượng ấy sao cho phù hợp với năng lực thấu cảm văn hóa và nhu cầu của người Việt, phù hợp với môi trường văn hóa – nhân văn Việt Nam mà vẫn giữ được những nét tiêu biểu của đối tượng gốc. 1.1.2. “Việt hóa” chương trình truyền hình Để đáp ứng nhu cầu giải trí ngày càng cao của khán giả truyền hình, nhiều Đài truyền hình cũng như các nhà sản xuất chương trình truyền hình Việt Nam đã chọn phương án mua bản quyền và nhập khẩu nhiều chương trình truyền hình hay, nổi tiếng với đủ các thể loại: trò chơi truyền hình, phim truyện, phim hoạt hình, các chương trình giải trí, truyền hình thực tế,… Những chương trình truyền hình này thường được thiết kế và sản xuất với mức độ chuyên nghiệp rất cao và với sự đầu tư công phu về công nghệ tổ chức, sản xuất. Đây cũng là những chương trình đã giành được sự thành công trên thị trường truyền hình ở các nước, thu hút được người xem truyền hình với tỷ lệ theo dõi rất cao. Việc mua bản quyền và nhập khẩu các chương trình truyền hình nước ngoài có những khía cạnh hấp dẫn về nội dung văn hóa lẫn về phương diện tài chính đối với các đài truyền hình trong nước vốn chưa theo kịp trình độ sản xuất truyền hình so với các nước phát triển. Trang 17 Tuy nhiên, những chương trình “Việt hóa” phải lệ thuộc nhiều vào định dạng chương trình nên đôi khi những người thực hiện gặp khó khăn trong việc xử lý sự khác biệt giữa văn hóa Việt Nam với những nền văn hóa khác trên thế giới. Điều chỉnh chương trình để phù hợp với văn hóa Việt Nam nhưng vẫn giữ được khung thiết kế (format) của chương trình là một thử thách lớn đối với người tham gia sản xuất chương trình truyền hình dạng này, vì chắc chắn những ràng buộc trong cam kết bản quyền với đối tác nước ngoài sẽ không cho phép có những thay đổi tùy tiện làm biến dạng format chương trình. Thông số đầu vào quan trọng cho quá trình cải biến này chắc chắn là các vấn đề liên quan đến xu thế toàn cầu hóa văn hóa hiện nay – một xu thế đang hậu thuẫn cho sự phát triển xuyên biên giới của nhiều giá trị văn hóa địa phương, đưa những giá trị ấy đến nhiều vùng đất mới và nhờ đó mà được biết đến, được chia sẻ. Các sản phẩm truyền hình cũng không nằm ngoài xu thế đó. Tuy nhiên, cũng nên nhất trí đôi điều về quan điểm toàn cầu hóa văn hóa trong bối cảnh hiện nay. Văn hóa là một thực tế cực kỳ đa dạng của đời sống nhân loại. Bức tranh văn hóa nhân loại là một bức tranh được ghép nên bổ nhiều mảng màu sắc, hình ảnh, đường nét đầy khác biệt bản sắc của các nền văn hóa dân tộc, văn hóa khu vực, văn hóa quốc gia. Nhưng bối cảnh xã hội hiện đại đang tạo ra những tiền đề về kỹ thuật và xã hội hết sức đặc biệt để các bộ phận văn hóa ấy tiến nhanh đến tương lai mới của nền văn hóa nhân loại – tương lai toàn cầu hóa văn hóa. Toàn cầu hóa tạo điều kiện hiện đại hóa các nền kinh tế và văn hóa lạc hậu, dân chủ hóa các nền chính trị, thúc đẩy việc trao đổi lao động và tiêu thụ hàng hóa giữa các quốc gia. Một người dân nước này dùng sản phẩm, ăn món ăn, uống thức uống, dùng thuốc men, mặc quần áo do những dân tộc khác làm ra. Cả thế giới đồng thời được xem một chương trình tivi, xem một bộ phim, Trang 18 nghe một bản nhạc… Điều đó cũng có nghĩa là, một sản phẩm có chất lượng tốt được làm ra ở một dân tộc nào đó sẽ nhanh chóng được tiêu thụ ở nhiều nước trên toàn thế giới. Toàn cầu hóa là xu thế phù hợp quy luật phát triển của xã hội loài người. Trong tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về chủ nghĩa cộng sản đã hàm chứa quan niệm về toàn cầu hóa như là con đường giải phóng con người thoát khỏi những ràng buộc địa phương, dân tộc, liên hệ với nền văn minh toàn thế giới và hưởng thụ tất cả những thành quả vật chất và tinh thần mà nhân loại sáng tạo ra. Trong Hệ tư tưởng Đức, các ông viết: "Chỉ có như vậy thì các cá nhân riêng rẽ mới được giải thoát ra khỏi những khuôn khổ dân tộc và địa phương khác nhau của mình, mới có được những liên hệ thực tiễn với nền sản xuất (kể cả sản xuất tinh thần) của toàn thế giới và mới có được khả năng hưởng thụ nền sản xuất của toàn thế giới về mọi lĩnh vực (tất cả những sáng tạo của con người)". Về khía cạnh văn hóa, toàn cầu hóa là quá trình xích lại gần nhau giữa các nền văn hóa vốn trước đây hoàn toàn khác biệt nhau.Toàn cầu hóa văn hóa không có nghĩa là xóa bỏ văn hóa dân tộc để tiếp thu một nền văn hóa khác có tính chất "mẫu mực" cho toàn thế giới. Thực ra, không thể có một nền văn hóa mẫu mực như vậy. Trái lại, toàn cầu hóa là sự mở rộng biên giới văn hóa từ phạm vi địa phương, dân tộc, quốc gia ra phạm vi toàn thế giới. Toàn cầu hóa tạo điều kiện giới thiệu những thành tựu, những nét độc đáo của văn hóa dân tộc, xuất khẩu những sản phẩm văn hóa của dân tộc này cho các dân tộc khác, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác để làm giàu, làm phong phú nền văn hóa dân tộc mình. Kết quả của toàn cầu hóa văn hóa là, một mặt, duy trì, củng cố, hiện đại hóa văn hóa dân tộc, phát huy bản sắc của văn hóa dân tộc, mặt khác, tiếp thu tất cả những gì quý giá, tiên tiến, hiện đại của các dân tộc khác để làm giàu cho nền văn hóa của dân tộc mình. Trang 19 Và cũng trong kịch bản mới mẻ ấy của văn hóa nhân loại, vấn đề giữ gìn và bảo vệ các giá trị bản sắc văn hóa dân tộc cũng được đặt ra như một thách thức to lớn. Những di sản văn hóa vật chất và tinh thần của một dân tộc được bảo vệ và tôn vinh không chỉ vì lợi ích của dân tộc đó, mà còn vì lợi ích của cả nhân loại. Bằng chứng là không ít người, kể cả những nhà chính trị, khoa học, văn hóa... từ các dân tộc văn minh đã rất quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu, thưởng thức những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc khác, kể cả những dân tộc lạc hậu hơn dân tộc mình. Một thế giới đa dạng về văn hóa mới thực sự là môi trường sống lý tưởng, tốt đẹp của nhân loại. Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đây gọi tắt là Đảng) đã nêu rõ: “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống những biểu hiện phản văn hoá. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” Những phân tích vừa nêu cho thấy, trong lĩnh vực truyền thông nói chung và truyền hình nói riêng, việc du nhập những chương trình truyền hình nước ngoài vào Việt Nam cũng là một trong những cách giúp khán giả tiếp Trang 20 cận văn hoá các nước khác nhau trên thế giới một cách công khai, có chọn lọc, kiểm duyệt của các cơ quan, đơn vị chức năng có thẩm quyền. Như vậy, có thể nói, “Việt hóa” chương trình truyền hình là hoạt động chuyển dịch ngôn ngữ và cải biến nội dung trong giới hạn cam kết về bản quyền để vừa phù hợp với môi trường ngôn ngữ - văn hóa Việt Nam vừa không làm biến dạng format của chương trình truyền hình bản quyền. 1.1.3. Những khía cạnh kỹ thuật của vấn đề “Việt hoá” chương trình truyền hình Những chương trình được chọn mua bản quyền thường là những chương trình có giá trị giáo dục tốt, bổ ích và ít nhiều được biết đến tại nơi sản xuất chương trình hay kênh phát sóng chính của chương trình. Số lượng chương trình mới của các Đài, đơn vị sản xuất hàng năm thì rất nhiều nhưng để chọn mua một chương trình còn phải dựa trên nhiều yếu tố: tiêu chí của kênh phát sóng, nguồn tài chính, nơi có thể phát sóng chương trình… Sau khi đã hoàn tất thủ tục mua bản quyền chương trình thì phần chuyển ngữ, biên tập lại nội dung chương trình đóng vai trò quan trọng không kém. Đội ngũ biên dịch, biên tập viên chịu trách nhiệm thực hiện phần hậu kỳ của chương trình phải có kinh nghiệm trong lĩnh vực truyền hình, nắm bắt được ngôn ngữ truyền hình và đặc biệt là ngôn ngữ phù hợp với trẻ em – đối tượng chính của kênh. “Việt hóa” chương trình nước ngoài dễ dàng bộc lộ những yếu kém về tay nghề, kém chuyên nghiệp cũng như những hạn chế về công nghệ sản xuất và đôi khi không mang lại hiệu quả cũng như tác động xã hội như mong muốn. Đặc biệt là khán giả cũng như giới chuyên môn thường trông đợi rất nhiều với những chương trình đã và đang nổi tiếng, được nhiều người trên thế giới quan tâm, theo dõi. Đội ngũ thực hiện đôi khi bị hạn chế về khả năng Trang 21 sáng tạo, khả năng diễn đạt ý tưởng cũng như khả năng thao tác kỹ thuật, kỹ xảo sao cho phù hợp với phong cách và nội dung của chương trình. Vì vậy, chương trình được chọn để “Việt hóa” thường là chương trình giải trí, có đặc điểm, văn hóa phù hợp với Việt Nam. Và “Việt hóa” cái gì? “Việt hóa” như thế nào? Việc này sẽ được quyết định dựa trên nội dung của chương trình, sự quan tâm của xã hội (độ hot – sức hấp dẫn của chương trình gốc) ở từng thời điểm. Việc này nhằm giúp khán giả có thể hiểu trọn vẹn ý tứ của những người thực hiện cũng như tạo thêm sự hấp dẫn của chương trình. Hiện nay có 3 cấp độ “Việt hóa” đang được thực hiện đối với các chương trình mua bản quyền nước ngoài tại HTV, người viết tạm gọi là: “Việt hóa” đơn giản, “Việt hóa” một phần và “Việt hóa” toàn phần. Về xử lý kỹ thuật, các tệp (tập tin) chương triǹ h cầ n “Viê ̣t hóa” sẽ được tách riêng thành tệp video (hình ảnh) và audio (âm thanh). Đồng thời được ta ̣o ra mô ̣t phiên bản đ ộ phân giải thấ p (low-res), có dung lượng nhỏ giúp thuận tiê ̣n về mặt thời gian cho viê ̣c trao đổ i n ội dung cần “Việt hóa”. Tệp low-res này được và gửi tới bô ̣ phâ ̣n “Viê ̣t hóa ”. Bô ̣ phâ ̣n “Viê ̣t hóa ” sẽ dựa trên t ệp này để thực hiện dịch phụ đề hoặc đọc thuyết minh . Tệp phu ̣ đề hoă ̣c tệp tiếng thuyế t minh sẽ đươ ̣c gửi trả về bô ̣ phâ ̣n kỹ thuâ ̣t và thực hiê ̣n ghép với t ệp video gố c để hoàn thành một chương trình “Viê ̣t hóa”. Quy trin ̀ h k ỹ thuật này có thể đư ợc thực hiện hoàn toàn tự đô ̣ng và có ưu điể m lớn là hê ̣ thố ng không can thiê ̣p gì vào t ệp video gố c nên chấ t lươ ̣ng của chương trình được đảm bảo , không bị suy giảm do quy trình xử lý của hệ thố ng. Quy trình “Việt hóa” được thực hiện trên dây chuyền sản xuất truyền hình kỹ thuật số nên cho phép các bộ phận khác nhau có thể tham gia vào quy trình can thiệp đến file chương trình thông qua các bước trung gian rồi hợp nhất trên hệ thống lữu trữ NAS trước khi chuyển lên máy chủ. Bô ̣ phâ ̣n kiểm Trang 22
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan