BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
GIANG THANH HƯNG
VIỆN KIỂM SÁT
TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
CHUYÊN NGHÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
TS ĐỖ VĂN ĐƯƠNG
HÀ NỘI 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
GIANG THANH HƯNG
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
2. BLHS
Bộ luật hình sự
3. XHCN
Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .................................................................................................. ............ .. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... .. 1
2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................................... .. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn .................................................................... .. 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... .. 4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .......................................................... .. 4
6. Điểm mới khoa học của luận văn ........................................................................ .. 5
7. Ý nghĩa của luận văn............................................................................................ .. 5
8. Kết cấu của luận văn ............................................................................................ .. 6
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ ........................................... .. 7
1.1. Vai trò của Viện kiểm sát trong công tác phòng, chống tội phạm ................... .. 7
1.2. Khái niệm và đặc điểm của khởi tố vụ án hình sự ............................................ .. 11
1.3. Ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự .................................................................... .. 17
1.4. Chức năng của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự............................... .. 18
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ .. 25
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG THỰC
HIỆN CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN
HÌNH SỰ................................................................................................................. .. 27
2.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chức năng của Viện
kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự........................................................................ .. 27
2.2. Thực trạng thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự 40
2.3. Nguyên nhân những hạn chế trong thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong
khởi tố vụ án hình sự................................................................................................ .. 48
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ .. 54
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................................ .. 56
3.1. Chủ trương và quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức hoạt động của Viện kiểm
sát trong cải cách tư pháp ........................................................................................ .. 56
3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng của Viện
kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự........................................................................ .. 60
3.3. Một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng của Viện
kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự........................................................................ .. 64
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................ .. 70
KẾT LUẬN ............................................................................................................. .. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của để tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì sự nghiệp dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là những nhiệm vụ quan trọng
hiện nay của Đảng và Nhà nước ta. Để đáp ứng yêu cầu đó thì việc cải cách tổ chức và
nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát là
một đòi hỏi mang tính cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Là cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật, những quyết định áp dụng pháp luật khách quan, nghiêm minh,
thống nhất của Viện kiểm sát đã đóng góp tích cực vào công cuộc đấu tranh chống
tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo vệ pháp chế XHCN, giữ vững an ninh chính trị
và trật tự an toàn xã hội. Nghị quyết số 08/NQTW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị
đã đặt ra yêu cầu:
Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay
từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường
hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng làm nhiệm vụ…[5]
Trong những năm qua, thực hiện tốt chỉ đạo của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, các Viện kiểm sát địa phương trong cả nước đã thực hiện tốt chức năng nhiệm
vụ của ngành, nâng cao tỉ lệ phát hiện tội phạm, hạn chế bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên,
bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn có những hạn chế như: Tình trạng hồ sơ vụ án
phải trả để điều tra bổ sung nhiều, (từ năm 2007 đến 2010, Viện kiểm sát đã trả hồ sơ
cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung 10.230 vụ; Tòa trả cho Viện kiểm sát là
11.113 vụ), vẫn còn nhiều người bị bắt, khởi tố, điều tra oan, sai. Theo số liệu thống
kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong 5 năm từ năm 2006 đến 2010, Cơ quan
2
điều tra và Viện kiểm sát đã phải đình chỉ 11.004 vụ án, 16.802 bị can, trong có 804
bị can do không phạm tội. Trong số các bị cáo Tòa án đã xét xử có 198 bị cáo Tòa án
tuyên không phạm tội. Những hạn chế đó đã gây ra những hậu quả về danh dự, nhân
phẩm cũng như vật chất đối với những người bị bắt, khởi tố, điều tra oan sai, làm ảnh
hưởng không nhỏ đến uy tín của ngành Kiểm sát nói riêng và các cơ quan bảo vệ
pháp luật nói chung trước quần chúng nhân dân và dư luận xã hội.
Trong tố tụng hình sự, khởi tố là giai đoạn đầu tiên có ý nghĩa rất quan trọng
đối với toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Giai đoạn này có nhiệm vụ xác định có sự
việc xảy ra hay không, nếu xảy ra thì có hay không dấu hiệu của tội phạm để khởi tố
hoặc không khởi tố vụ án, nhằm xử lý kịp thời nghiêm minh các hành vi phạm tội,
không bỏ tội phạm, không làm oan sai người vô tội, góp phần bảo đảm quyền tự do
dân chủ của công dân được pháp luật bảo hộ.
Kết thúc giai đoạn này, khi đã khởi tố vụ án Cơ quan điều tra được tiến hành
các biện pháp điều tra, kể cả các biện pháp cưỡng chế tố tụng để nhanh chóng phát
hiện tội phạm và người phạm tội. Vì vậy nếu các hoạt động tố tụng không thực hiện
đúng trình tự thủ tục do Bộ luât tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định ở giai đoạn này,
rất có thể tội phạm sẽ bị bỏ lọt hoặc lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm, làm
oan sai người vô tội.
Trong các cơ quan tiến hành tố tụng, Viện kiểm sát là cơ quan tham gia vào
tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự. Trong giai đoạn khởi tố Viện kiểm sát thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật, bảo đảm mọi tội phạm được phát
hiện đều phải được khởi tố, việc khởi tố có căn cứ và hợp pháp.
Với những lý do nêu trên cho thấy, giai đoạn khởi tố vụ án có ý nghĩa vô cùng
quan trọng, mang tính tiên quyết và trong giai đoạn này Viện kiểm sát có vị trí, vai
trò rất quan trọng. Vì vậy em chọn vấn đề: VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ
VỤ ÁN HÌNH SỰ”, làm đề tài cho luận văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
3
Trong những năm qua, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát
trong khởi tố vụ án hình sự đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan
đến vấn đề này, qua nghiên cứu tìm hiểu cho thấy, các công trình khoa học tập trung
nghiên cứu theo những khía cạnh sau:
Nghiên cứu chung về việc đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân. Điển hình như: Khuất Văn Nga: Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta
về cải cách tư pháp và tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thời kỳ
đổi mới (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2005; Đỗ Văn Đương: Cơ quan thực hành
quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay (Tạp chí chuyên ngành), Hà
Nội, 2006; Nguyễn Minh Đức: “Về chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo tinh
thần cải cách tư pháp”, (Tạp chí chuyên ngành), 2006, Hà Nội; Lê Hữu Thể: “Tổ
chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình cải cách tư
pháp” (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2008…
Nghiên cứu về quyền công tố và thực hành quyền công tố trên một số lĩnh vực
cụ thể, như các tác phẩm: Lê Hữu Thể (Chủ biên): Thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra (Sách tham khảo), Nxb Tư pháp,
Hà Nội, 2005; Lê Thị Tuyết Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, (Luận án tiến sỹ luật
học), Hà Nội, 2002; Phạm Mạnh Hùng: Hoàn thiện các quy định của bộ luật tố tụng
hình sự về quan hệ giữa viện kiểm sát và cơ quan điều tra trong tố tụnh hình sự (Tạp
chí chuyên ngành) 2007, Hà Nội…
Những công trình khoa học, những bài viết trên đây đã tập trung nghiên cứu
về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói chung, có một số công trình,
bài viết nghiên cứu về chức năng hoạt động của Viện kiểm sát trên một số lĩnh vực
cụ thể. Về vấn đề “Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự”, có một số công trình
đề cập đến vấn đề này nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống,
toàn diện hoặc chưa nghiên cứu dưới góc độ coi khởi tố vụ án là một giai đoạn tố
tụng độc lập vẫn gắn liền với giai đoạn điều tra.
4
Mặc dù vậy, các công trình khoa học, các bài viết trên đây là những tài liệu
tham khảo rất có giá trị để nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật, thực trạng hoạt động
thực hiện các chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự (từ
năm 2006 đến 2010), mục đích của luận văn nhằm làm sáng tỏ vị trí vai trò của Viện
kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự, nêu ra một số giải pháp, kiến nghị góp phần
nâng hiệu quả hoạt động thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ cơ sở lý luận về Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự.
+ Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động thực hiện chức năng của Viện
kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự những năm gần đây, rút ra được những ưu điểm,
hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế để từ đó đề xuất những giải pháp và kiến
nghị góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực hiện chức năng của Viện kiểm sát
trong khởi tố vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Chức năng và hoạt động thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong khởi tố
vụ án hình sự.
- Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là chức năng của Viện kiểm sát trong khởi
tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt nam từ năm 1988
đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5
- Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật nói chung và tổ
chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội như: Lý luận- thực tiễn,
Phân tích- tổng hợp, Lịch sử- cụ thể; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác
như: So sánh luật học, thống kê…
6. Điểm mới khoa học của luận văn
Luận văn là tài liệu chuyên khảo nghiên cứu tương đối có hệ thống và toàn diện
về Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự, cụ thể là:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Viện kiểm sát trong khởi tố vụ
án hình sự, góp phần xây dựng một cách nhìn toàn diện về vị trí vai trò của Viện
kiểm sát trong giai đoạn khởi tố. Qua đó thấy được vai trò quan trọng của Viện kiểm
sát trong công tác phòng, chống tội phạm.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động thực hiện các chức năng của Viện
kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự. Trên cơ sở đó chỉ ra những kết quả, hạn chế và
nguyên nhân những hạn chế.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực
hiện chức năng của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu lý luận và thực tiễn về chức
năng của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự. Luận văn góp phần làm phong
phú thêm tri thức về pháp luật tố tụng hình sự, đấu tranh chống tội phạm và phòng
ngừa tội phạm trên thực tiễn, nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân được pháp luật bảo hộ.
6
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập
cũng như làm tài liệu cho các cán bộ Kiểm sát trong hoạt động nghiệp vụ của mình,
bên cạnh đó luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy về
vấn đề liên quan đến Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự trong các trường đại học,
cao đẳng, các trường bồi dưỡng nghiệp vụ Tư pháp.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm: 3 chương
với 10 mục, tổng cộng 70 trang:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chức năng của Viện Kiểm sát trong khởi
tố vụ án hình sự
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực trạng thực hiện chức năng của
Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
chức năng của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Vai trò của Viện kiểm sát trong công tác phòng, chống tội phạm
Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội, mang thuộc tính xã hội
pháp lý, xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, tội phạm luôn chứa
đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi ngược lại lợi
ích chung của cộng đồng, xâm phạm đến trật tự xã hội, quyền tự do và các lợi ích
hợp pháp của công dân. Vì vậy phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm là những
hoạt động không thể thiếu nhằm duy trì một xã hội trật tự, ổn định.
“Phòng ngừa tội phạm là những hoạt động loại trừ nguyên nhân của tội phạm
qua việc loại trừ, làm thay đổi hoặc khống chế tác dụng của các thành tố thuộc
nguyên nhân của tội phạm, nhằm ngăn chặn tội phạm xảy ra”.[22, tr 256]
“Phòng ngừa tội phạm là tổng thể các biện pháp khác nhau do các chủ thể
phòng ngừa tội phạm tiến hành nhằm ngăn chặn không để cho tội phạm xảy ra hoặc
xảy ra ít đi”.[8, tr 245].
Nội dung của hoạt động phòng ngừa tội phạm rất đa dạng và phong phú với
sự tham gia của rất nhiều các chủ thể khác nhau bao gồm:
+ Các cơ quan tư pháp hình sự thông qua các hoạt động điều tra, truy tố xét xử
và áp dụng các chế tài hình sự đối với tội phạm và người phạm tội, qua đó có tác
dụng răn đe người phạm tội và cảnh tình những người không vững vàng khác trong
xã hội nhằm ngăn ngừa tội phạm. Các cơ quan tư pháp hình sự trong quá trình thực
hiện chức năng nhiệm vụ của mình phát hiện những bất cập thiÕu xót, những nguyên
nhân phát sinh tội phạm, qua đó có những kiến nghị nhằm ngăn ngừa tội phạm và
hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.
8
+ Các cơ quan lập pháp đưa ra những quy phạm pháp luật chặt chẽ, là hàng
rào vững chắc để ngăn chặn cho người dân không có cơ hội phạm tội và người phạm
tội không có cơ hội tái phạm.
+ Các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức, công dân thì phòng ngừa tội
phạm không chỉ là quyền lợi mà còn là trách nhiệm. Một xã hội trật tự an toàn là một
môi trường sống lành mạnh, tạo ra cho mỗi người dân một cuộc sống bình yên và
hạnh phúc vì vậy, mỗi người dân phải có ý thức tự bảo vệ mình thông qua các hoạt
động phòng ngừa tội phạm.
Như vậy, phòng ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ quan, tổ chức và
công dân, thực hiện tổng thể các biện pháp tác động trực tiếp vào các nhóm nguyên
nhân của tội phạm để kiểm soát, hạn chế tác dụng và loại trừ dần những nhóm
nguyên nhân này nhằm không cho tội phạm xảy ra hoặc xảy ra ít đi.
Phòng ngừa tội phạm là hoạt động có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hoạt
động kiểm soát xã hội của Nhà nước. Đó là phương tiện để Nhà nước kiểm soát tội
phạm, ngăn chặn tội phạm góp phần giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Đấu tranh chống tội phạm là hoạt động trấn áp tội phạm cụ thể đã xảy ra
nhưng có tác động nhất định đến nguyên nhân của tội phạm [22, tr 256], vì vậy hoạt
động đấu tranh chống tội phạm cũng có giá trị phòng ngừa tội phạm.
Chủ thể của hoạt động đấu tranh chống tội phạm là các cơ quan tư pháp hình
sự. Thông qua các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử đối với tội phạm đã xảy ra
trong thực tế, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, suy cho cùng là
việc áp dụng chế tài hình sự, áp dụng biện pháp cưỡng chế nhà nước có tính nghiêm
khắc nhất đối với người phạm tội đó là hình phạt.
Mục đích cuối cùng vào cao nhất của cả hai hoạt động này là nhằm ngăn ngừa
không cho tội phạm xảy ra. Để đạt được mục đích này, trong hoạt động phòng ngừa
tội phạm cần phải có những định hướng cụ thể như: Giáo dục con người và xây dựng
một xã hội có tính giáo dục; Phát triển kinh tế xã hội và việc hạn chế, khắc phục mặt
9
trái của quá trình phát triển đó; Chống tội phạm, xử lý vi phạm, tăng cường quản lý
để ngăn hành vi phạm tội không xảy ra; Phòng ngừa tội phạm từ phía nạn nhân và
công dân nói chung.
Trong hoạt động đấu tranh chống tội phạm để đạt được mục đích trừng trị
người phạm tội, qua đó giáo dục họ và răn đe những khác trong xã hội nhằm ngăn
ngừa tội phạm xảy ra thì việc xử lý các tội phạm và người phạm tội của các cơ quan
tiến hành tố tụng cần phải chính xác kịp thời, đúng người đúng tội, không bỏ lọt tội
phạm, không là oan sai người vô tội. Thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật
và tính nghiêm khắc của chế tài hình sự.
Trong các cơ quan tiến hành tố tụng, Viện kiểm sát có vai trò rất quan trọng
trong việc bảo vệ công lý và trật tự chung trong xã hội, được Đảng và Nhà nước giao
cho chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Với vị trí, vai
trò độc lập đó, Viện kiểm sát là cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, bảo vệ pháp chế XHCN. Chức năng hiến định của Viện kiểm sát
được quy định tại Điều 137, Hiến pháp 1992 và được thể chế tại Điều 1, Luật tổ chức
Viện kiểm sát năm 2002.
Với tư cách là một cơ quan tiến hành tố tụng, Viện kiểm sát trực tiếp tham gia
đấu tranh chống tội phạm. Thông qua hoạt động của mình Viện kiểm sát có trách
nhiệm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện, xử lý kịp thời, việc truy tố
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan sai
người vô tội, đảm bảo mọi hoạt động tố tụng đều phải tuân thủ đúng quy định của
pháp luật.
Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất được tham gia toàn bộ quá trình tố tụng (từ
giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử và thi hành án), vì vậy Viện kiểm sát có
vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác phòng, chống tội phạm.
Hoạt động trực tiếp đấu tranh chống tội phạm của Viện kiểm sát xuyên suốt
quá trình từ phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với các tội phạm,
10
thông qua việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố kiểm sát điều tra và
kiểm sát xét xử các hành vi phạm tội và người phạm tội; Cơ quan điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trực tiếp khởi tố và điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp mà chủ thể của tội phạm là cán bộ công chức của các cơ quan tư pháp.
Hoạt động phòng ngừa tội phạm của Viện kiểm sát được thể hiện thông qua
các hoạt động kiểm sát cụ thể như: Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý giáo
dục người chấp hành án phạt tù. Viện kiểm sát ngoài việc kiểm sát việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn đối với người phạm tội đảm bảo chính xác, đúng quy định của
pháp luật còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các nhà tạm giữ, trại tạm giam,
trại giam, các cán bộ công chức trong các cơ quan này.
Hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm không chỉ được thể hiện
thông qua việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của ngành kiểm sát mà còn được
thông qua các hoạt động khác như: Viện kiểm sát thực hiện các chương trình quốc
gia về phòng, chống tội phạm, tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật, nghiên cứu
khoa học, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, tổ chức các hội nghị chuyên đề về phòng,
chống các tội phạm cụ thể, nâng cao hiệu quả hoạt động nghiệp vụ, thống kê dự báo
tình hình tội phạm, xây dựng, hoàn thiện pháp luật…
Như vậy, Viện kiểm sát là cơ quan có vị trí rất quan trọng trong công tác
phòng, chống tội phạm. Không chỉ đóng vai trò là cơ quan trực tiếp tham gia đấu
tranh chống tội phạm, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan
tư pháp và những người tham gia tố tụng là đảm bảo để hoạt động phòng ngừa tội
phạm và đấu tranh chống tội phạm đạt hiệu quả cao, đúng pháp luật.
Trong cuộc đấu tranh chống tội phạm, vị trí vai trò của Viện kiểm sát trong
khởi tố vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng.
11
1.2. Khái niệm và đặc điểm của khởi tố vụ án hình sự
Trước tiên, cần xác định khởi tố vụ án hình sự không phải là hành vi tố tụng
mà là một giai đoạn tố tụng bắt đầu từ thời điểm cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận
những thông tin về tội phạm, kiểm tra xác minh, kết thúc khi xử lý nguồn tin. Trong
trường hợp xác định không có dấu hiệu tội phạm thì ra quyết định không khởi tố vụ
án hình sự. Do vậy, khởi tố vụ án hình sự được coi là giai đoạn đầu tiên của quá trình
tố tụng giải quyết vụ án hình sự.
Đến nay, trong lý luận, quan niệm khởi tố vụ án hình sự có cách diễn đạt khác
nhau, nhưng đều thừa nhận đây là giai đoạn đầu tiên mở đầu của quá trình tố tụng.
Từ điển Bách khoa Việt Nam giải thích, “khởi tố vụ án hình sự là hoạt động của Cơ
quan điều tra, kiểm sát hoặc xét xử, ra quyết định khởi tố vụ án khi xác định có dấu
hiệu tội phạm và đó là giai đoạn mở đầu quá trình tố tụng hình sự” [11, tr352] . Còn
Từ điển Luật học thì cho rằng, “khởi tố vụ án hình sự là khi nhận được tin báo về
một vụ việc nào đó, cơ quan Công an hoặc Viện kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm
của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin. Chỉ sau khi có dấu hiệu tội phạm thì
mới được quyết định khởi tố vụ án” [29, tr 254]. Theo sách Thuật ngữ pháp lý dùng
trong hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, “Khởi tố vụ án hình sự là hoạt
động tố tụng hình sự do cơ quan có thẩm quyền tiến hành sau khi đã xác định một sự
việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm … Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu quá
trình tố tụng hình sự” [20, tr 167]. Còn Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt
Nam thì giải thích, “khởi tố vụ án hình sự là hoạt động tố tụng hình sự do các cơ
quan có thẩm quyền tiến hành sau khi đã xác định một sự việc xảy ra có dấu hiệu tội
phạm. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu quá trình tố tụng hình sự” [28, tr
685]. Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường ĐH Luật Hà Nội thì đưa
ra khái niệm “Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, trong
12
đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không dấu hiệu của tội phạm để ra quyết
định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án”.[10, tr 235]
Như vậy, mặc dù có các cách diễn đạt khác nhau nhưng có thể thống nhất
nhận thức rằng: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng
hình sự, được thực hiện kể từ khi cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận và kiểm tra, xác
minh những tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ chức, công dân hoặc tin báo
trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong trường hợp người phạm tội đầu thú,
các cơ quan có thẩm quyền trực tiếp phát hiện tội phạm để ra quyết định khởi tố
hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
Từ khái niệm này cho thấy, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của
quá trình tố tụng, có nhiệm vụ riêng, có phạm vi tố tụng và chủ thể tố tụng với quyền
và trách nhiệm rõ ràng trong việc ban hành văn bản tố tụng. Nhiệm vụ của giai đoạn
này là ghi nhận những thông tin ban đầu về tội phạm; tiến hành kiểm tra, xác minh
nguồn tin để xác định căn cứ khởi tố hoặc căn cứ không khởi tố vụ án hình sự; nếu
có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố vụ án hình sự, tiến hành các hoạt động điều tra để
xác định người phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết đúng đắn vụ án.
Trong trường hợp chưa có quyết định khởi tố vụ án thì các biện pháp điều tra chưa
thể tiến hành, trừ những biện pháp khẩn cấp không thể trì hoãn được như: Bắt khẩn
cấp, tạm giữ, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét. Kết thúc giai
đoạn khởi tố vụ án có thể là sự khởi đầu cho giai đoạn tố tụng tiếp theo hoặc kết thúc
quá trình tố tụng
Toàn bộ những vấn đề liên quan đến khởi tố vụ án hình sự được quy định từ
Điều 100 đến Điều 109 của BLTTHS năm 2003, có những đặc điểm sau:
Cơ sở khởi tố vụ án hình sự, là những nguồn tin mà dựa vào đó cơ quan có
thẩm quyền khởi tố xác định dấu hiệu tội phạm. Dấu hiệu của tội phạm được xác
định thông qua các nguồn tin (cơ sở) do luật định. Nếu không dựa vào đó thì không
13
thể có các căn cứ để khởi tố vụ án. Mọi thông tin không được xác định từ các cơ sở
do luật định thì không thể được coi là căn cứ để khởi tố vụ án hình sự.
Việc xác định có dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây: 1. Tố giác
của công dân; 2. Tin báo của cơ quan, tổ chức; 3. Tin báo trên các phương tiện thông
tin đại chúng; 4. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân,
Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp
phát hiện dấu hiệu của tội phạm; người phạm tội tự thú.
Chủ thể của tố giác tội phạm là công dân, công dân có thể tố giác tội phạm với
các cơ quan bảo vệ pháp luật bao gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, hoặc các cơ
quan tổ chức khác tuy không phải là cơ quan, tổ chức chuyên trách đấu tranh chống
tội phạm nhưng có nghĩa vụ phát hiện và tố giác tội phạm.
Chủ thể của tin báo về tội phạm là “Cơ quan, tổ chức”.
Kiến nghị khởi tố chính là việc thông qua công tác kiểm tra, thanh tra cơ quan
Nhà nước (chủ yếu là cơ quan Thanh tra) khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật có
dấu hiệu của tội phạm thì ban hành văn bản kiến nghị kèm theo hồ sơ tài liệu gửi cho
Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền yêu cầu giải quyết.
Việc khởi tố vụ án hình sự nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội nhưng trong một số trường hợp lại có thể gây thêm những tổn thất về mặt
tinh thần cho người bị hại, vì vậy pháp luật tố tụng hình sự quy định một số trường
hợp chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của người bị hại (Điều 105
BLTTHS 2003).
Việc quy định những cơ sở để khởi tố vụ án hình sự nhằm tránh tình trạng oan
sai có thể xảy ra hoặc tình trạng khởi tố vụ án tràn lan.
Căn cứ để khởi tố vụ án hình sự là có sự việc xảy ra, sự việc đó có dấu hiệu
của tội phạm tức là: Có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, và trái với pháp luật
hình sự.
14
Các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án gồm có Cơ quan điều tra, các cơ
quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án.
Cơ quan điều tra khởi tố vụ án là chủ yếu hầu hết các vụ án hình sự. Các cơ quan
khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra chỉ khởi tố đối với những hành vi
trong lĩnh vực quản lý của mình. Viện kiểm sát chỉ ra quyết định khởi tố vụ án trong
trường hợp hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra và
trong trường hợp khi có yêu cầu của Hội đồng xét xử (Điều 104). Hội đồng xét xử
chỉ khởi tố vụ án nếu qua việc xét xử tại phiên tòa phát hiện được tội phạm hoặc
người phạm tội mới cần được điều tra.
Trình tự khởi tố vụ án hình sự, căn cứ khởi tố vụ án hình sự là dấu hiệu của tội
phạm được xác định, khi đã xác định được dấu hiệu của tội phạm cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khi đã khởi tố vụ án hình sự Cơ quan điều
tra được tiến hành các biện pháp điều tra, kể cả các biện pháp cưỡng chế tố tụng để
nhanh chóng phát hiện tội phạm và người phạm tội. Nhưng khi chưa xác định được
rõ dấu hiệu của tội phạm, mọi hoạt động điều tra, áp dụng các biện pháp cưỡng chế
đối với người bị nghi là thực hiện tội phạm đều có thể dẫn đến oan sai, vi phạm
quyền dân chủ của công dân được pháp luật bảo hộ. Vì vậy trình tự thủ tục tiến hành
các hoạt động trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự phải được tiến hành một cách
thống nhất và tuân thủ theo đúng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Trình tự thủ tục khởi tố vụ án hình sự được tiến hành như sau:
- Tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Một trong những nguồn thông tin về tội phạm đó là tin báo, tố giác tội phạm
và kiến nghị khởi tố của các tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước và của mọi công dân.
Thông tin về tội phạm là yếu tố không thể thiếu cho việc phát hiện, xử lý tội phạm, vì
vậy nguồn thông tin về tội phạm đóng góp một phần rất quan trọng trong công tác đấu
tranh chống tội phạm. Đấu tranh chống tội phạm là cuộc đấu tranh mang tính chất xã
hội, đòi hỏi sự tham gia tích cực của toàn xã hội, công tác này đạt được kết quả cao
15
hay không phụ thuộc vào ý thức, trách nhiệm tham gia cung cấp các thông tin về tội
phạm cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Pháp luật tố tụng hình sự nước ta quy định
trách nhiệm phát hiện và tố giác tội phạm là của mọi cơ quan nhà nước, mọi tổ chức
và công dân (Điều 25 BLTTHS 2003).
Nhiệm vụ giải quyết tin báo tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố được quy
định cụ thể tại điều 103 BLTTHS năm 2003: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có
trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ
chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến. Viện kiểm sát có trách
nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo
các tài liệu liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.” Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát là những cơ quan chính có nhiệm vụ tiếp nhận đầy đủ mọi
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố do cá nhân, cơ quan, tổ chức chuyển
đến.
Viện kiểm sát khi tiếp nhận các tin báo, tố giác và kiến nghị khởi tố phải
chuyển ngay hồ sơ kèm theo các tài liệu liên quan đến Cơ quan điều tra có thẩm
quyền để tiến hành xác minh. Cơ quan điều tra là đầu mối quản lý toàn bộ các tố
giác, tin báo về tội phạm (nguồn để khởi tố).
Sau khi tiếp nhận tin báo, tố giác và kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra tiến
hành kiểm tra, xác minh.
- Kiểm tra, xác minh các tin tức về tội phạm.
Thời hạn và nhiệm vụ xác minh thông tin về tội phạm được quy định tại Điều
103 BLTTHS năm 2003. Theo quy định của luật thì chỉ có Cơ quan điều tra mới
được xác minh, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể
từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhưng không quá
hai tháng, Cơ quan điều tra có nhiệm vụ khẩn trương chủ động áp dụng các biện
pháp do luật định để xác minh kiểm tra nguồn tin, xem xét có hay không dấu hiệu
của tội phạm để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
- Xem thêm -