Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật VỊ TRÍ, VAI TRÒ, TIÊU CHUẨN, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN...

Tài liệu VỊ TRÍ, VAI TRÒ, TIÊU CHUẨN, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN

.DOCX
27
263
105

Mô tả:

VỊ TRÍ, VAI TRÒ, TIÊU CHUẨN, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN
VỊ TRÍ, VAI TRÒ, TIÊU CHUẨN, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN 1. Tòa án trong bộ máy nhà nước Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền tư pháp là một trong ba bộ phận hợp thành quyền lực nhà nước, được biểu hiện là hoạt động xét xử của các Tòa án và hoạt động của cơ quan nhà nước, các tổ chức khác trực tiếp liên quan đến hoạt động của Tòa án như điều tra, truy tố, bổ trợ tư pháp, nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Hệ thống cơ quan tư pháp của Việt Nam bao gồm: Tòa án, Viện Kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan tư pháp bổ trợ (luật sư, công chứng, giám định tư pháp…). Trong đó Tòa án nhân dân là nơi biểu hiện tập trung quyền lực tư pháp, sử dụng công khai các kết quả của hoạt động điều tra, truy tố, giám định tư pháp thông qua các thủ tục tố tụng do luật định để đưa ra phán quyết cuối cùng về vụ việc thể hiện quyền lực nhà nước. Hoạt động xét xử của Tòa án là sự thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống cơ quan tư pháp nói riêng và của toàn bộ hệ thống cơ quan nhà nước nói chung. Tòa án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp. Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020” đã khẳng định: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”. Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tòa án nhân dân có vai trò quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tòa án nhân dân là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm. 2. Hệ thống Tòa án Theo quy định tại Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 thì ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có các Tòa án sau đây: 1. Tòa án nhân dân tối cao; 2. Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; 3. Các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; 4. Các Tòa án quân sự; 5. Các Tòa án khác do luật định. Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt. 3. Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hệ thống cơ quan tư pháp Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án năm 2002 thì các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp có Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Thư ký Tòa án. Do vậy, Thẩm phán là chức danh pháp lý không thể thiếu được trong tổ chức và hoạt động của Tòa án, Thẩm phán là người có vị trí chủ đạo. Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án chủ yếu do Thẩm phán thực hiện. Trong hoạt động tố tụng của Tòa án, Thẩm phán giữ vị trí chủ đạo; chức năng, nhiệm vụ của Tòa án chủ yếu do Thẩm phán thực hiện. Với tư cách là người được giao thực hiện chức năng xét xử và giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án, Thẩm phán có vị trí quan trọng và vai trò không thể thay thế trong việc thực hiện một trong những quyền lực nhà nước - quyền tư pháp. Hơn nữa, Thẩm phán còn có vị trí, vai trò đặc biệt nếu xét từ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, trách nhiệm của họ trong cơ cấu tổ chức cán bộ của Tòa án, trong hoạt động tố tụng khi so sánh với những người tiến hành tố tụng khác và trong cơ chế bổ nhiệm, giao nhiệm vụ nếu so sánh với các chức danh công chức khác trong các cơ quan nhà nước. Từ các quy định của pháp luật tố tụng cho thấy, trong hoạt động tố tụng mà các cơ quan tham gia như Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án và hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp như cơ quan giám định, công chứng, luật sư,… thì Tòa án và Thẩm phán luôn chiếm giữ vị trí trung tâm và có vai trò quyết định cuối cùng đối với việc xét xử và giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án. Trong số các chức danh cán bộ, công chức nhà nước thì Thẩm phán được xem là chức danh công chức đặc biệt, bởi lẽ các vấn đề về nghĩa vụ và quyền hạn, về những việc họ không được làm và các vấn đề về tổ chức cán bộ như quản lý, sử dụng, chế độ chính sách đối với Thẩm phán không chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật Cán bộ, công chức mà còn phải tuân theo các quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân về điều kiện, tiêu chuẩn, thủ tục tuyển chọn và bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, điều động, biệt phái Thẩm phán. Đặc biệt là việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán, điều này khẳng định một trong những thành tựu đã đạt được trong cải cách tư pháp đó là thay thế cơ chế Hội đồng nhân dân bầu Thẩm phán bằng chế định bổ nhiệm Thẩm phán, điều này có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện một cách thống nhất tiêu chuẩn hóa Thẩm phán trên phạm vi toàn quốc, tạo sự chuyển biến mang tính tích cực cả về số lượng và chất lượng đội ngũ Thẩm phán, đồng thời là sự công nhận và thể hiện quan điểm của Nhà nước và nhân dân về vị trí, vai trò quan trọng của Thẩm phán trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Thẩm phán là công chức được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật với chức năng thực hiện nhiệm vụ xét xử các loại vụ án và giải quyết các việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án, Thẩm phán Tòa án có vị trí trung tâm trong cơ cấu cán bộ của cơ quan Tòa án và trong số những người tiến hành tố tụng; có vai trò quyết định không thể thay thế đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước – quyền tư pháp nói chung và hoạt động tố tụng tư pháp nói riêng. Từ những vị trí, vai trò cơ bản nêu trên của Thẩm phán, có thể thấy rằng địa vị pháp lý của Thẩm phán đã được ghi nhận và khẳng định một cách rõ ràng trong hệ thống pháp luật của nước ta. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò trung tâm của Tòa án và Thẩm phán cùng với việc đề ra các yêu cầu về xây dựng, củng cố đội ngũ Thẩm phán để đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho trong tình hình hội nhập quốc tế của đất nước hiện nay. 4. Thẩm phán là công chức nhà nước Theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2010 thì Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện… trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước… Do vậy, Thẩm phán trước hết phải là công chức Nhà nước. Thẩm phán ngoài việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ quy định trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân; Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân thì Thẩm phán còn phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong Luật Cán bộ, công chức quy định: 4.1. Nghĩa vụ của công chức đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân; trong thi hành công vụ; là người đứng đầu (quy định từ Điều 8 đến Điều 10 Luật Cán bộ, công chức) cụ thể như sau: - Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia. - Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân. - Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân. - Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. - Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. - Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước. - Chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. - Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao. - Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định; trường hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và người thi hành phải chấp hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định. Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. - Ngoài việc thực hiện các quy định trên, công chức là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị còn phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây: + Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; + Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của công chức; + Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; + Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở, văn hóa công sở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh công chức thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân; + Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cá nhân, tổ chức; + Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. 4.2. Quyền của công chức (quy định từ Điều 11 đến Điều 14 Luật Cán bộ, công chức) - Được giao quyền tương xứng với nhiệm vụ; Được bảo đảm trang thiết bị và các điều kiện làm việc khác theo quy định của pháp luật; Được cung cấp thông tin liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn được giao; Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ; Được pháp luật bảo vệ khi thi hành công vụ (Điều 11). - Được Nhà nước bảo đảm tiền lương tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn được giao, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Công chức làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc trong các ngành, nghề có môi trường độc hại, nguy hiểm được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật. Được hưởng tiền làm thêm giờ, tiền làm đêm, công tác phí và các chế độ khác theo quy định của pháp luật (Điều 12). - Công chức được nghỉ hàng năm, nghỉ lễ, nghỉ để giải quyết việc riêng theo quy định của pháp luật về lao động. Trường hợp do yêu cầu nhiệm vụ, cán bộ, công chức không sử dụng hoặc sử dụng không hết số ngày nghỉ hàng năm thì ngoài tiền lương còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng tiền lương cho những ngày không nghỉ (Điều 13). - Công chức được bảo đảm quyền học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội; được hưởng chính sách ưu đãi về nhà ở, phương tiện đi lại, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật (Điều 14). 5. Các ngạch Thẩm phán Theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2011 thì: - Thẩm phán Tòa án nhân dân ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: + Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; + Thẩm phán trung cấp; + Thẩm phán sơ cấp; + Thẩm phán Tòa án quân sự bao gồm Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương đồng thời là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp. - Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương có Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Tòa án nhân dân cấp tỉnh), Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Tòa án nhân dân cấp huyện), Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực có Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp. - Số lượng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Số lượng Thẩm phán của các Tòa án quân sự do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. 6. Tiêu chuẩn của Thẩm phán Theo quy định tại Điều 1 Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT/TANDTCBQP-BNV ngày 20 tháng 10 năm 2011 Hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân thì một số tiêu chuẩn cụ thể của Thẩm phán được hiểu như sau: 6.1. Về tiêu chuẩn chung để được bổ nhiệm làm Thẩm phán - Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa phải là: + Chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; không có bất kỳ hành vi nào gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. + Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của cơ quan, tổ chức. + Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền. + Kiên quyết đấu tranh với những người, những hành vi gây phương hại đến Đảng, đến Tổ quốc và nhân dân, bảo vệ công lý; có tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình. + Không thuộc trường hợp quy định tại Điều 2 Chương I của Quy định số 57QĐ/TW ngày 03-5-2007 của Bộ Chính trị “Một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng”. + Không làm những việc quy định tại Điều 15 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân. + Chưa bao giờ bị kết án (kể cả trường hợp đã được xóa án tích). - “Có trình độ cử nhân luật” là phải có bằng tốt nghiệp đại học về chuyên ngành luật do các trường đại học trong nước có chức năng đào tạo về chuyên ngành luật theo quy định của pháp luật; nếu văn bằng cử nhân luật do cơ sở đào tạo của nước ngoài cấp thì văn bằng đó phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam công nhận. - “Đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử” là phải có chứng chỉ về đào tạo nghiệp vụ xét xử do cơ sở trong nước có chức năng đào tạo về nghiệp vụ xét xử theo quy định của pháp luật; nếu chứng chỉ do cơ sở đào tạo của nước ngoài cấp thì chứng chỉ đó phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam công nhận. - “Thời gian làm công tác pháp luật” là thời gian công tác liên tục kể từ khi được xếp vào một ngạch công chức theo quy định của pháp luật, bao gồm: Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên, Chấp hành viên, Chuyên viên hoặc Nghiên cứu viên pháp lý, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Công chứng viên, Thanh tra viên, cán bộ bảo vệ an ninh trong Quân đội, cán bộ pháp chế, giảng viên về chuyên ngành luật; thời gian được bầu hoặc cử làm Hội thẩm, thời gian làm luật sư cũng được coi là “thời gian làm công tác pháp luật”. - “Có năng lực làm công tác xét xử” là phải nắm bắt và áp dụng được các quy định của pháp luật trong công tác xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án; hoàn thành công việc được giao có chất lượng, hiệu quả và bảo đảm thời gian quy định theo đánh giá, nhận xét của cơ quan có thẩm quyền quản lý công chức hoặc có những bài viết, công trình nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật có giá trị được công bố hoặc được áp dụng vào thực tiễn. - “Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao” là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, ngoài thể lực cần thiết, còn bao gồm yếu tố ngoại hình đó là không có dị tật, dị hình ảnh hưởng trực tiếp đến tư thế, tác phong hoặc việc thực hiện nhiệm vụ của người Thẩm phán. - Đối với người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang bị xem xét xử lý kỷ luật, nhưng chưa có quyết định giải quyết cuối cùng của người hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thì chưa có đủ điều kiện để có thể được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán. 6.2. Tiêu chuẩn tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, có thời gian làm công tác pháp luật từ bốn năm trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án quân sự. Khoản 1 Điều 5 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất, đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của pháp luật, có năng lực làm công tác xét xử, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán”. 6.3. Tiêu chuẩn tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp - Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân và đã là Thẩm phán sơ cấp ít nhất là năm năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án nhân dân; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án quân sự. - Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của ngành Tòa án nhân dân, người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân và đã có thời gian làm công tác pháp luật từ mười năm trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án nhân dân; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án quân sự. 6.4. Tiêu chuẩn tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao - Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân và đã là Thẩm phán trung cấp ít nhất là năm năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương. - Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của ngành Tòa án nhân dân, người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân và đã có thời gian làm công tác pháp luật từ mười lăm năm trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương.” 6.5. Trường hợp đặc biệt Trong trường hợp cần thiết, người công tác trong ngành Tòa án nhân dân hoặc người do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều động đến công tác tại ngành Tòa án nhân dân tuy chưa có đủ thời gian làm Thẩm phán sơ cấp hoặc Thẩm phán trung cấp hoặc chưa có đủ thời gian làm công tác pháp luật, nhưng có đủ các tiêu chuẩn khác (theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân), thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp hoặc Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án nhân dân hoặc Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp hoặc Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án quân sự hoặc Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương. 7. Chế độ của Thẩm phán Thẩm phán có thang bậc lương riêng, được hưởng phụ cấp trách nhiệm và các phụ cấp khác do pháp luật quy định; Thẩm phán khi đi làm nhiệm vụ được miễn phí cầu, phà, đường theo quy định của pháp luật; Thẩm phán được cấp trang phục, Giấy chứng minh Thẩm phán để làm nhiệm vụ (Điều 17, 18 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân). - Theo Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 30/9/2004 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn bảng lương chức vụ, bảng phụ cấp chức vụ đối với cán bộ lãnh đạo Nhà nước; bảng lương chuyên môn nghiệp vụ ngành Tòa án, ngành Kiểm sát thì: + Chánh án Tòa án nhân dân tối cao lương có 2 bậc: bậc 1= 10,40; bậc 2=11,00; + Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và tương đương lương có 6 bậc: bậc 1= 6,20; …; bậc 6 = 8,00 và sau đó sẽ hưởng lương vượt khung; + Thẩm phán trung cấp và tương đương lương có 8 bậc: bậc 1 = 4,40; …; bậc 8 =6,78 và sau đó sẽ hưởng lương vượt khung; + Thẩm phán sơ cấp và tương đương lương có 9 bậc: bậc 1 = 2,34; …; bậc 9 = 4,98 và sau đó sẽ hưởng lương vượt khung. Thẩm phán ngoài việc được hưởng lương như nói ở trên còn được hưởng phụ cấp thâm niên nghề, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp công vụ và một số phụ cấp khác theo quy định của pháp luật. - Phụ cấp trách nhiệm: Theo Quyết định số 171/2005/QĐ-TTg ngày 08/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ phụ cấp trách nhiệm đối với thẩm phán, Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên ngành Tòa án cụ thể như sau: + Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao được hưởng phụ cấp trách nhiệm bằng 20% mức lương hiện hưởng cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có). + Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được hưởng phụ cấp trách nhiệm bằng 25% mức lương hiện hưởng cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có). + Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh được hưởng phụ cấp trách nhiệm bằng 30% mức lương hiện hưởng cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có). - Phụ cấp thâm niên nghề: Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 04/2009/TTLT-BNV-BTC ngày 24/12/2009 về Hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ công chức đã được xếp lương theo các ngạch hoặc chức danh chuyên ngành toà án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm. Đối với ngành Tòa án Thông tư quy định: Chánh án và Phó Chánh án Tòa án nhân dân các cấp; Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp; Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên ngành Tòa án (Thẩm tra viên cao cấp, Thẩm tra viên chính và Thẩm tra viên); có thời gian làm việc đủ 5 năm (60 tháng) thì được hưởng phụ cấp thâm niên nghề bằng 5% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có); từ năm thứ sáu trở đi mỗi năm (đủ 12 tháng) được tính thêm 1%. - Phụ cấp công vụ: Căn cứ Nghị định số 34/2012/NĐ-CP ngày 15/4/2012 thì Thẩm phán và công chức khác của ngành Tòa án được hưởng phụ cấp công vụ bằng 25% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có). 8. Điều động, biệt phái Thẩm phán Thẩm phán trong quá trình công tác có thể được điều động, biệt phái có thời hạn từ Tòa án nhân dân tỉnh này đến làm nhiệm vụ tại Tòa án nhân dân tỉnh khác hoặc từ Tòa án nhân dân huyện này đến làm nhiệm vụ tại Tòa án nhân dân huyện khác trong cùng một tỉnh (Điều 19 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân). - Để bảo đảm cho các Tòa án nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định: + Điều động Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp từ Tòa án nhân dân này đến làm nhiệm vụ tại Tòa án nhân dân khác không cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; + Biệt phái Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp từ Tòa án nhân dân này đến làm nhiệm vụ có thời hạn tại Tòa án nhân dân khác không cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. - Để bảo đảm cho các Tòa án nhân dân địa phương thực hiện chức năng, nhiệm vụ, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh quyết định: + Điều động Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp từ Tòa án nhân dân này đến làm nhiệm vụ tại Tòa án nhân dân khác trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; + Biệt phái Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp từ Tòa án nhân dân này đến làm nhiệm vụ có thời hạn tại Tòa án nhân dân khác trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. - Để bảo đảm cho các Tòa án quân sự thực hiện chức năng, nhiệm vụ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định: + Điều động Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp từ Tòa án quân sự này đến làm nhiệm vụ tại Tòa án quân sự khác sau khi thống nhất với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; + Biệt phái Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp từ Tòa án quân sự này đến làm nhiệm vụ có thời hạn tại Tòa án quân sự khác. 9. Miễn nhiệm, cách chức chức danh Thẩm phán Thẩm phán được miễn nhiệm, cách chức chức danh Thẩm phán theo quy định tại Điều 29 và Điều 30 (Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân): - Thẩm phán đương nhiên được miễn nhiệm chức danh Thẩm phán khi nghỉ hưu. - Thẩm phán có thể được miễn nhiệm chức danh Thẩm phán do sức khoẻ, do hoàn cảnh gia đình hoặc vì lý do khác mà xét thấy không thể bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. - Thẩm phán đương nhiên bị mất chức danh Thẩm phán khi bị kết tội bằng bản án của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. - Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm, Thẩm phán có thể bị cách chức chức danh Thẩm phán khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Vi phạm trong công tác xét xử, giải quyết những việc thuộc thẩm quyền của Toà án; + Vi phạm quy định tại Điều 15 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân; + Bị kỷ luật bằng hình thức cách chức chức vụ quản lý đang đảm nhiệm theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; + Vi phạm về phẩm chất đạo đức; + Có hành vi vi phạm pháp luật khác. II. NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN 1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán Thẩm phán có nhiệm vụ và quyền hạn được quy định tại các điều từ Điều 11 đến Điều 14 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân cụ thể như sau: - Thẩm phán làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án theo sự phân công của Chánh án Toà án nơi mình công tác hoặc Toà án nơi mình được biệt phái đến làm nhiệm vụ có thời hạn. - Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành những quyết định có liên quan đến việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác theo quy định của pháp luật. - Thẩm phán phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng, tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật. - Thẩm phán có trách nhiệm học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ Toà án. - Ngoài nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán như đã nói trên thì pháp luật tố tụng còn quy định nhiệm vụ cụ thể của Thẩm phán như sau: Theo quy định tại (Điều 39 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 41 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 36 Luật Tố tụng hành chính) thì nhiệm vụ chính của Thẩm phán khi được phân công xét xử, giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính… có những nhiệm vụ và quyền hạn: + Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên toà hoặc tiến hành lập hồ sơ vụ án; + Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật; + Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ án hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung; + Quyết định đưa vụ án ra xét xử; + Quyết định triệu tập những người tham gia tố tụng; + Tham gia xét xử các vụ án; + Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử; + Bên cạnh các nhiệm vụ, quyền hạn như đã nói trên, trong các vụ án cụ thể Thẩm phán còn có các nhiệm vụ, quyền hạn riêng: Ví dụ: Trong vụ án hình sự: Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao có quyền cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa. 2. Tính độc lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử 2.1. Nguyên tắc Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 5 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân) Nguyên tắc này khẳng định trong hoạt động xét xử, Thẩm phán không phụ thuộc vào bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào khi đưa ra các nhận định đánh giá và phán quyết của mình về vụ án. Mọi cá nhân, tổ chức không được can thiệp vào các hoạt động xét xử của Tòa án. Nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đã nâng cao trách nhiệm của các Thẩm phán, buộc họ nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, chủ động nghiên cứu mọi tình tiết của vụ án, không bị lệ thuộc vào những lý do của những người tham gia tố tụng hay những kết luận của Viện Kiểm sát đưa ra. Tính độc lập của Thẩm phán chính là sự gắn kết tuyệt đối các Thẩm phán với luật pháp. Tính độc lập của Thẩm phán bảo vệ quyền lực tư pháp trước sự can thiệp từ phía lập pháp và hành pháp. 2.2. Mối quan hệ của Thẩm phán trong nguyên tắc độc lập xét xử Ở nước ta việc xét xử còn do các hội thẩm nhân dân thực hiện. Vì vậy, nguyên tắc xét xử độc lập không chỉ đối với Thẩm phán mà cả với hội thẩm nhân dân. “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” Điều 5 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân. Độc lập xét xử được xem xét từ các khía cạnh yếu tố bên trong lẫn yếu tố bên ngoài. Thông thường thì độc lập với yếu tố bên ngoài được hiểu là khi xét xử, Thẩm phán và hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào kết luận của cơ quan điều tra, cáo trạng và quyết định truy tố của cơ quan điều tra, công tố. Tại phiên tòa, Thẩm phán phải trực tiếp xem xét những chứng cứ của vụ án chứ không căn cứ vào các kết luận trong hồ sơ của vụ án. Thẩm phán chỉ được căn cứ vào những chứng cứ được xem xét tại phiên tòa để đưa ra bản án. Ngoài mối quan hệ với cơ quan điều tra, viện kiểm sát, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân còn mối quan hệ với các luật sư, các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội. Thực tế, trong rất nhiều trường hợp, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân bị ảnh hưởng, tác động từ phía luật sư, các tổ chức, cá nhân, các cơ quan Nhà nước, làm sai lệch quá trình tố tụng, ảnh hưởng không ít tới hoạt động tố tụng nhằm hướng tới việc xét xử có lợi cho mình. Do đó, Thẩm phán phải luôn ý thức được rằng mình là người phải chịu trách nhiệm về nội dung, về tính công minh của bản án. Vì thế, Thẩm phán phải có bản lĩnh và phải đứng vững trước những tác động từ các yếu tố bên ngoài. Như vậy, xét từ những yếu tố bên ngoài thì nguyên tắc: “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” không cho phép bất cứ ai, cơ quan Nhà nước nào can thiệp vào việc xét xử của tòa án dưới bất cứ lý do nào. 2.3. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc Thẩm phán độc lập khi xét xử Nguyên tắc Thẩm phán độc lập khi xét xử không chỉ được thực hiện trong việc đánh giá chứng cứ mà cả trong thẩm vấn, tranh luận trước phiên tòa và việc ra bản án, quyết định. Trong tố tụng, nhất là Tố tụng Hình sự có sự tham gia của hai chủ thể gần như đối lập nhau là bên bị buộc tội và bên buộc tội. Trong quan hệ tố tụng, Thẩm phán hành động như một người đứng giữa để phân xử đúng sai nhân danh Nhà nước. Địa vị của Thẩm phán phải khác với bên buộc tội hay bên gỡ tội. Sự độc lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử đòi hỏi Thẩm phán phải có trách nhiệm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mọi công dân chỉ coi là có tội khi có một bản án của tòa án có thẩm quyền và đã có hiệu lực pháp luật. Độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và hội thẩm nhân dân khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Sự độc lập của Thẩm phán là độc lập để tuân theo pháp luật. Sự độc lập này không được nằm ngoài pháp luật, không có bất kỳ sự lẩn tránh nào đối với pháp luật, không bỏ lọt bất kỳ một hành vi vi phạm pháp luật nào. Tuy nhiên, duy trì tính độc lập của Thẩm phán không dễ. Họ cũng là con người, có gia đình, quan hệ bạn bè, có họ hàng thân thích. Tương tự, họ không thể đứng ngoài những quan hệ quản lý hành chính, những ràng buộc, ảnh hưởng của các mối quan hệ xã hội trong các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội. Xuất phát từ những lý do đó, một số Thẩm phán bị vật chất, quyền lực cám dỗ, bao che, ô dù cho những người vi phạm pháp luật. Tính “độc lập và tuân theo pháp luật” của các Thẩm phán trong hoạt động xét xử bị ảnh hưởng tiêu cực. Trong hoạt động xét xử, các Thẩm phán là vị “quan tòa” đại diện cho cái thiện chống lại cái ác, là người cầm cân nẩy mực, đại diện cho quyền lực Nhà nước, thực hiện quyền xét xử với mục đích đem lại công bằng cho xã hội, đảm bảo sự ổn định, phát triển mang ý nghĩa xã hội to lớn. Nghề nghiệp của Thẩm phán liên quan đến cái sống, cái chết của con người, liên quan đến việc định đoạt tài sản của cá nhân, tổ chức. Bản án, quyết định của Thẩm phán chứa đựng trách nhiệm không chỉ của cá nhân Thẩm phán mà cả trách nhiệm của xã hội.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan