Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vị trí, vai trò của hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của tòa án từ thự...

Tài liệu Vị trí, vai trò của hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của tòa án từ thực tiễn tòa án nhân dân tỉnh thanh hóa

.PDF
91
920
115

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HỒ THỊ MINH HẠNH VÞ TRÝ, VAI TRß CñA HéI THÈM NH¢N D¢N TRONG HO¹T §éNG XÐT Xö - Tõ THùC TIÔN TOµ ¸N NH¢N D¢N TØNH THANH HãA LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HỒ THỊ MINH HẠNH VÞ TRÝ, VAI TRß CñA HéI THÈM NH¢N D¢N TRONG HO¹T §éNG XÐT Xö - Tõ THùC TIÔN TOµ ¸N NH¢N D¢N TØNH THANH HãA Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ CÔNG GIAO HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Hồ Thị Minh Hạnh MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM .......................................................................... 7 1.1. Lý luận về vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam ................................. 7 1.1.1. Khái niệm Hội thẩm nhân dân .............................................................. 7 1.1.2. Nguồn gốc, ý nghĩa của chế định Hội thẩm trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam .......................................................... 9 1.2. Pháp luật về vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam từ trước tới nay ... 12 1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển quy định về Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam .................. 12 1.2.2. Vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân theo pháp luật hiện hành của Việt Nam ............................................................................................. 16 1.3. So sánh chế định Hội thẩm nhân dân của Việt Nam với chế độ Bồi thẩm đoàn ở các nước theo hệ thống thông luật, mà đặc trưng là Hoa Kỳ .................................................................................. 33 Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 37 Chương 2: THỰC TRẠNG VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA .............................................................................38 2.1. Khái quát cơ cấu tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá ................................................................................. 38 2.2. Thực trạng công tác Hội thẩm nhân dân ở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hóa ................................................................................. 44 2.2.1. Về công tác lựa chọn và bầu Hội thẩm ............................................... 44 2.2.2. Về tổ chức ........................................................................................... 45 2.2.3. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ ..................... 47 2.2.4. Về thực hiện chế độ với Hội thẩm nhân dân ....................................... 49 2.2.5. Về công tác tư tưởng ........................................................................... 50 2.2.6. Về công tác khen thưởng .................................................................... 51 2.2.7. Về chế độ họp và báo cáo của Hội thẩm nhân dân ............................. 52 2.2.8. Về hoạt động xét xử ............................................................................ 54 2.3. Đánh giá chung về vị trí, vai trò của Hội thẩm trong hoạt động xét xử ở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hóa ........................... 59 Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 63 Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ TỪ THỰC TIỄN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ ......... 64 3.1. Quan điểm bảo đảm vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án .................................................. 64 3.1.1. Bảo đảm vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân cần phải gắn với nội dung của Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.............................................................................. 64 3.1.2. Bảo đảm vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân là trách nhiệm của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp ...................................................... 65 3.1.3. Bảo đảm vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương ........................................... 66 3.1.4. Bảo đảm vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân phải vừa kế thừa truyền thống pháp lý của Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế ........................................................................................ 66 3.1.5. Bảo đảm vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân phải kết hợp các giải pháp có tính toàn diện, hệ thống .................................................. 67 3.2. Các giải pháp bảo đảm vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án ............................................... 67 3.2.1. Giải pháp nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của HTND ................ 68 3.2.2. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật ....................................................... 68 3.2.3. Giải pháp về tăng cường tiêu chuẩn lựa chọn Hội thẩm ..................... 70 3.2.4. Giải pháp nâng cao độ đãi ngộ đối với HTND ................................... 72 3.2.5. Giải pháp về quản lý, đánh giá, giám sát đối với Hội thẩm ................ 73 Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 77 KẾT LUẬN .................................................................................................... 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT HĐXX: Hội đồng xét xử HĐND: Hội đồng nhân dân HTND: Hội thẩm nhân dân TAND: Tòa án nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam, thực hiện xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Xét về thủ tục tố tụng, Tòa án thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm bắt buộc phải có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân (HTND). Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó chỉ rõ Tòa án là trung tâm của cải cách tư pháp, mà trọng tâm là hoạt động xét xử phải được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, với chủ nghĩa xã hội, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống XHCN, phòng ngừa và chống các tội phạm và các việc làm vi phạm pháp luật, xây dựng con người mới XHCN. Do vậy, việc phát huy tốt vai trò của HTND trong hoạt động xét xử của Tòa án là một trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án trong quá trình cải cách tư pháp, cải cách pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, Nhà nước, trong thời gian qua, HTND trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã không ngừng được tăng cường về số lượng, nâng cao về chất lượng, góp phần tích cực trong việc nâng cao hiệu quả xét xử của các tòa án trong tỉnh. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, 1 trong hoạt động xét xử của tòa án các cấp tỉnh và huyện ở Thanh Hóa thời gian qua, đội ngũ HTND cũng bộc lộ những hạn chế về trình độ hiểu biết pháp luật, trách nhiệm và kỹ năng khi tham gia phiên tòa. Chất lượng của đội ngũ HTND vẫn chưa thực sự ngang tầm với nhiệm vụ chính trị được giao. Những hạn chế của đội ngũ HTND là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng xét xử của các cấp tòa án tỉnh Thanh Hoá. Cùng với quá trình hội nhập, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các quan hệ xã hội trên thực tế ngày càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến tranh chấp, các vụ án ngày càng trở nên phức tạp, khó giải quyết, vì vậy, nếu thẩm phán, HTND không có tư duy pháp lý vững chắc, không được đào tạo bài bản thì khó có thể đáp ứng được yêu cầu chuyên môn ngày càng cao trong việc xét xử. Những thách thức này mang tính khách quan, đòi hỏi hệ thống toà án phải đổi mới cả về tổ chức và nhân sự để có thể thích ứng với tình hình mới. Tuy nhiên, trong thực tế sự thích ứng của các toà án ở nước ta còn chậm, thể hiện ở năng lực của đội ngũ thẩm phán và hội thẩm còn hạn chế, dẫn tới hậu quả là có không ít bản án, quyết định của Tòa án oan sai hoặc chưa thấu tình đạt lý, làm ảnh hưởng tiêu cực đến quyền, lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Hệ thống toà án của tỉnh Thanh Hóa cũng không nằm ngoài thực trạng chung đó. Điều này đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu tìm ra các giải pháp khắc phục tình hình, trong đó việc nâng cao năng lực của HTND trong hoạt động xét xử là một trong những vấn đề rất quan trọng. Trước bối cảnh trên, là một cán bộ đang làm việc trong hệ thống toà án của tỉnh Thanh Hóa, học viên quyết định chọn đề tài “Vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử - từ thực tiễn TAND tỉnh Thanh Hóa” để thực hiện luận văn thạc sĩ, với mong muốn góp phần tìm ra các giải pháp nâng cao năng lực của đội ngũ HTND ở quê hương mình trong thời gian tới. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến chế định HTND, trong thời gian qua ở nước ta đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Một số công trình có thể kể như: Luận văn “Nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự” của Trần Thị Nhung San, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1995; Luận văn “Nguyên tắc thẩm phán, HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” của Hoàng Hồng Phương, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; Luận văn “Chế định HTND trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” của Hoàng Trí Lý, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015; Luận văn “Nâng cao vai trò của thẩm phán và HTND của TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự ” của Bùi Thị Huệ, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015; Các luận án tiến sĩ: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” của Trần Huy Liệu, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003; “Đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” của Lê Thành Dương, Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2002; “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền” của Đỗ Thị Ngọc Tuyết, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006. Các bài viết “Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” của Trần Văn Kiểm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 1(186), 2011; “Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động của tòa án” của Đỗ Thị Phương, Đề tài nghiên cứu khoa học, Viện khoa học xét xử- TAND Tối cao năm 2012. Những công trình nghiên cứu kể trên đã cung cấp một khối lượng kiến thức, thông tin lớn về đề tài. Đây là nguồn tài liệu tham khảo quý báu cho học viên thực hiện luận văn này. Mặc dù vậy, hầu hết các công trình nghiên cứu 3 đã nêu đều chưa cập nhật những đổi mới trong pháp luật và thực tiễn về vai trò của HTND trong hoạt động tố tụng trong thời gian gần đây. Thêm vào đó, chưa có công trình nào đề cập riêng về thực trạng vị trí, vai trò của HTND trong hoạt động xét xử ở TAND tỉnh Thanh Hóa. Vì vậy, luận văn này vẫn cần thiết và có giá trị về lý luận và thực tiễn. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu của luận văn là phân tích thực trạng vị trí, vai trò của HTND trong thực tiễn hoạt động xét xử của TAND tỉnh Thanh Hóa, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về HTND ở nước ta đáp ứng các yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên, các nhiệm vụ của luận văn là: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý về vị trí, vai trò của HTND trong hoạt động xét xử ở nước ta. - Khảo sát, phân tích thực trạng vị trí, vai trò của HTND trong thực tiễn hoạt động xét xử của TAND tỉnh Thanh Hóa trong khoảng 5 năm trở lại đây, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về HTND ở nước ta đáp ứng các yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế từ thực tiễn xét xử của TAND tỉnh Thanh Hoá. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận, pháp lý về vị trí, vai trò của HTND từ thực tiễn hoạt động xét xử của TAND tỉnh Thanh Hóa. 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn liên quan đến vị trí, vai trò của HTND trong thực tiễn hoạt động xét xử của TAND, không đi sâu nghiên cứu các vấn đề khác về HTND, cũng như về các chức danh tư pháp khác của TAND (thẩm phán, thư ký toà án..). Về không gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng vị trí, vai trò của HTND trong thực tiễn hoạt động xét xử của TAND tỉnh Thanh Hóa, không mở rộng đến các cấp toà án khác ở Thanh Hoá cũng như đến TAND ở các địa phương khác. Về thời gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng vị trí, vai trò của HTND trong thực tiễn hoạt động xét xử của TAND tỉnh Thanh Hóa trong khoảng 5 năm trở lại đây. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tổ chức và hoạt động của TAND. Tác giả đồng thời vận dụng một số lý thuyết về pháp quyền, kiểm soát quyền lực, độc lập tư pháp và nhân quyền để làm cơ sở cho việc phân tích, giải quyết các câu hỏi nghiên cứu của đề tài. Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học xã hội để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Cụ thể: - Các phương pháp tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu hiện có và các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, pháp lý liên quan đến vị trí, vai trò của HTND trong thực tiễn hoạt động xét xử của TAND ở nước ta hiện nay (ở Chương I). - Các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các tài liệu, báo cáo chuyên môn của TAND Tối cao, TAND tỉnh Thanh Hoá và phương pháp quan sát thực tế để đánh giá thực trạng vị trí, vai trò của HTND trong 5 thực tiễn hoạt động xét xử của TAND tỉnh Thanh Hóa trong khoảng 5 năm trở lại đây (ở Chương II). - Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về HTND ở nước ta đáp ứng các yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế từ thực tiễn xét xử của TAND tỉnh Thanh Hoá (ở Chương III). 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về vị trí, vai trò của HTND trong hoạt động xét xử của TAND được thực hiện ở tỉnh Thanh Hoá từ trước tới nay. Luận văn cũng là một trong số không nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện từ thực tiễn cơ sở về chủ đề này đã được thực hiện ở nước ta. Vì vậy, luận văn cung cấp những kiến thức, thông tin, luận điểm và đề xuất mới có giá trị tham khảo với việc nâng cao hiệu quả hoạt động của HTND ở tỉnh Thanh Hoá và hoàn thiện các quy định pháp luật về HTND ở nước ta trong thời gian tới. Bên cạnh đó, luận văn có thể được sử dụng là nguồn tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu chuyên ngành luật hiến pháp và luật hành chính ở Khoa Luật ĐHQG Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác của nước ta. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận về vị trí, vai trò của Hội thẩm Nhân dân trong hoạt động xét xử của TAND ở Việt Nam hiện nay - Chương 2: Thực trạng vị trí, vai trò của Hội thẩm Nhân dân trong hoạt động xét xử của TAND tỉnh Thanh Hoá. - Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm vị trí, vai trò của Hội thẩm Nhân dân trong hoạt động xét xử từ thực tiễn TAND tỉnh Thanh Hoá. 6 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM 1.1. Lý luận về vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam 1.1.1. Khái niệm Hội thẩm nhân dân HTND là một vị trí có vai trò quan trọng trong hoạt động xét xử của hệ thống Tòa án của Việt Nam. Để làm rõ các vấn đề lý luận về HTND, trước tiên cần nhận diện khái niệm HTND. Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Hội thẩm nhân dân” là “người do Hội đồng nhân dân bầu ra trong một thời gian nhất định cùng với Thẩm phán làm nhiệm vụ xét xử các vụ án xảy ra ở địa phương” [39, tr.159]. Khái niệm này cho thấy cơ chế pháp lý để hình thành nên HTND (thông qua hình thức bầu), thời gian thực hiện thẩm quyền của HTND (không kéo dài vĩnh viễn mà chỉ trong một thời hạn nhất định) và chức năng của HTND (cùng với Thẩm phán làm nhiệm vụ xét xử). Tuy nhiên, khái niệm này vẫn chưa thực sự toàn diện, chưa bao quát tất cả các thuộc tính của HTND, cụ thể là: Về cơ chế hình thành HTND, ngoài thông qua cơ chế “bầu” thì HTND còn được xác lập thông qua cơ chế “cử”; Về chủ thể trao quyền cho HTND, không chỉ có Hội đồng nhân dân, mà còn có thể được thực hiện bởi cơ quan nhà nước khác (thông qua cơ chế cử)… Văn bản pháp luật đầu tiên quy định riêng về thẩm phán và hội thẩm TAND là Pháp lệnh số 02/2002/PL-UBTVQH ngày 04 tháng 10 năm 2002 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tiếp theo đó, ngày 19/02/2011, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 14/2011/UBNTVQH12 sửa đổi, 7 bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và HTND số 02/2002/PLUBTVQH11. Ngày 18/12/2013, Văn phòng Quốc hội ban hành Văn bản hợp nhất 22/VBHN-VPQH hợp nhất Pháp lệnh Thẩm phán và HTND. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 1 Văn bản số 22/VBHN-VPQH ngày 18/12/2013 của Văn phòng Quốc hội thì: “Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án”. Trong thực tế, thuật ngữ “Hội thẩm” theo Văn bản số 22/VBHN-VPQH ngày 18/12/2013 của Văn phòng Quốc hội bao gồm cả “HTND” và “Hội thẩm quân nhân”, tuy nhiên trong văn bản chưa nêu được đặc điểm riêng biệt của “HTND” và “Hội thẩm quân nhân”. Luật Tổ chức TAND năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01/6/2015 đã thay thế Pháp lệnh số 14/2011/UBNTVQH12 ngày 19/02/2011 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và HTND và cả Văn bản hợp nhất số 22/VBHN-VPQH ngày 18/12/2013 của Văn phòng Quốc hội, theo đó khái niệm HTND cũng được quy định rõ ràng hơn. Luật Tổ chức TAND năm 2015 quy định: Chế độ bầu HTND được thực hiện đối với các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương. Chế độ cử Hội thẩm quân nhân được thực hiện đối với các Tòa án quân sự quân khu và tương đương, các Tòa án quân sự khu vực [25, Điều 7]. HTND thuộc hệ thống TAND được hiểu là người được bầu theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND. Hội thẩm quân nhân được hiểu là người được cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Như vậy, cùng tham gia hoạt động xét xử nhưng HTND và Hội thẩm quân nhân khác nhau về chế độ bầu và cử (HTND được bầu để 8 tham gia hoạt động xét xử tại TAND, Hội thẩm quân nhân được đề cử để tham gia hoạt động xét xử tại Tòa án quân sự). Trong phạm vi luận văn của mình, tác giả chỉ nghiên cứu về vị trí, vai trò của HTND đối với hoạt động xét xử của TAND theo quy định của pháp luật hiện hành. Việc cụm từ “HTND” được quy định tại Điều 7 Luật Tổ chức TAND năm 2014 thay thế cụm từ “Hội thẩm” được quy định tại Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm và các văn bản trước đây đã thể hiện được nội hàm của khái niệm “HTND”, nhằm phân biệt HTND không phải là người thuộc biên chế Tòa án mà là người được bầu ra thông qua Hội đồng nhân dân. Từ các phân tích trên, có thể đưa ra một khái niệm khái quát đó là: HTND là chức danh được bầu theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án. 1.1.2. Nguồn gốc, ý nghĩa của chế định Hội thẩm trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam HTND là một chế định có vai trò quan trọng trong hoạt động xét xử của TAND ở Việt Nam. Chế định này bắt nguồn từ và là sự thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc, nhằm bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án” [3, tr.16]. Sự hiện diện của HTND trong hoạt động xét xử của Tòa án thể hiện quyền làm chủ của Nhân dân thông qua việc khẳng định rằng, Nhân dân phải có tiếng nói của mình trong hoạt động tư pháp. Khi tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án, HTND - đại diện của các giới, các ngành, các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong nhân dân – giúp phản ánh một cách khách quan suy nghĩ, tâm tư của quần chúng nhân dân về vụ việc. HTND khi tham gia xét xử sẽ đưa những tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân vào trong mỗi bản án để có được phán quyết vừa đúng pháp luật, vừa được xã hội đồng tình ủng hộ. Như vậy, nhìn từ góc độ bản chất Nhà nước, hoạt động xét xử không 9 phải là hoạt động của một cá nhân mà là hoạt động của tập thể, không chỉ là hoạt động của cá nhân Thẩm phán mà còn có sự tham gia, giám sát của nhân dân thông qua những người đại diện cho họ, đó là HTND. Chế định HTND, vì vậy, thể hiện bản chất nhà nước là nhà nước của dân, do dân, vì dân, trong đó nhân dân làm chủ nhà nước, nắm quyền lực nhà nước, nhân dân được tham gia vào các hoạt động của nhà nước, trong đó có hoạt động xét xử. Ở khía cạnh nhân quyền và dân chủ, chế định Hội thẩm là một bảo đảm để các quyền cơ bản của công dân được tôn trọng khi đại diện của họ được tham gia vào các hoạt động của Nhà nước, trong đó có hoạt động xét xử của Tòa án, qua đó “đưa tiếng nói từ phía xã hội vào trong quá trình xét xử của Tòa án” [6]. Chế định HTND không chỉ giúp nhân dân tham gia có hiệu quả vào hoạt động xét xử mà còn giúp nhân dân kiểm tra hoạt động áp dụng pháp luật và đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống. Trong công tác xét xử, muốn việc áp dụng pháp luật được đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân thì các thành viên của Hội đồng xét xử không chỉ là người có trình độ cao về pháp luật mà còn phải có kiến thức và kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xã hội sâu sắc. HTND đáp ứng được yêu cầu đó do họ là những người làm trong mọi ngành nghề, đại diện của các giới, các ngành, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, là những người sống và làm việc tại cơ sở, có uy tín trong xã hội, được quần chúng tín nhiệm. Không những vậy, trong nhiều trường hợp, HTND còn có kiến thức sâu về một số lĩnh vực như y học, tâm lý xã hội, quản lý kinh tế... Với vốn hiểu biết thực tế, kinh nghiệm trong cuộc sống, với sự am hiểu về phong tục tập quán ở địa phương, Hội thẩm sẽ bổ sung các kiến thức thực tiễn cho Thẩm phán, giúp cho quá trình xét xử đúng đắn và hiệu quả. Hội thẩm có đời sống gần gũi, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân nên có nhiều vụ án, họ hiểu rõ tình hình, hoàn cảnh cũng như nguyên nhân vụ án. HTND sẽ thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, họ sẽ đưa tiếng nói từ 10 phía xã hội vào quá trình xét xử, giúp cho việc xét xử chính xác, khách quan, phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân. Mặt khác, xuất phát từ việc tiếp xúc và thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, nắm bắt được dư luận xã hội, thông qua công tác tuyên truyền, hòa giải, HTND góp phần đưa pháp luật đi vào thực tiễn, có sức sống trong thực tiễn. Thông qua việc tham gia xét xử, HTND còn góp phần tăng cường mối quan hệ giữa Tòa án với nhân dân. Tại hội nghị học tập của cán bộ ngành tư pháp năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Trong công tác xét xử phải công bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không chỉ giới hạn hoạt động của mình trong khung Tòa án mà phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân…”. Thông qua Hội thẩm, công tác xét xử của Tòa án đến với nhân dân, vì thế nhân dân hiểu và thông cảm với công tác của Tòa án. Cũng thông qua hoạt động tham gia xét xử của HTND sẽ giúp phản ánh khách quan cách nhìn nhận về sự kiện, vụ việc từ suy nghĩ, tâm tư của quần chúng nhân dân, từ đó Tòa án có thể nắm bắt được những vướng mắc, suy nghĩ, tình cảm của quần chúng nhân dân. Một phán quyết của Tòa án có thể sẽ nhận được sự đồng tình của dư luận nhưng cũng có thể sẽ bị phản ứng, thắc mắc của dư luận. Như vậy, thông qua chế định HTND, công tác xét xử của Tòa án vừa góp phần nâng cao tinh thần tự giác, tôn trọng và bảo vệ pháp luật của nhân dân, lại vừa chịu sự giám sát của nhân dân. Qua việc trực tiếp tham gia xét xử, HTND cũng sẽ giúp Tòa án thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân. Là những người trực tiếp tham gia quá trình giải quyết vụ án, HTND giúp Tòa án tuyên truyền về kết quả xét xử, phân tích rõ cơ sở áp dụng pháp luật về việc giải quyết vụ án, từ đó góp phần vào việc phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật của công dân vào đóng vai trò to lớn trong công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Trong thực tế, với kiến thức, kinh 11 nghiệm khi tham gia xét xử, nhiều HTND còn đóng vai trò tích cực và hiệu quả vào công tác hòa giải những mâu thuẫn, tranh chấp của công dân tại nơi họ làm việc, sinh sống. Bằng vai trò cá nhân, nhiều HTND đã và đang đóng góp có ý nghĩa vào việc giữ gìn “tình làng nghĩa xóm”, ổn định xã hội, phòng chống tội phạm ở các khu dân cư. 1.2. Pháp luật về vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam từ trước tới nay 1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển quy định về Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam 1.2.1.1. Giai đoạn 1945 đến 1975 Cách mạng tháng Tám thành công, 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra một Nhà nước kiểu mới- Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ở Việt Nam. Trong nhà nước kiểu mới đó, tòa án- cơ quan thực hiện quyền xét xử - được xác định là “một cơ quan trọng yếu của chính quyền” [6]. Văn bản pháp luật đầu tiên ghi nhận sự tham gia của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án ở Việt Nam (có tên gọi là Phụ thẩm nhân dân) là Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946. Điều thứ 17- Mục B- Sắc lệnh này quy định: “Về dân sự và thương sự, Chánh án xử một mình. Những khi xử các việc tiểu hình phải có thêm hai viên Phụ thẩm nhân dân góp ý kiến”. Sắc lệnh cũng có những quy định về quyền và nghĩa vụ của Phụ thẩm nhân dân khi tham gia hoạt động xét xử. Mặc dù vậy, trong Sắc lệnh này, Phụ thẩm nhân dân mới chỉ có quyền biểu quyết những việc tiểu hình mà không được tham gia giải quyết các việc dân sự và thương sự. Các Phụ thẩm nhân dân cũng không được xem hồ sơ trước khi phiên tòa. Mặc dù được Chánh án hỏi ý kiến về tội trạng của các phạm nhân và về hình phạt, nhưng Chánh án vẫn là người tự quyết định vụ việc, ý kiến của Phụ thẩm nhân dân chỉ là tham khảo. Nói tóm lại, vai 12 trò của Phụ thẩm nhân dân tại Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 còn mờ nhạt, mang đậm tính hình thức. Ngày 09/11/1946, Quốc hội Khoá I thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, theo đó hệ thống toà án được tổ chức thành: Tòa án Tối cao, các Tòa phúc thẩm, các Tòa đệ nhị cấp và các Tòa sơ cấp. Tòa án biệt lập với hành chính. Chỉ Tòa án mới có chức năng xét xử. Đặc biệt, nguyên tắc đại diện của nhân dân tham gia xét xử đã được ghi nhận và trở thành nguyên tắc hiến định. Cụ thể, Điều thứ 65 Hiến pháp 1946 quy định: “Trong khi xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu là việc đại hình”. Năm 1950, với sự ra đời của một loạt văn bản như Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, Sắc lệnh số 151/SL ngày 17/11/1950 về đặt thể lệ chỉ định các HTND và định thành phần TAND liên khu trong trường hợp đặc biệt, Sắc lệnh số 156/SL ngày 22/01/1950 về tổ chức TAND liên khu… đã hoàn thiện thêm chế độ HTND. Đặc biệt là Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng mà đã sửa đổi cơ bản Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946. Với Sắc lệnh này, Tòa án sơ cấp được đổi tên thành TAND huyện, Tòa án đệ nhị cấp được đổi tên thành TAND tỉnh - đã thể hiện sự đổi mới về chất của công tác tư pháp trong việc hình thành cơ chế mang tính nhân dân, thể hiện bản chất nhân dân của nhà nước, đó là chế định HTND thay thế chế định Phụ thẩm nhân dân. Tại Điều 3 Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 quy định: Để xử việc hình và việc hộ, TAND huyện và TAND tỉnh gồm một Thẩm phán và hai HTND; Tòa phúc thẩm gồm hai Thẩm phán và ba HTND. Như vậy, chế định HTND đã thay thế chế định Phụ thẩm nhân dân tại Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946. HTND do HĐND bầu và có quyền xem hồ sơ, có quyền biểu quyết, được hưởng đặc quyền tài phán như các Thẩm phán. Theo nghĩa đó, 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan