Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vi phạm di tích lịch sử, văn hóa danh lam thắng cảnh - Thực trạng và giải pháp...

Tài liệu Vi phạm di tích lịch sử, văn hóa danh lam thắng cảnh - Thực trạng và giải pháp

.PDF
116
465
74

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT KHOA THỊ KHÁNH CHI VI PHẠM DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA DANH LAM THẮNG CẢNH - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hµ Néi - 2010 MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU ............................................................................ 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DI TÍCH 6 1.1 LỊCH SỬ-VĂN HÓA, DANH LAM THẮNG CẢNH Khái niệm di tích .................................................................. 1.2 Phân loại di tích .................................................................... 7 1.2.1 Di tích lịch sử ....................................................................... 7 1.2.2 Di tích kiến trúc nghệ thuật .................................................. 8 1.2.3 Di tích khảo cổ học ............................................................... 8 1.2.4 Danh lam thắng cảnh ............................................................ 8 1.3 Vi phạm di tích ..................................................................... 9 1.3.1 Khái niệm .............................................................................. 9 1.3.2 Phân loại vi phạm di tích ...................................................... 11 1.4 Cơ sở pháp lý để ngăn chặn và xử lý vi phạm di tích ........... 13 1.4.1 Sắc lệnh số 65/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 về việc thành 14 6 lập Đông Phương Bác Cổ học viện và Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam ................................................... 1.4.2 Nghị định số 519-TTg ngày 29 tháng 10 năm 1957 quy định 15 các luật lệ cơ bản cho hoạt động bảo tồn di tích ........... 1.4.3 Pháp lệnh số 14-LCT/HĐND ngày 04 tháng 4 năm 1984 của 15 Hội đồng Nhà nước (nay là Chủ tịch nước) bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh 1.4.4 Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 17 1992 ..................................................................................... 1.4.5 Luật di sản văn hóa năm 2001 và Luật sửa đổi bổ sung một số 17 điều của Luật di sản văn hoá năm 2009 ........................... 1.4.6 Nghị định số 92/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ 19 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa; Nghị định 98/2010/NĐ-CP ngày 06/11/2010 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa 1.4.7 1.4.8 Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa ................................................................................. Một số Luật có liên quan: Luật Khoáng sản, Luật đất đai, Luật 19 19 Xây dựng ...................................................................... Chương 2: THỰC TRẠNG VI PHẠM DI TÍCH 20 2.1 Thực trạng chung ................................................................. 20 2.2 Một số vi phạm di tích điển hình ......................................... 32 2.2.1 Di tích chùa Phước Điền (chùa Hang)-An Giang ................ 32 2.2.2 Di tích đền Độc Cước – Thanh Hóa .................................... 37 2.2.3 Di tích Mộ và Đền thờ Trần Quý Khoáng – Nghệ An ......... 47 2.2.4 Di tích núi Tam Thanh và núi Nàng Tô Thị - Lạng Sơn 65 2.3. Nguyên nhân ........................................................................ 84 2.3.1 Nguyên nhân khách quan ..................................................... 84 2.3.2 Nguyên nhân chủ quan ........................................................ 85 Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ VI PHẠM DI TÍCH, NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ DI TÍCH LỊCH SỬ-VĂN HÓA, DANH LAM 3.1 THẮNG CẢNH. Quan điểm, mục tiêu của Đảng và Nhà nước trong công tác bảo 87 vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ............................ 87 3.2 Các giải pháp nhằm hạn chế vi phạm di tích ........................ 89 3.2.1 Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về di sản văn hóa 89 3.2.2 Nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong 92 công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích .................. 3.2.3 Tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa.......................................................................................... 93 3.2.4 Tăng cường công tác quản lý, đặc biệt là ở địa phương 3.2.5 Những biện pháp hỗ trợ, di dời những hộ dân ra khỏi di tích........................................................................................ 94 96 3.2.6 Tổ chức bộ máy và phân cấp quản lý di tích........................ 97 3.2.7 Kiểm tra và hoàn thiện hồ sơ xếp hạng di tích..................... 98 3.2.8 Xây dựng nhiều chế độ, chính sách về tài chính cho công tác bảo vệ di tích ................................................................. 99 Đưa di tích đến với cộng đồng............................................. 99 3.2.10 Giải quyết giữa bảo tồn và phát triển................................... 100 3.2.11 Nghiên cứu, phục dựng lại di tích........................................ 103 3.2.12 Tăng cường các biện pháp xử phạt hành chính.................... 104 3.2.9 KẾT LUẬN 106 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Điều 34 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa dân tộc; chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu bổ, tôn tạo, bảo vệ và phát huy tác dụng của các di tích lịch sử, cách mạng, các di sản văn hóa, các công trình nghệ thuật, các danh lam, thắng cảnh. Nghiêm cấm các hành động xâm phạm đến các di tích lịch sử, cách mạng, các công trình nghệ thuật và danh lam, thắng cảnh”. Di sản văn hóa là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa là trách nhiệm của toàn xã hội. Sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, ngày 23 tháng 11 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 65 về bảo vệ di tích trên toàn cõi Việt Nam. Việc cấm phá huỷ đình, chùa, đền, miếu, cung điện, thành quách, lăng mộ…đã được Sắc lệnh chỉ rõ. Nhưng do cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài trong suốt 9 năm nên chúng ta chưa có điều kiện để tiến hành công việc bảo vệ các di tích của đất nước. Để bảo vệ tốt những giá trị truyền thống mà cha ông ta đã để lại, ngày 29 tháng 10 năm 1957 Thủ tướng Chính phủ Ban hành Nghị định số 519-TTg về việc bảo vệ di tích lịch sử, cách mạng và danh thắng. Trải qua 27 năm thực hiện Nghị định 519-TTg, Bộ Văn hoá - Thông tin đã xếp hạng được 187 di tích. Sau đó, ngày 04 tháng 4 năm 1984 Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã công bố Lệnh số 14LCT/HĐNN7 ban hành Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh. Trong điều kiện hiện nay, khi đất nước đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì việc bảo vệ các di tích ngày càng trở nên quan trọng. Luật Di sản văn hoá được Quốc hội khoá IX thông qua và có hiệu lực 1 từ ngày 01 tháng 01 năm 2002 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa năm 2009 nhằm cụ thể hoá đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ và phát huy giá trị của các di sản văn hoá trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Nghị quyết TW 5 khoá VIII của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ ra rằng di sản văn hoá là bộ phận cấu thành cơ bản nhất của văn hoá. Văn hoá là nền tảng tinh thần của toàn xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Văn hoá thể hiện tâm hồn và khí phách của người Việt Nam, nhân chứng của lịch sử Việt Nam, thể hiện lòng tự hào của nhân dân Việt Nam về đất nước và con người, về truyền thống hào hùng của dân tộc. Tuy nhiên, hiện nay một phần không nhỏ các di tích đang bị xâm hại dẫn đến di tích bị xuống cấp nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân như: chiến tranh tàn phá, sự huỷ hoại của thời gian và khắc nghiệt của khí hậu. Bên cạnh đó, sự thiếu ý thức của con người cũng làm cho các di tích bị biến dạng, xuống cấp. Tình trạng vi phạm di tích đang diễn ra ở nhiều địa phương trong cả nước.Việc đào bới, khai quật khảo cổ trái phép, lấn chiếm, xây dựng trái phép, tu bổ, tôn tạo di tích không theo một quy hoạch nhất định đã làm cho di tích mất dần đi tính nguyên gốc và giá trị vốn có của nó. Việc quản lý di tích còn lỏng lẻo, sự phân cấp giữa các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương xuống địa phương chưa được thực hiện tốt nên khi xảy ra vi phạm di tích đã không thể xử lý kịp thời. Do đó, việc phân tích, đánh giá vi phạm di tích và nguyên nhân dẫn đến hành vi xâm hại di tích và tìm ra những biện pháp xử lý là một trong những nhiệm vụ cần thiết và cấp bách hiện nay. Nhận thức được tính thời sự và cấp bách của vấn đề nên tác giả đã chọn đề tài “Vi phạm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh - thực trạng và giải pháp” cho luận văn thạc sĩ của mình. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở nước ta hiện nay, vấn đề về vi phạm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh hầu như chưa có nhà khoa học nào quan tâm, nghiên cứu, chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu trực tiếp, sâu và toàn diện về vấn đề này. Tuy nhiên, có những bài viết liên quan đến vấn đề này như: - Nguyễn Thế Hùng (2004), “Đôi điều về tu bổ di tích tín ngưỡng – tôn giáo”, Tạp chí di sản văn hóa, số 6, tr 62-65, Hà Nội. - Đặng Văn Bài (2006), “Tu bổ và tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa là hoạt động có tính đặc thù chuyên ngành”, Tạp chí di sản văn hóa, số 15, tr10-16, Hà Nội. - Đỗ Văn Trụ (2005), “Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc”, Tạp chí di sản văn hóa, số 13, tr 20-23, Hà Nội. - Nguyễn Thế Hùng (2007), “Phát huy giá trị di tích phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước”, Tạp chí di sản văn hóa, số 20, tr 2731, Hà Nội. - Nguyễn Quốc Hùng (2008), “Truyền thống văn hóa Việt Nam qua di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh”, Tạp chí di sản văn hóa, số 25, tr 3-8, Hà Nội. - Đoàn Bá Cử (2006), “Đôi điều về tu bổ di tích trong thời gian qua”, Tạp chí di sản văn hóa, số 17, tr 69-72, Hà Nội. - Hà Văn Tấn (2008), “Bảo vệ di tích lịch sử văn hóa trong bối cảnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước”, Một con đường tiếp cận di sản văn hóa, tập 2, Cục Di sản văn hóa, tr 44-54, Hà Nội. - Nguyễn Hữu Toàn (2008), “Tu bổ, tôn tạo di tích trong cuộc sống đương đại – Mấy vấn đề đặt ra”, Một con đường tiếp cận di sản văn hóa, tập 4, Cục Di sản văn hóa, tr 69-76, Hà Nội. 3 3. Mục đích nghiên cứu Xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước về di sản văn hóa và thực trạng vi phạm di tích hiện nay, với mục đích nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước (bằng cách xây dựng và ban hành những văn bản quy phạm pháp luật) nhằm hạn chế những hành vi vi phạm di tích và bảo vệ di tích những tác động xấu từ con người và tự nhiên. Tìm ra những giải pháp thích hợp để ứng xử phù hợp khi có những hành vi xâm phạm di tích. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Những hành vi vi phạm di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh của tổ chức, cá nhân; những hoạt động xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa. * Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi không gian: Vi phạm di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh trên địa bàn cả nước. Phạm vi thời gian: Từ khi Luật di sản văn hóa có hiệu lực ngày 01/01/2002 cho đến nay. * Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, về Chính phủ phục vụ nhân dân; quán triệt các quan điểm, chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trong quá trình tiếp cận, nghiên cứu đề tài, tác giả đồng thời sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phân tích – tổng hợp, so sánh, kết hợp với đi kiểm tra thực tế tại di tích nhằm thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến nội dung của đề tài. 4 5. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn Từ góc độ khoa học quản lý nhà nước, có thể xem đây là một cố gắng đầu tiên của ngành di sản văn hóa trong việc quản lý và bảo vệ di sản văn hóa nói chung và di tích, lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh nói riêng một cách chuyên sâu và toàn diện. Vì thế, luận văn: - Có ý nghĩa thực tiễn góp phần đánh giá toàn diện những hành vi vi phạm di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh. - Đóng góp cho công tác tăng cường quản lý nhà nước và hiệu quả hoạt động xây dựng, ban hành và hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. - Góp phần hoàn thiện các môn học về quản lý di sản văn hóa Việt Nam. 6. Bố cục của luận văn Kết cấu đề tài ngoài phần giới thiệu mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh. Chương 2: Thực trạng vi phạm di tích. Chương 3: Giải pháp nhằm hạn chế vi phạm di tích, nâng cao hiệu quả công tác quản lý và bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh. 5 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DI TÍCH LỊCH SỬ-VĂN HÓA, DANH LAM THẮNG CẢNH 1.1. Khái niệm di tích Trước khi tìm hiểu khái niệm di tích, phải hiểu về di sản văn hóa. Theo quy định của Luật di sản văn hóa được Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, khóa X, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2001, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa năm 2009 thì di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 28, tr 32. Trong khái niệm này, thì di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan; có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học; thể hiện bản sắc của cộng đồng; không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Như vậy, di tích lịch sử - văn hóa (gọi chung là di tích) là một bộ phận của di sản văn hóa vật thể. Từ những khái niệm trên, ta có khái niệm di tích là “công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học” 28, tr 33. Trong đó, di vật được hiểu là “hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học”; cổ vật được hiểu là “hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học và có từ 100 năm tuổi trở nên”; bảo vật quốc gia được hiểu là “hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm về các mặt lịch sử, văn hóa, khoa học” 28, tr 33-34. Theo quan niệm truyền thống, di tích lịch sử - văn hóa gồm các bộ phận cấu thành sau đây: 6 Một là, các công trình kiến trúc, địa điểm có liên quan tới các sự kiện lịch sử hoặc nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa. Hai là, những đồ vật trong nội thất các công trình kiến trúc (vật dụng cá nhân, đồ tế tự trong các thiết chế văn hóa, tín ngưỡng...) Ba là, môi trường cảnh quan thiên nhiên xem kẽ hoặc bao quanh di tích. Bốn là, những giá trị di sản văn hóa phi vật thể gắn với các công trình địa điểm đó. Theo quan niệm hiện đại, khái niệm di tích được mở rộng 28, tr46-48: Một quần thể kiến trúc hoàn chỉnh gồm nhiều công trình kiến trúc gắn bó với nhau vào một cơ cấu thống nhất. + Trung tâm lịch sử của một đô thị cổ. + Khu phố cổ gồm nhiều đường phố khác nhau. + Di sản kiến trúc đô thị: . Ý tưởng quy hoạch gắn kiến trúc với môi trường tự nhiên . Cơ cấu đô thị . Diện mạo kiến trúc đô thị . Lối sống, nếp sống văn minh đô thị + Bộ phận di sản văn hóa phi vật thể gắn với di tích lịch sử - văn hóa Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên và công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học 28, tr 33. 1.2. Phân loại di tích Căn cứ vào đặc điểm nội dung và hình thức thì di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh được phân ra thành 4 loại: di tích lịch sử, di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích khảo cổ học và danh lam thắng cảnh. 1.2.1. Di tích lịch sử bao gồm những công trình, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trình dựng nước và giữ nước; gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân đất nước, gắn với sự kiện lịch 7 sử tiêu biểu của các thời kỳ cách mạng, kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Di tích lịch sử liên quan tới sự kiện hoặc nhân vật lịch sử có những đóng góp, ảnh hưởng tới sự tiến bộ của lịch sử dân tộc. Đến với di tích lịch sử, khách tham quan như được đọc cuốn sử ghi chép về những con người, những sự kiện tiêu biểu, được cảm nhận một cách chân thực về lịch sử, những cảm nhận không dễ có được khi chỉ đọc những tư liệu ghi chép của đời sau. 1.2.2. Di tích kiến trúc nghệ thuật bao gồm quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử. Giá trị của di tích kiến trúc nghệ thuật thể hiện ở quy hoạch tổng thể và bố cục kiến trúc, ở sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc với cảnh quan, ở những bức chạm khắc trên kết cấu gỗ, ở vẻ đẹp thánh thiện của những pho tượng cổ, ở nét chạm tinh xảo của những đồ thờ tự... 1.2.3. Di tích khảo cổ học gồm những địa điểm khảo cổ có giá trị nổi bật, đánh dấu các giai đoạn phát triển của các văn hóa khảo cổ. Việt Nam là một trong những quốc gia có nhiều di tích khảo cổ. Các di tích, di vật khảo cổ học là nguồn sử liệu quan trọng giúp việc biên soạn lịch sử trái đất và lịch sử dân tộc từ thời tiền/sơ sử tới các thời kỳ lịch sử sau này. 1.2.4. Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ cao hoặc địa điểm ghi dấu hoạt động của con người trong lịch sử để lại, có giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học. Danh lam thắng cảnh thường được kết hợp giữa công trình tôn giáo tín ngưỡng với cảnh quan thiên nhiên đẹp. Đất nước ta ở miền nhiệt đới, trải dài trên nhiều vĩ tuyến, có “Rừng vàng biển bạc” với một hệ động thực vật đặc biệt phong phú và nhiều hang động kỳ thú đủ sức hấp dẫn mọi du khách. Căn cứ vào giá trị về các mặt lịch sử, văn hóa, khoa học và cấp độ quản lý các di tích lại được chia thành ba loại 28, tr 46-48: 8 Một là, di tích quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia do Thủ tướng Chính phủ ra quyết định xếp hạng. Hai là, di tích quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ra quyết định xếp hạng. Ba là, di tích cấp tỉnh, thành phố là di tích có giá trị tiêu biểu trong phạm vi địa phương do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ra quyết định xếp hạng. Việc hiểu rõ nội hàm khái niệm di tích và các hình thức phân loại di tích có ý nghĩa quan trọng để xác định thái độ ứng xử đúng cho từng loại hình di tích. Đây cũng là một trong những cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách và xây dựng hệ thống văn bản pháp luật trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. 1.3. Vi phạm di tích 1.3.1. Khái niệm Vi phạm di tích là những hành vi trái với quy định của Luật di sản văn hóa, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hoá và pháp luật khác có liên quan làm thay đổi yếu tố gốc, làm sai lệch giá trị và làm biến đổi cảnh quan, môi trường di tích. Hiện tượng vi phạm di tích còn diễn ra khá phổ biến dưới nhiều hình thức như: lấn chiếm đất đai di tích; xây dựng công trình trái phép làm ảnh hưởng đến cảnh quan sinh thái nhân văn xung quanh di tích; tu bổ, tôn tạo không được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khai quật, trục vớt trái phép các địa điểm khảo cổ, tổ chức dịch vụ văn hóa, khai thác di tích trái với quy định của pháp luật, thậm chí cá biệt có nơi hiện tượng thương mại hóa di tích còn khá phổ biến. Điển hình là 42 điểm xây dựng chùa trái phép tại khu di tích thắng cảnh Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội, xem ảnh 1.1). Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây giải quyết dứt điểm tình trạng hiện tượng xây dựng chùa và dẹp bỏ được những chùa đã được xây 9 trái phép nêu trên. Cũng là một hiện tượng vi phạm di tích, tại chùa Tây Phương, người dân đã san, gạt đất đồi để xây lều quán bán hàng gây mất cảnh quan và mỹ quan môi trường xung quanh di tích (xem ảnh 1.2). Đây là hệ quả của việc buông lỏng quản lý của chính quyền xã, huyện nên mới xảy ra những hiện tượng vi phạm nêu trên. Bên cạnh đó, phải kể đến sự thiếu hiểu biết của một bộ phận không nhỏ nhân dân trong việc bảo vệ và phát huy di tích. Ảnh 1.1: Chùa xây dựng trái phép tại di tích thắng cảnh Hương Sơn, Hà Tây (nay là Hà Nội) Nguồn: Cục Di sản văn hóa 10 Ảnh 1.2: Điểm xây dựng trái phép tại di tích chùa Tây Phương, Hà Tây (nay là Hà Nội) Nguồn: Cục Di sản văn hóa 1.3.2. Phân loại vi phạm di tích Điều 13 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hoá quy định “Nghiêm cấm các hành vi sau đây: Chiếm đoạt, làm sai lệch di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh; huỷ hoại, hoặc gây nguy cơ huỷ hoại di sản văn hoá; đào bới trái phép địa điểm khảo cổ, xây dựng trái phép, lấn chiếm đất đai thuộc di tích lịch sử-văn hoá, danh lam thắng cảnh; mua bán, trao đổi, vận chuyển trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích lịch sử-văn hoá, danh lam thắng cảnh và di vât, cổ vật, bảo vật quốc gia có nguồn gốc bất hợp pháp, đưa trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài” 28,tr 38. Những hành vi mà Luật di sản văn hoá và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hoá quy định là phải có giấy phép mới được thực 11 hiện nhưng vẫn thực hiện mà không có giấy phép. Ví dụ điển hình cho hành vi vi phạm này là di tích Hồ Tịnh Tâm (Thừa thiên Huế). Tại di tích này, một số hộ dân trong khu vực bảo vệ di tích Hồ Tịnh Tâm đã tiến hành cải tạo, sửa chữa, xây dựng mới một số công trình trong khu vực di tích mà không có sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chính quyền địa phương đã đình chỉ và bắt tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng trái phép. Nhưng đến nay, các công trình này không những không bị tháo dỡ mà còn được hoàn thiện. Những hành vi mà khi được cấp giấy phép rồi nhưng thực hiện không đúng với nội dung trong giấy phép. Ví dụ điển hình cho hành vi vi phạm này là di tích đền Độc Cước, đền Cô Tiên, tỉnh Thanh Hóa với hai hành vi vi phạm: là tu bổ tôn tạo không đúng với những nội dung mà Cục Di sản văn hóa đã cho phép và xây dựng các công trình trong khu vực bảo vệ II, phá vỡ cảnh quan môi trường di tích. Trong văn bản cho phép nêu rất rõ “Không xây dựng lầu hóa vàng và lầu vọng cảnh; giữ nguyên hiện trạng môn lâu, không thay đổi kết cấu và họa tiết trang trí trên các cấu kiện khi tu bổ môn lâu; tu bổ tôn tạo Tiền đường theo hình thức, cấu trúc vì kèo hiện trạng, không tu bổ theo hình thức vì kèo của tòa Trung đường, riêng phần kẻ cổ ngỗng ở hiên cần nghiên cứu tu bổ cho phù hợp với hình thức kết cấu bên trong, phải đảm bảo được vững chắc, chống chịu được mưa bão; Hạng mục Trung đường: cần bảo tồn tuyệt đối các mảng trạm khắc thế kỷ 17, 18; đánh dấu các cấu kiện thay mới, cấu kiện tu bổ và cấu kiện bảo quản tái sử dụng trên các bản vẽ thiết kế tu bổ, tôn tạo, đồng thời bổ sung bản vẽ nối, vá, thay cốt, ốp mang; Thống nhất phương án thay thế hệ thống vì kèo gỗ phần xây bằng gạch không phù hợp của gian cuối hậu cung; Trước khi hạ giải các cấu kiện kiến trúc cần đánh số và sau khi hạ giải cần đánh giá, phân loại tình trạng các cấu kiện kiến trúc để có phương án tu bổ, tôn tạo thích hợp nhằm bảo tồn tối đa yếu tố gốc của di tích; Vật liệu gỗ đưa vào tu bổ, tôn tạo phải được ngâm, tẩm chống mối mọt theo quy trình; Đèn chiếu sáng chỉ mang tính chất bảo vệ di tích, hình 12 thức cần đảm bảo phù hợp với cảnh quan và tính thâm nghiêm của di tích”. Tuy nhiên, đến khi kiểm tra, tất cả các hạng mục nêu trong văn bản cho phép của Cục Di sản văn hóa gần như không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng với những nội dung đã thỏa thuận. Kết quả là di tích bị biến dạng, các yếu tố gốc cấu thành di tích không giữ được mà thay vào đấy là những sản phẩm mới, kiến trúc mới, cấu kiện mới. Điều này đồng nghĩa với việc di tích đã bị xâm hại. 1.4. Cơ sở pháp lý để ngăn chặn và xử lý vi phạm di tích Trong thực tiễn, hành vi vi phạm di tích có rất nhiều như: ăn cắp di vật, cổ vật tại di tích, lấn chiếm đất đai di tích, xây dựng trái phép trong di tích, tu bổ tôn tạo di tích không được sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tu bổ, tôn tạo không đúng với những nội dung đã được quy định trong giấy phép, khai thác, sử dụng di tích không đúng mục đích làm phá vỡ cảnh quan môi trường di tích, phá di tích cũ để xây di tích mới (mà chủ yếu tập trung vào những di tích là đình, đền, chùa)... Bảo tồn di tích là hoạt động bảo vệ di tích khỏi những tác động chủ quan và khách quan. Ngăn chặn và xử lý vi phạm di tích cũng là một hoạt động bảo tồn di tích. Dưới các triều đại phong kiến, ý thức giữ gìn, bảo quản, kiểm kê và tu bổ di tích đã được cả chính quyền trung ương và toàn xã hội chú ý. Trong các bộ sử ký, các sách địa chí đều có các ghi chép về di tích như: đình, đền, chùa, quán, miếu, thành quách...và các nhân vật lịch sử. Bộ Luật Hồng Đức ban hành dưới triều vua Lê Thánh Tông có điều khoản ghi việc trừng phạt những người lấy cắp, phá huỷ tượng phật và chuông đồng cổ. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX người Pháp đã tiến hành điều tra, nghiên cứu về các di tích kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ học trên đất nước ta. Nhưng việc ban hành các văn bản pháp lý để quản lý và điều hành các hoạt động có tính chất bảo vệ di tích là hầu như không có gì. Từ sau năm 1945 và nhất là sau năm 1954 là hoạt động bảo tồn di tích ở Việt Nam bắt đầu tiếp cận với khoa học bảo tồn hiện đại của thế giới. Và cũng bắt đầu từ đây các văn bản pháp lý từng bước được 13 xây dựng để làm sơ sở cho mọi hoạt động có liên quan, đặc biệt là hoạt động bảo tồn di tích. 1.4.1. Sắc lệnh số 65/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 về việc thành lập Đông Phương Bác Cổ học viện và Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam. Ngay sau Cách mạng tháng 8 thành công trong lúc phải đối phó với giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà không quên tới việc bảo vệ các di sản văn hoá của dân tộc. Nhà nước ta chủ trương đặt toàn bộ các di tích dưới sự bảo hộ của pháp luật. Tư tưởng đó được thể hiện rất rõ ràng, cụ thể trong Sắc lệnh số 65/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 về việc thành lập Đông Phương Bác Cổ học viện và bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. Nội dung Sắc lệnh nêu rõ “Cấm phá huỷ đình, đền, chùa, đền miếu hoặc những nơi thờ tự khác như cung điện, thành quách cùng lăng mộ đình chùa được bảo tồn” 13. Sắc lệnh đã khẳng định quan điểm và nhận thức đúng đắn của Chính phủ đối với vai trò và ý nghĩa quan trọng của các di tích trong công cuộc kiến thiết đất nước. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ đã không cho phép chúng ta mở rộng hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ di tích của đất nước. Ngay trong những năm tháng ác liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, nhiều Chỉ thị, Thông tư của Chính phủ, của Bộ Văn hoá liên tiếp được ban hành nhằm tăng cường bảo vệ các di tích lịch sử- văn hoá của đất nước như: Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 1999-VG ngày 15 tháng 5 năm 1958 về việc cấm đào bới mộ cổ; Thông tư của Thủ tướng số 442-TTg ngày 09 tháng 11 năm 1960 về việc bảo vệ các di sản văn hoá, ngăn chặn hoạt động xuất khẩu cổ vật trái phép; Ngày 13/12/1963 Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị về bảo vệ và quản lý những sách tài liệu văn hoá bằng chữ Hán, chữ Nôm; Tiếp theo ngày 29 tháng 4 năm 1966 có Thông tư về việc bảo vệ di tích lịch sử, di tích nghệ thuật và hang động được sử dụng vào công tác sơ tán phòng không. Có thể nói, văn bản pháp lý được ban hành trong giai đoạn này đã bám sát với hoạt động thực tiễn chung của đất nước. 14 1.4.2. Nghị định số 519-TTg ngày 29 tháng 10 năm 1957 quy định thể lệ về bảo tồn di tích. Một văn bản pháp lý quan trọng khác có giá trị nền tảng cho hoạt động bảo vệ di tích nói riêng và bảo tồn bảo tàng nói chung là Nghị định số 519TTg ngày 29 tháng 10 năm 1957 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký quy định các luật lệ cơ bản cho hoạt động bảo tồn di tích thời gian này. Nghị định gồm 7 mục 12 điều trong đó mục II quy định về liệt hạng di tích, mục III quy định về sưu tầm và khai quật, mục IV quy định về bảo quản, mục V quy định về trùng tu, sửa chữa, mục VI quy định về xuất nhập khẩu những di vật có giá trị lịch sử. Như vậy, từ năm 1957 cho tới năm 1984, Nghị định số 519-TTg đã phát huy tốt tác dụng làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của toàn ngành, đặc biệt là hoạt động bảo vệ di tích. 1.4.3. Pháp lệnh số 14-LCT/HĐND ngày 04 tháng 4 năm 1984 của Hội đồng Nhà nước (nay là Chủ tịch nước) bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử -văn hoá và danh lam thắng cảnh. Sự nghiệp bảo vệ di sản văn hoá nói chung và di tích nói riêng đang từng bước phát triển, đòi hỏi hệ thống các văn bản pháp lý phải được nâng cao và hiệu chỉnh sao cho phù hợp với tình hình thực tế. Sau nhiều năm tháng biên soạn và quan hơn 20 lần chỉnh lý Pháp lệnh số 14-LCT/HĐND ngày 04 tháng 4 năm 1984 của Hội đồng Nhà nước (nay là Chủ tịch nước) ra đời. Pháp lệnh là căn cứ pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ di tích trong thời kỳ đất nước vừa hoàn toàn thống nhất. Tiếp theo vào các năm 1985, 1986 Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định việc thi hành Pháp lệnh và Thông tư hướng dẫn thi hành Pháp lệnh của Bộ Văn hoá ban hành. Đây là bước tiến lớn của ngành bảo tồn bảo tàng nhằm thống nhất quản lý và chỉ đạo mọi hoạt động bảo vệ di tích bằng các điều luật cụ thể. Pháp lệnh ra đời đã bảo vệ được hàng ngàn di tích. Ở vào thời điểm này do những khó khăn về kinh tế, do hạn chế về nhận thức nhiều di tích của chúng ta không được bảo vệ chăm sóc trong một thời gian dài, bị sử dụng không đúng mục đích hoặc bị 15 vi phạm lấn chiếm, nhờ có Pháp lệnh và một cơ chế quản lý mới với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” đã góp phần cứu vãn sự huỷ hoại của nhiều di tích, góp phần ngăn chặn những vi phạm đất đai của di tích. Giai đoạn này, kinh tế của đất nước còn cực kỳ khó khăn bởi toàn đảng, toàn dân tập trung vào việc khắc phục hậu quả chiến tranh và dần đi vào ổn định. Mặc dù vậy, chúng ta cũng phải thừa nhận với nhau rằng, khi đưa Pháp lệnh đi vào thực tiễn mới xuất hiện những hạn chế sau: chỉ có Bộ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin (nay là Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) căn cứ vào đề nghị của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương ra quyết định công nhận là di tích. Có nghĩa là chỉ có một cấp có thẩm quyền quyết định công nhận di tích. Điều đáng lưu ý nhất ở Pháp lệnh là chỉ có 2 cấp quản lý di tích đó là Bộ Văn hoá – Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, không phân cấp cho các cấp hành chính khác quản lý di tích. Các di tích được Bộ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin (nay là Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) công nhận gọi chung là di tích quốc gia. Tuy nhiên, số lượng di tích được phát hiện trong quá trình điều tra, kiểm kê, đăng ký là rất lớn, nhu cầu các địa phương được công nhận và đặt di tích dưới sự bảo hộ của pháp luật là rất cấp bách nhưng chỉ một cấp là Bộ Văn hoá – Thông tin mới có thẩm quyền quyết định công nhận thì không còn phù hợp nữa, không đáp ứng kịp thời nhu cầu của địa phương, đôi khi còn gây hiền hà cho nhân dân, đặc biệt là công tác bảo vệ và phát huy giá trị của di tích chưa được đảm bảo, hiện tượng vi phạm di tích bắt đầu gia tăng không ngừng, những hành vi như lấn chiếm đất đai di tích, xin vào ở nhờ di tích do hoàn cảnh khó khăn nhưng mãi vẫn không chịu ra khỏi di tích khi có điều kiện, xây dựng những công trình dân dụng phục vụ sinh hoạt hàng ngày của những hộ dân sống trong di tích bắt đầu có dấu hiệu tăng dần. Việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trong thời gian qua đã đưa đến những thay đổi mạnh mẽ trong cơ cấu kinh tế, cấu trúc xã hôị... Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hoá và danh 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan