Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Về việc thành lập và hoạt động của ngân hàng nước ngoài tại cộng hoà dân chủ nhâ...

Tài liệu Về việc thành lập và hoạt động của ngân hàng nước ngoài tại cộng hoà dân chủ nhân dân lào

.DOC
105
91
135

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN KHÁNH TUYẾT VÒ viÖc thµnh lËp vµ ho¹t ®éng cña Ng©n hµng níc ngoµi t¹i Céng hoµ d©n chñ nh©n d©n Lµo LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN KHÁNH TUYẾT VÒ viÖc thµnh lËp vµ ho¹t ®éng cña Ng©n hµng níc ngoµi t¹i Céng hoµ d©n chñ nh©n d©n Lµo Chuyên ngành : Luật quốc tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS.GVC. Nguyễn Lan Nguyên Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Những kết quả và số liệu trong luận văn chưa được ai công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà nội. Vậy tôi viết lời cam đoan này, đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 23 tháng 12 năm 2014 Người cam đoan Trần Khánh Tuyết MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI CHDCND LÀO 1.1. 9 Pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Ngân hàng .....................................................................................................10 1.1.1. Pháp luật về đầu tư 1.1.2. Pháp luật về ngân hàng 1.1.3 Các hiệp định thương mại liên quan giữa Lào và Việt Nam 1.2. 10 15 17 Quy định của pháp luật về các loại hình Ngân hàng nước ngoài hoạt động tại CHDCND Lào....................................................20 1.2.1. Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Lào 23 1.2.2. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài và ngân hàng liên doanh 1.2.3. 25 Văn phòng đại diện 28 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI CHDCND LÀO 30 2.1. Áp dụng pháp luật về việc thành lập chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại CHDCND Lào............................................................30 2.1.1. Nhận xét chung 32 2.1.2 Vấn đề áp dụng pháp luật trong quá trình thành lập chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại CHDCND Lào 37 2.1.2.1 Áp dụng pháp luật Việt Nam 37 2.1.2.2 Áp dụng pháp luật CHDCND Lào 56 2.2. Áp dụng pháp luật trong hoạt động của Ngân hàng nước ngoài tại CHDCND Lào......................................................................66 CHƯƠNG 3. KIẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP CHO CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI HOẠT ĐỘNG TẠI CHDCND LÀO 3.1. 76 Một số khó khăn trong tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài.........................................................................76 3.2. Một số giải pháp trong việc tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại CHDCND Lào.............................80 3.2.1. Tận dụng cơ hội bằng các điểm mạnh hiện tại của ngân hàng nước ngoài 82 3.2.2. Một số giải pháp đối với Ngân hàng thương mại Việt Nam khi đầu tư vào CHDCND Lào 87 3.2.3 Các giải pháp cụ thể KẾT LUẬN 90 94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN CHDCND : Cộng hòa dân chủ nhân dân CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa ĐTNN : Đầu tư nhà nước KTXH : Kinh tế xã hội NSNN : Ngân sách nhà nước NHNN : Ngân hàng nhà nước TCTD : Tổ chức tín dụng TMCP : Thương mại cổ phần TW : Trung ương USD : Đồng Đô la Mỹ MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (Lao People’s Democratic Republic) có vị trí địa lý phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây bắc giáp Mi-an-ma, phía tây nam giáp Thái Lan; phía nam giáp Căm-pu-chia và phía đông giáp Việt Nam. Lào có diện tích: 236.800 km2, dân số: 6.521.998 (tính đến tháng 7/2007). Lào có 68 bộ tộc chia làm 3 hệ chính là Lào Lùm (sống ở đồng bằng) chiếm 65% dân số; Lào Thâng (sống ở lưng chừng núi) chiếm 22% và Lào Xủng (sống vùng núi cao) chiếm 13% dân số. Lào xây dựng và phát triển chế độ Dân chủ Nhân dân, tạo tiền đề để từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Quốc hội do dân bầu, nhiệm kỳ 5 năm. Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia; Chính phủ do Thủ tướng đứng đầu, có 15 Bộ và cơ quan ngang Bộ. Từ Đại hội IV (1986) Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã đề ra đường lối đổi mới, Đại hội V (1991) tiếp tục cụ thể hóa và hoàn thiện đường lối đổi, tiếp tục xây dựng và phát triển chế độ Dân chủ Nhân dân, từng bước tiến tới mục tiêu XHCN. Đại hội VI (1996) tổng kết 5 bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn 10 năm lãnh đạo thực hiện đổi mới và đánh giá đó là thành quả lịch sử quan trọng. Đại hội VII (2001) đã triển khai đường lối đổi mới thành chiến lược phát triển đất nước đến năm 2020. Đại hội VIII (3/2006) tiếp tục khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược là bảo vệ và xây dựng Tổ quốc và đường lối đổi mới để phát triển đất nước vững chắc hơn, đưa Lào ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo tiền đề vững chắc cho “công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hướng tới CNXH. Lào là nước nằm sâu trong lục địa, không có đường thông ra biển và chủ yếu là đồi núi trong đó 47% diện tích là rừng. Có một số đồng bằng nhỏ ở vùng thung lũng sông Mê-công hoặc các phụ lưu như đồng bằng Viêng- Chăn, Chăm-pa-xắc, 45 % dân số sống ở vùng núi. Hiện nay Lào có 800.000 ha đất canh tác nông nghiệp với 85% dân số sống bằng nghề nông. Lào có nguồn tài nguyên phong phú về lâm, nông nghiệp, khoáng sản và thuỷ điện. Nền kinh tế trong những năm gần đây có nhiều tiến bộ với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội do các kỳ đại hội và các chương trình kế hoạch 5 năm đề ra. Các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1996-2000 về sản xuất lương thực, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển nông thôn, phát triển hàng hóa, dịch vụ, đào tạo nguồn nhân lực đều đạt kế hoạch. Chương trình sản xuất lương thực đã có bước tiến triển rõ rệt, năm 2000 đạt sản lượng 2,2 triệu tấn, năm 2005 đạt 2,6 triệu tấn, lần đầu tiên tự túc được lương thực, có dự trữ quốc gia và xuất khẩu; cam kết đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 2,5 tỷ USD. Nhịp độ tăng trưởng trung bình 5,9-6%, năm 2005 tăng 7,2%; 2006 đạt 7,4%. Thu nhập bình quân đầu người tăng dần, năm 2000 đạt 298 USD/người; năm 2005 đạt 491 USD/người, năm 2006 ước tính đạt 546 USD/người. Kinh tế đối ngoại: đến năm 2005, Lào có quan hệ thương mại với 50 nước, ký hiệp định thương mại với 19 nước, 35 nước cho Lào hưởng quy chế GSP. Kim ngạch buôn bán hai chiều hàng năm đạt trên 01 tỷ USD triệu USD. Hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là khoáng sản và hàng nguyên vật liệu. Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lần thứ VIII (3/2006) đề ra mục tiêu đến năm 2020: Xây dựng vững chắc hệ thống chính trị dân chủ nhân dân, trong đó Đảng là hạt nhân lãnh đạo, giữ vững ổn định chính trị, an ninh trật tự an toàn xã hội; đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển; kinh tế phát triển dựa trên sự phát triển nông nghiệp vững chắc và lấy phát triển công nghiệp làm cơ sở, tạo tiền đề cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo chuyển biến cơ bản về chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực; phát triển nhịp nhàng các thành phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể được củng cố và phát triển vững mạnh. GDP sẽ tăng gấp 3 lần năm 2000; chủ động mở rộng hợp tác quốc tế. Về đối ngoại, Đại hội Đảng VIII (3/2006) đã nhấn mạnh tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại hoà bình, độc lập, hữu nghị và hợp tác; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ; thực hiện chủ trương Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước nhằm bảo đảm lợi ích chung và lợi ích riêng của mỗi bên; nhấn mạnh tiếp tục củng cố, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với các nước XHCN, trong đó tiếp tục tăng cường tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện với Việt Nam, hợp tác toàn diện với Trung Quốc và các nước anh em khác, thắt chặt quan hệ hợp tác với các nước láng giềng có chung biên giới, tích cực tham gia hoạt động trong ASEAN trên tinh thần giữ vững các nguyên tắc cơ bản của ASEAN. 2 Lào là quốc gia có nhiều tiềm năng về khoáng sản, thủy điện, nông - lâm nghiệp, nguồn lao động, đồng thời là cửa ngõ quan trọng để thâm nhập vào thị trường lớn của tiểu vùng châu Á với khoảng 150 triệu dân gồm các nước Thái Lan, Myanmar, Campuchia và Trung Quốc (tỉnh Vân Nam)… Lào thông qua Hiến Pháp mới năm 1991. Quốc hội có 85 đại biểu. Lào áp dụng một hệ thống hành chính bốn cấp gồm cấp trung ương và ba cấp địa phương. Cấp địa phương cao nhất là tỉnh có 17 đơn vị và thành phố Vientinane. Cấp địa phương thấp hai là các quận, huyện, thị xã. [11] [12] Cũng như một số nước đang phát1triển trong khu vực, nền kinh tế Lào xuất phát điểm thấp nên đang cần nguồn lực rất lớn để phát triển. Trong khi đó, thị trường tài chính Lào còn rất đơn sơ, thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động (mới khai trương vào 10/10/2010), nên Chính phủ Lào rất hoan nghênh sự đầu tư của doanh nghiệp các nước vào thị trường Lào [6]. Tại Hội nghị hợp tác đầu tư Việt - Lào diễn ra (2011), dưới sự đồng chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng nước chủ nhà Thongsing Thammavong, sáu dự án với tổng số vốn đầu tư 410 triệu USD đã được cấp phép. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cũng chính thức khai trương Văn phòng đại diện, làm cầu nối cho các Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang đất nước “triệu voi” này. Có thể nói việc hợp tác giữa hai quốc gia góp phần mở ra một hướng đi mới cho các Doanh nghiệp Việt Nam để đầu tư vào môi trường mới.[7] Giữa năm 2011, hai hợp đồng tín dụng được các Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Liên doanh Lào – Việt (Lào Việt Bank) ký kết với các Doanh nghiệp với tổng giá trị đầu tư 114 triệu USD, trong đó BIDV tài trợ 60 triệu USD, Lào Việt Bank tài trợ 20 triệu USD [16]. Đứng về phía các ngân hàng trong nước thì việc tài trợ cho các dự án của các Doanh nghiệp khác như chấp nhận một cuộc chơi và sân chơi mới, để từ đó hỗ trợ các Doanh nghiệp khác cùng phát triển hoạt động đầu tư đầy tiềm năng này. Hoạt động của các ngân hàng hiện có rất nhiều tiềm năng phát triển trong bối cảnh cả hai nước đang tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, đa dạng và đa phương hóa các mối quan hệ kinh tế. Hợp tác kinh tế được mở rộng trên tất cả 3 các lĩnh vực, tất cả phương diện, vượt ra ngoài lãnh thổ Việt Nam là một nhu cầu tất yếu. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các Ngân hàng nói riêng đang thực hiện đầu tư vào Lào trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, dành ưu tiên, ưu đãi hợp lý cho nhau, phù hợp với tính chất của quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Hiện có khoảng 80 doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động tại Lào dưới các hình thức công ty liên doanh, văn phòng đại diện, cửa hàng, siêu thị… trong các lĩnh vực xây lắp, chế biến sản xuất, thương mại và dịch vụ. Số tài khoản thanh toán mở ở Ngân hàng liên doanh Lào - Việt tại Viêng Chăn là khoảng 320 tài khoản [3]. Với nhu cầu đầu tư và phát triển của các Doanh nghiệp nói chung hiện nay cũng là một trong những nguồn lợi nhuận vô vàn, tạo điều kiện trong nhu cầu các Ngân hàng tại Việt Nam có ý định tiến sang Lào để hoạt động. Cơ hội có, cách thức có thể tìm kiếm, đó là nhu cầu tất yếu trong hoạt động kinh doanh. Như nguồn thông tin không chính thức, hầu hết các Ngân hàng trong nước đều sơ khai ý định thành lập “ngân hàng con”, chi nhánh, Văn phòng đại diện tại Lào như Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội (SHB), Ngân hàng TMCP Quân Đội Việt Nam (MB), Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (MSB);… Với sân chơi mới đó, các Ngân hàng, ngoài việc chấp thuận của “Ngân hàng mẹ” là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn phải được sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước tại Lào. Để đạt được kết quả này, mỗi Ngân hàng phải tìm cho mình một con đường đúng đắn như loại hình thành lập, cơ cấu bộ máy tổ chức, nhân sự, phương án kinh doanh...Việc lựa chọn hình thức doanh nghiệp trước khi bắt đầu công việc kinh doanh là rất quan trọng, nó có ảnh hưởng không nhỏ tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Về cơ bản, những sự khác biệt tạo ra bởi loại hình doanh nghiệp là: (i) pháp luật chi phối; (ii) khả năng huy động vốn; (iii) rủi ro đầu tư; (iv) tính phức tạp của thủ tục và các chi phí thành lập doanh nghiệp; (v) tổ chức quản lý doanh nghiệp. Có thể nói, hệ thống pháp luật Lào luôn là rào cản khó khăn nhất khi các Ngân hàng trong nước tiếp cận. Mặc dù, trong quá trình hoạt động kinh doanh tại Lào, các doanh nghiệp Việt Nam đều nhận được sự quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ của các cấp chính quyền và nhân dân Lào, nhưng hiện nay công tác thông tin và tư vấn cho các Ngân hàng mong 4 muốn hoạt động tại Lào còn rất nhiều hạn chế, chưa có giải pháp hữu hiệu để thu thập, biên dịch, in ấn cung cấp các văn bản pháp luật của cả Việt Nam và Lào. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc tìm hiểu pháp luật Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Lào là cần thiết và có tính thời sự. Ngoài ra, cần thiết phải làm rõ các quy định của pháp luật Lào về mặt nội dung cũng như thủ tục pháp lý quy định về việc cấp Giấy phép, về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Lào, cũng như với mong muốn tìm hiểu, phân tích thực trạng và rút ra những bài học kinh nghiệm cho các Ngân hàng nước ngoài (mà cụ thể là ngân hàng Việt Nam) khi tham gia vào thị trường ngân hàng đầy tiềm năng tại Lào, học viên đã tôi mạnh dạn chọn đề tài “Về việc thành lập và hoạt động của Ngân hàng nước ngoài tại Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào” làm đề tài cho luận văn cao học của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên hệ thống quy phạm pháp luật hiện nay của Lào điều chỉnh về lĩnh vực ngân hàng nhằm phục vụ tốt nhất cho việc tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Lào Đề tài sẽ nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống để góp phần làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến các quy định về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Lào, từ đó đưa ra các bài học kinh nghiệm cho các ngân hàng nước ngoài (chủ yếu ngân hàng Việt Nam) về việc Ngân hàng Nhà nước Lào cấp giấp phép thành lập và hoạt động của ngân hàng thương mại, Giấy phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Giấy phép thành lập văn phòng đại diện tại Lào. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chủ yếu đi sâu nghiên cứu các quy phạm pháp luật của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào quy định về tổ chức và hoạt động của ngân hàng 5 thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Lào. Cụ thể tìm hiểu các văn bản pháp luật có liên quan đến đề tài nghiên cứu, như: Luật doanh nghiệp Lào năm 2005; Luật Ngân hàng thương mại số 03/QH ngày 26/12/2006 của Quốc hội Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; Luật đầu tư nước ngoài Lào năm 2005; Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài Lào năm 2004; Quyết định số 686/NHNN của Ngân hàng Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ngày 31/10/2007 về việc thu lệ phí hàng năm và lệ phí các đơn mẫu thủ tục xin cấp Giấy phép thành lập Ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính. Ngoài ra, đề tài nghiên cứu các thủ tục xin cấp phép đầu tư ra nước ngoài cho các Ngân hàng có các chinh nhánh hay văn phòng đại diện tại Lào. Phạm vi nghiên cứu của đề tài, đề tài nghiên cứu tại lãnh thổ của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và các lãnh thổ nước ngoài (có ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Lào) có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài. Tuy nhiên, trong phạm vi của luận văn cũng như sự hạn chế của nguồn tài liệu đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam, chi nhánh ngân hàng Việt Nam, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng Việt Nam, tổ chức khác của Việt Nam có hoạt động ngân hàng tại Lào. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Cũng như nhiều khoa học pháp lý khác, trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài, luận văn đã sử dụng phương pháp nghiên cứu như biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như quan điểm đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về đầu tư ra nước ngoài của các ngân hàng Việt Nam hoặc các tổ chức khác có các hoạt động có liên quan đến lĩnh vực ngân hàng. Luận văn được nghiên cứu bằng các phương pháp khác nhau, có hệ thống và nhất quán nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu, ví dụ như các phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, so sánh pháp luật giữa các quy định của pháp luật Lào và pháp luật của Việt Nam, xem xét tính phù hợp giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật Lào, thu thập kinh nghiệm thực tiễn của một số Ngân hàng trong việc quy định và áp dụng các vấn đề 6 liên quan đến việc thành lập các chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài. Từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm cho các Ngân hàng. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần: Phần Mở đầu, Phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu làm 3 chương: Chương 1: Tổng quan các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng nước ngoài Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng nước ngoài tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Chương 3: Kiến nghị các giải pháp cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Chương 1 TỔNG QUAN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI CHDCND LÀO Với vị trí địa lý và mối quan hệ lịch sử đặc biệt, hai nước Lào và Việt Nam thiết lập mối quan hệ truyền thống từ lâu đời và ngày càng phát triển vững mạnh trên mọi phương diện về kinh tế, văn hoá, an ninh chính trị và quốc phòng. Hiện nay, Chính phủ hai nước đang chú trọng nâng quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá song phương lên một tầm cao mới. Trong lĩnh vực ngân hàng tài chính, sự hợp tác phát triển trong lĩnh vực ngân hàng nói chung, hoạt động của các ngân 7 hàng nước ngoài tại Lào nói riêng, đã có những bước tiến hết sức đáng kể trong thời gian vừa qua, và càng trở nên quan trọng hơn trong giai đoạn tới, xuất phát từ những lý do sau: Thứ nhất, phát triển hợp tác lĩnh vực ngân hàng hỗ trợ mạnh mẽ và có hiệu quả sự phát triển các hoạt động kinh tế giữa hai quốc gia. Hoạt động ngân hàng giúp cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, các dự án đầu tư, các hoạt động trao đổi thương mại hiệu quả hơn, đặc biệt là các doanh nghiệp và dự án của Việt Nam đã và đang thực hiện trên đất nước Lào. Việt Nam là một trong 3 quốc gia luôn dẫn đầu trong đầu tư vào Lào từ sau đổi mới. Hiện tại, Việt Nam đang xếp thứ hai về giá trị đầu tư vào Lào sau Trung Quốc. Với Việt Nam, Lào là địa bàn mà Việt Nam thực hiện đầu tư nước ngoài nhiều nhất. Giao thương giữa Lào và Việt Nam tăng trưởng nhanh với giá trị 1,1 tỷ USD trong giai đoạn 2006-2012. Dự kiến kim ngạch ngoại thương hai chiều Việt - Lào đến năm 2015 đạt 2 tỷ USD và tiến tới đạt 5 tỷ USD vào năm 2023 [7]. Khi các ngân hàng nước ngoài (mà cụ thể là các ngân hàng của Việt Nam) phát triển hoạt động trên lãnh thổ Lào, các doanh nghiệp của Việt Nam sẽ dễ tiếp cận với các hỗ trợ về vốn, thanh toán, các dịch vụ uỷ thác… hơn so với các ngân hàng không phải của Việt Nam. Vấn đề thông tin bất cân xứng (asymetric information) và chi phí giao dịch (transaction cost) trong giao dịch ngân hàng được giảm thiểu. Thứ hai, các Ngân hàng nước ngoài, mà cụ thể là các ngân hàng Việt Nam cũng tận dụng được các lợi thế và cơ hội phát triển từ sự hợp tác chặt chẽ lâu dài đã có trong lịch sử giữa hai quốc gia. Với sự hiểu biết về thị trường Lào, khả năng tận dụng nhân lực Lào đã và đang học tập ở Việt Nam trên các cấp đại học, cao học, thậm chí là bậc tiến sĩ, các ngân hàng Việt Nam đang có những lợi thế tương đối so với các Ngân hàng thương mại ở các quốc gia khác khi phát triển các chi nhánh của mình hoạt động trên thị trường Lào. Hơn thế nữa, Lào là một thị trường rất tiềm năng, với những cơ hội phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới đối với khu vực ngân hàng tài chính. Không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã phát triển hoạt động quốc tế của mình bắt đầu từ thị trường Lào. Thứ ba, phát triển hợp tác trong lĩnh vực ngân hàng tạo điều kiện nâng mối quan hệ hợp tác giữa hai nước lên tầm cao mới. Sự đổi mới và phát triển của hệ 8 thống ngân hàng Lào rất tương đồng với hệ thống ngân hàng Việt Nam, Việt Nam đã giúp Lào trong việc đổi mới hoạt động ngân hàng, cũng như các hoạt động kinh tế; và nước bạn cũng luôn đáp ứng sự hỗ trợ đó một cách nhiệt tình nhất. Do đó, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực ngân hàng, tập trung vào phát triển hoạt động ngân hàng nước ngoài tại Lào, là cơ hội để tiếp nối những thành công trong hợp tác từ trước đến nay, đảm bảo tính thống nhất và liên kết giữa hai nền kinh tế, hai xã hội, hai quốc gia. Ổn định hệ thống ngân hàng cũng là điều kiện tiên quyết cho sự ổn định xã hội và chính trị, hai “tài sản vô giá” mà Việt Nam và Lào có được trong điều kiện nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới đang lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - chính trị - xã hội trầm trọng. Từ đó việc tìm hiểu hệ thống văn bản pháp luật Lào liên quan đến việc thành lập và hoạt động ngân hàng là một trong những vấn đề quan trọng và mấu chốt, góp phần tạo điều kiện phát triển cho hệ thống ngân hàng đang “nung nấu” ý định sang thị trường Lào hoạt động. 1.1. Pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Ngân hàng 1.1.1. Pháp luật về đầu tư Để thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng nhân dân cách mạng Lào, Chính phủ đã ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư, trong đó quy định các cá nhân, tổ chức không chỉ là nhà đầu tư trong nước mà còn là các nhà đầu tư nước ngoài có quyền đầu tư tại CHDCND Lào trên nguyên tắc các bên cùng có lợi, hoạt động trên cơ sở của pháp luật của CHDCND Lào, nhà đầu tư sẽ được bảo vệ bởi pháp luật của CHDCND Lào. Trước xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá diễn ra mạnh mẽ, các nước XHCN đã có sự chuyển đổi quan trọng để làm hoàn thiện mình cho phù hợp với tình hình mới và phù hợp với nền kinh tế của các quốc gia. Trong bối cảnh đó, Chính phủ Lào đã có chính sách hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực kinh tế bắt đầu từ năm 1989. Chính phủ Lào đã mở cửa đón nhận việc đầu tư của nước ngoài, cho phép nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư theo ngành nghề kinh doanh do Nhà nước quy định trên cơ sở quy định của pháp luật CHDCND Lào, trong đó có mở cửa lĩnh vực ngân hàng cho các nhà đầu tư nước ngoài [9]. Hệ thống văn bản pháp luật của Lào được ban hành một cách thống nhất trong đó cơ sở pháp lý quan trọng nhất là Hiến pháp năm 1991. CHDCND Lào thực hiện chính sách mở rộng hợp tác kinh tế quốc đa phương, đa dạng hoá với mọi quốc 9 gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng, tự do, hoà bình và cùng có lợi. Nhà nước cũng khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh, thực hiện mục tiêu Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá, và phát triển nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng ban hành các văn bản pháp luật khác về công nhận đầu tư đối với hoạt động đầu tư trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, pháp luật về đầu tư của CHDCND Lào vẫn còn thiếu đồng bộ, nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Nhận thấy được vai trò to lớn của chính sách đầu tư, TW Đảng nhân dân cách mạng Lào đã đề ra nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của CHDCND Lào năm 2006-2010: “Thúc đẩy việc phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó quan tâm đến việc phát triển doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo môi trường đầu tư kinh doanh có sự hài hòa thông thoáng, đảm bảo sự an ngoài lành mạnh và có tính cạnh tranh cao so với khu vực. Phát triển kinh doanh có quy mô trung bình và nhỏ, làm cho tài chính kinh doanh có sự ổn định vững chắc, từng bước giải quyết và tiến tới việc giải quyết các khoản nợ nước ngoài. Tăng vốn cho việc đầu tư phát triển KTXH, lập dự án đầu tư phù hợp, tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng của quan hệ kinh tế với nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu, thu hút vốn nước ngoài và thực hiện ký kết các hiệp định song phương và đa phương ở phạm vi cấp Nhà nước, cấp địa phương và trong phạm vi các doanh nghiệp với nhau.”. Thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng nhân dân cách mạng Lào, Chính phủ đã ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư, trong đó quy định các cá nhân, tổ chức không chỉ là nhà đầu tư trong nước mà còn là các nhà đầu tư nước ngoài có quyền đầu tư tại CHDCND Lào trên nguyên tắc các bên cùng có lợi, hoạt động trên cơ sở của pháp luật CHDCND Lào, nhà đầu tư sẽ được bảo vệ bởi pháp luật của CHDCND Lào. Pháp luật đầu tư của Lào bảo đảm tính liên thông giữa các văn bản pháp luật liên quan như Luật Doanh nghiệp Lào năm 2005, Luật phá sản Lào, Luật ngân hàng thương mại Lào năm 2006, Luật đầu tư nước ngoài Lào năm 2005, Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài Lào năm 2004 ... trong đó Luật Doanh nghiệp Lào năm 2005 quy định việc thành lập công ty, hình thức, loại hình và kể cả việc góp vốn của các nhà đầu tư. Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và Luật Đầu tư nước ngoài 10 chỉ quy định về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, quy định về việc xem xét đơn xin phép đầu tư của các nhà đầu tư. Trong từng thời điểm cụ thể, CHDCND Lào đã ban hành một số các văn bản pháp luật về công nhận đầu tư đối với hoạt động đầu tư trong nước và nước ngoài như: Pháp luật đầu tư nước ngoài của Lào ngày 09/04/1988 được sửa đổi bổ sung bởi Luật Khuyến khích và quản lý đầu tư nước ngoài số 01/1994-QH ngày 14/3/1994, được Chủ tịch nước Lào công bố áp dụng thông qua Sắc lệnh số 23/CTN ngày 21/4/1994; Luật Khuyến khích và quản lý đầu tư trong nước số 03/95-QH ngày 14/10/1995 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật Khuyến khích đầu tư trong nước số 10/QH ngày 22/10/2004; Nghị định của Thủ tướng Chính phủ Lào về việc quản lý đầu tư của Nhà nước ngày 22/5/2002; Quyết định về tổ chức thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Lào ngày 22/3/2001, ngoài ra còn có một số văn bản pháp luật liên quan khác. Luật Đầu tư nước ngoài đầu tiên của CHDCND Lào được ban hành ngày 19/4/1988, đã được thay thế bằng Luật Khuyến khích và quản lý đầu tư nước ngoài được Quốc Hội thông qua ngày 14/3/1994, có hiệu lực tháng 6/1994 (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoài của CHDCND Lào). Luật này chỉ điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài. Theo Điều 1 Luật này, nước CHDCND Lào khuyến khích tư nhân và pháp nhân nước ngoài đầu tư tại CHDCND Lào trên nguyên tắc các bên cùng có lợi, tuân theo pháp luật của CHDCND Lào. Tư nhân và pháp nhân trên gọi là nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, các nhà đầu tư nước ngoài có thể hoạt động đầu tư trong mọi ngành kinh tế được Nhà nước cho phép đầu tư tại Lào bao gồm kinh doanh mở nhưng phải có điều kiện thông qua Uỷ ban quản lý đầu tư nước ngoài (FIMC), còn những ngành nghề kinh doanh dành cho công dân Lào thì trong một số trường hợp, Uỷ ban quản lý đầu tư nước ngoài sẽ xem xét giải quyết nếu thấy sự cần thiết. Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, đầu tư trực tiếp nước ngoài được định nghĩa là “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là số vốn đầu tư được thực hiện để thu lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở nền kinh tế khác so với nền kinh tế của nhà đầu tư, ngoài mục đích lợi nhuận, nhà đầu tư còn mong muốn giành được chỗ đứng trong việc quản lý doanh nghiệp và mở rộng thị trường”. Còn với Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển UNCTAD cũng đưa ra một doanh nghiệp về đầu từ trước tiếp nước ngoài. Theo đó, luồng vốn này bao gồm vốn được cung 11 cấp (trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp này. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài gồm có ba bộ phận: vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty. Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa : “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đổi với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy.” Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cũng đưa ra khái niệm: “Một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty”. Tuy nhiên không phải tất cả các quốc gia đều sử dụng mức 10% làm mốc xác định đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Trong thực tế có những trường hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc lớn hơn nhưng vẫn chỉ là người đầu tư gián tiếp.[17] Còn theo Luật số 11/QH ngày 22/10/2004 về khuyến khích đầu tư nước ngoài tại nước CHDCND Lào, Đầu tư nước ngoài được quy định như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài có nghĩa là thu hút vốn gồm có tài sản, công nghệ và nhân lực của nước ngoài vào CHDCND Lào với mục đích kinh doanh”. Các quan điểm và định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài được đưa ra tuỳ theo góc độ nhìn nhận của các nhà kinh tế, rát phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, dù được định nghĩa như thế nào thì bản chất của hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ tự bỏ vốn đầu tư. Qua đó, chúng ta có thể rút ra một định nghĩa chung nhất như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn để tạo lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư. Trong đó nhà đầu tư nước ngoài có thể thiết lập quyền sở hữu từng phần hay toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền quản lý, điều hành 12 trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư đó trên cơ sở tuân theo quy định của Luật ĐTNN của nước đó.[15] Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được hình thành từ mọi thành phần kinh tế: chính phủ, doanh nghiệp và tư nhân. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận vốn, nguồn vốn đầu tư này mang khoa học, kỹ thuật, bí quyết công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý cho nước tiếp nhận đầu tư. Nhà đầu tư trực tiếp sở hữu, sử dụng và quản lý vốn của mình, vì thế không có quan hệ vay mượn giữa nhà đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Có thể thấy, mục tiêu của việc khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài tại CHDCND Lào nhằm mở rộng các ngành kinh doanh thu hút vốn và ngoại tệ vào lưu thông trong nước, khuyến khích xuất khẩu và tìm kiếm thị trường nước ngoài để từ đó tiếp thu và học hỏi trình độ KHKT tiên tiến trên thế giới, phát triển và nâng cao trình độ cho người lao động trong nước, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người dân lao động, từ đó góp phần cải thiện và nâng cao đời sống xã hội. Vì mục tiêu nêu trên mà nội dung cơ bản pháp luật đầu tư của Lào quy định những nguyên tắc trong hoạt động đầu tư, các loại hình và ngành nghề đầu tư, các biện pháp khuyến khích, bảo hộ và quản lý việc đầu tư trong nước và nước ngoài. Và quan trọng nhất đó là việc quy định quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. 1.1.2 Pháp luật về ngân hàng Tính tất yếu khách quan của hoạt động đầu tư của Việt Nam sang Lào xuất phát từ tính khách quan chung của hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Khi quá trình tích tụ và tập trung vốn đã đạt đến mức độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Khi các doanh nghiệp nhận thấy việc đầu tư trong nước không còn mang lại lợi thế so sánh nữa, hoặc lợi thế so sánh thấp hơn so với đầu tư ra nước ngoài, các doanh nghiệp tiến hành đầu tư ra nước ngoài, vào các quốc gia lạc hậu hơn, có các yếu tố đầu vào sản xuất rẻ hơn nhằm thu được lợi nhuận cao hơn. Và điều tất nhiên là với việc đầu tư ra nước ngoài, điều quan trọng của một doanh nghiệp là nên nắm vững sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật nước 13 này. Nhận thấy rằng, quá trình đổi mới và phát triển của hệ thống ngân hàng Lào được thể hiện khá rõ nét qua thời gian, cụ thể [26]: Sự kiện Bắt đầu chính thức thực hiện chính sách đổi mới kinh tế Chuyển đổi hệ thống ngân hàng từ 1 cấp thành 2 cấp, tách riêng Lào 1986 1988 hệ thống ngân hàng nhà nước (ngân hàng trung ương) và ngân hàng thương mại Luật hoá việc phân định rõ chức năng và nhiệm vụ của NH trung 1990 ương, Ngân hàng thương mại Mở rộng hoạt động ngân hàng thương mại, khuyến khích khu vực 1992 tư nhân và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng Bắt đầu thực hiện đổi mới các Ngân hàng thương mại nhà nước 1996 Tái cơ cấu các Ngân hàng thương mại nhà nước 2003 Thực hiện cổ phần hóa một số Ngân hàng thương mại nhà nước 2009 Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại 2011 đến nay Cũng như pháp luật đầu tư thì pháp luật ngân hàng của Lào bảo đảm tính chặt chẽ giữa các văn bản pháp luật liên quan như Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Ngân hàng thương mại...Trong đó, Luật ngân hàng nhà nước năm 1995 quy định khá rõ vai trò của Ngân hàng Nhà nước: “Ngân hàng nhà nước là tổ chức tài chính của Chính phủ, có địa vị tương đương bằng Bộ, là ngân hàng trung tâm của cả nước, có trụ sở chính tại thủ đô. Tham mưu cho Chính phủ trong việc quản lý vĩ mô nền tài chính quốc gia. Khuyến khích và bảo vệ sự vững chắc của đồng tiền Kíp ở trong và ngoài nước, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế quốc gia. Làm cho hệ thống tài chính tiền tệ Lào hoạt động an toàn và có hiệu quả. Khuyến khích và tạo điều kiện để nguồn vốn trong và ngoài nước được vận hành hiệu quả. Góp phần giúp nền kinh tế Lào thực hiện được những mục tiêu chiến lược trong phát triển nền kinh tế xã hội”. Từ đó có thể hiểu, hệ thống Ngân hàng nhà nước tại Lào cũng có chức năng tương tự như Ngân hàng Nhà nước tại Việt Nam, tức là ngân hàng đầu não, cơ quan quản lý có trách nhiệm tổng thể đối với sự phát triển của tài chính vi mô, chịu trách nhiệm kiểm soát nguồn tiền, quản lý dự trữ và giám sát các ngân hàng thương mại. Có thể nói, Luật Ngân hàng nhà nước năm 1995 cũng quy định tương đối thành công trong việc hoàn thành mục tiêu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, điều chỉnh chính sách tiền tệ của nền kinh tế thị trường mới nổi, thực hiện đạt được mức tăng trưởng kinh tế theo từng năm. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan